Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

“số đỏ” và “kỹ nghệ lấy tây” của vũ trọng phụng, từ tác phẩm văn học đến tác phẩm sân khấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.48 KB, 115 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------

Phạm Thụy Ngọc Quỳnh

“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM
VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------

Phạm Thụy Ngọc Quỳnh

“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM
VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU

Chuyên ngành :
Mã số


:

Lý luận văn học
60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


1

LỜI CẢM ƠN
Luận văn này đánh dấu việc hoàn thành hai năm học Cao học của tôi. Đây
thật sự là một công việc mất nhiều thời gian và công sức; tuy nhiên, nó mang
lại cho tôi những kinh nghiệm quý báu. Trong quá trình thực hiện luận văn,
bên cạnh tôi luôn có sự hướng dẫn, động viên của thầy cô, gia đình và bạn bè.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn GS.TS HUỲNH NHƯ PHƯƠNG. Thầy vừa là người đã gợi ý cho tôi đề tài:
“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ
TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU để tôi tìm hiểu;
vừa là người hướng dẫn đầy tận tình, trách nhiệm suốt quá trình tôi thực hiện
luận văn này. Từ tận đáy lòng, tôi kính gửi đến Thầy lời chúc sức khỏe để
Thầy tiếp tục dẫn dắt và truyền đạt cho chúng tôi kiến thức cũng như kinh
nghiệm của Thầy trên con đường giảng dạy và nghiên cứu.
Mặt khác, tôi kính gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy cô khoa Ngữ văn, phòng
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm TP.HCM đã cùng đồng hành, dạy dỗ,
dìu dắt tôi trong suốt hai năm học qua từ việc học tập cho đến các công tác hỗ

trợ khác. Kiến thức, kinh nghiệm cùng sự giúp đỡ tận tình của Quý Thầy cô là
hành trang và nền tảng để tôi hoàn thành việc học tập của mình, mà luận văn
này là một dấu mốc quan trọng của quá trình đó.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình tôi vì đã
luôn là chỗ dựa vững chắc cho tôi ở mọi thời điểm. Cuối cùng, tôi muốn gửi
lời cảm ơn và lời chúc thành công đến tập thể lớp Lý luận văn học K21 cũng
như những người bạn khác vì đã đồng hành, chia sẻ cùng tôi nhiều khó khăn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012


1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn này được hình thành và phát
triển từ những quan điểm, ý kiến của cá nhân tôi, xuất phát từ nguyện vọng,
nhu cầu tìm hiểu việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu
(khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng) để
hình thành hướng nghiên cứu. Các kết quả được trình bày trong luận án là
trung thực. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Phạm Thụy Ngọc Quỳnh


1

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
5. Đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu ...................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
7. Những đóng góp mới của đề tài .................................................................... 8
8. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9
Chương 1: VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM SÂN KHẤU
1.1. Sự giao thoa giữa văn học và nghệ thuật sân khấu ............................. 10
1.2. Việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu ............. 19
1.2.1. Nguyên tắc chuyển thể .............................................................. 19
1.2.2. Phương thức chuyển thể ........................................................... 22
1.2.3.Việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sang tác
phẩm sân khấu ................................................................................................. 31
Chương 2: XUNG ĐỘT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU
2.1. Xung đột trong tác phẩm văn học......................................................... 39


2

2.1.1. Số đỏ - Xung đột giữa cái vô nghĩa lý và cái nghĩa lý .............. 40
2.1.2. Kỹ nghệ lấy Tây - Xung đột giữa dục vọng và những khát khao
chân chính ....................................................................................................... 45

2.2. Xung đột trong tác phẩm sân khấu ...................................................... 49
2.2.1. Xung đột qua hành động và cốt truyện kịch ............................. 50
2.2.2. Xung đột nội tâm nhân vật ........................................................ 54
Chương 3: NHÂN VẬT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU
3.1. Thế giới nhân vật trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng .......................... 60
3.1.1. Số đỏ – những chân dung biếm họa .......................................... 61
3.1.2. Kỹ nghệ lấy Tây – những kẻ khốn cùng tha hóa ....................... 68
3.2. Nhân vật trong tác phẩm sân khấu ...................................................... 71
Chương 4: NGÔN NGỮ TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU
4.1. Ngôn ngữ trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng ........................................ 80
4.1.1. Ngôn từ đa dạng phong phú...................................................... 80
4.1.2. Ngôn ngữ giàu chất khẩu ngữ, giàu hàm ẩn ............................. 88
4.2. Ngôn ngữ kịch ......................................................................................... 91
4.2.1. Độc thoại, đối thoại chân thực, nhiều ngụ ý, sâu sắc................ 91
4.2.2. Ngôn ngữ “cá tính hóa” ............................................................ 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103


1

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ĐH & THCN

:

Đại học và Trung học chuyên nghiệp


HN

:

Thủ đô Hà Nội

NLĐ

:

Người lao động (báo)

NS

:

Nghệ sĩ

NSND

:

Nghệ sĩ nhân dân

NSƯT

:

Nghệ sĩ ưu tú


Nxb

:

Nhà xuất bản

SK

:

Sân khấu

TP.HCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh

tr

:

Trang

TT&VH

:

Thể thao và Văn hóa (báo)


VH

:

Văn hóa (báo)


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghệ thuật là thành quả kì diệu, vĩ đại nhất của trí tuệ và tâm hồn
nhân loại. Trong quá trình vận động và phát triển, nghệ thuật ngày càng thỏa
mãn được những yêu cầu đa dạng phong phú của đời sống con người, đồng
thời, khẳng định tính độc lập của nó trước thực tiễn. Sở dĩ, nghệ thuật cần
thiết bởi vì chính trong nghệ thuật, con người tìm thấy sự biểu hiện cao nhất
và đầy đủ nhất những khả năng nhiều mặt của mình. Đó là văn học, âm nhạc,
hội họa, kiến trúc, điêu khắc…và sau này là sân khấu.
Các loại hình nghệ thuật có mối quan hệ qua lại, tác động và thâm
nhập lẫn nhau. Trong đó, mối quan hệ giữa văn học và sân khấu được xem là
“duyên phận”. Văn học trở thành nguồn “nguyên liệu” quan trọng cho sự phát
triển của sân khấu, đặc biệt là nghệ thuật sân khấu kịch . Rất nhiều các tác
phẩm kịch trên thế giới và cả ở Việt Nam đã được chuyển thể từ các tác phẩm
văn học nổi tiếng. Ngay từ ngày đầu phát triển, sân khấu đã coi văn học là
một “nguồn tài nguyên” lớn, trong đó có thể kể ra hai lý do chính yếu sau:
+ Thứ nhất, sân khấu luôn cần có những ý tưởng mới mẻ, những cốt
truyện hấp dẫn để thu hút khán giả. Vậy nên ngoài việc tự viết ra kịch bản thì
văn học chính là một nguồn cảm hứng lớn để các nhà biên kịch dựa vào đó để
làm ra những kịch bản chất lượng.

+ Thứ hai, những tác phẩm văn học, đặc biệt những tác phẩm văn học
nổi tiếng luôn có một số lượng lớn độc giả. Số lượng độc giả này đương nhiên
muốn nhìn những nhân vật của mình vốn từ trước đến nay chỉ hiển hiện trong
trí tưởng tượng bước khỏi trang giấy và hiện diện trên sàn diễn sân khấu.


2

Vậy nên một tác phẩm sân khấu dựa trên một tác phẩm văn học sẽ có
một lượng người hâm mộ sẵn có. Đây là lợi thế lớn về kinh tế đối với sân
khấu. Chính vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật sân
khấu, hàng loạt tác phẩm văn chương đã được dựng thành tác phẩm sân khấu,
đem đến “món ăn tinh thần” mới mẻ, “lạ miệng” cho sân khấu. Sân khấu kịch
đã biết khai thác mảnh đất màu mỡ của văn học để làm tiền đề cho sự phát
triển của mình. Thông qua kịch, tác phẩm văn học được tiếp nhận dưới góc
nhìn khác hơn và qua đó, dễ dàng đi vào đời sống. Đặc biệt, trong vài năm trở
lại đây nhiều sân khấu kịch ở TP.HCM đồng loạt đưa các tác phẩm văn học
lên sân khấu. Hàng loạt các vở kịch ăn khách trên các sân khấu kịch TP.HCM
hiện nay hầu hết là các tác phẩm chuyển thể từ văn học và trong số đó, chúng
ta phải kể đến trường hợp Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của
Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác
phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào
năm 1930, nhưng ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30
truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản dịch vở
kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm
bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Điều này chứng tỏ ông
có một sức lao động phi thường mà ẩn náu trong đó là một tài năng lớn, đúng
như lời nhận xét của nhà phê bình Trần Hữu Tá trong dịp kỉ niệm 100 năm
sinh của Vũ Trọng Phụng (1912 – 2012): “Cũng như rượu, một khi được

chưng cất bằng chất liệu tốt và bởi những nghệ nhân lão luyện, nó bất chấp
thời gian, thậm chí càng lâu năm càng quí. Sản phẩm văn hóa tinh thần của
loài người cũng vậy, một khi đã là kiệt tác, ắt sẽ bất hủ. Không phải người
nghệ sĩ nào cũng nào cũng có hạnh phúc bất tử với thời gian. Số này hiếm


3

lắm. Nhưng ta có căn cứ để tin Vũ Trọng Phụng sẽ có chỗ đứng xứng đáng,
rất bền vững lâu dài trong lâu đài văn học dân tộc.” [53]
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng dù ra đời cách nay hàng chục năm
nhưng vẫn còn gần gũi với thời đại chúng ta. Nếu quan sát cuộc sống xung
quanh, ta thấy những vấn đề mà Vũ Trọng Phụng đưa ra vẫn rất thời sự, các
nhân vật của ông vẫn rất “thật”, rất “đời”... Các tác phẩm của ông được sân
khấu chuyển thể rất thành công, được khán giả đón nhận nồng nhiệt, tạo thành
một “dòng chảy văn học trên sân khấu”. Tuy nhiên từ tác phẩm văn học đến
vở diễn không phải là một con đường bằng phẳng, dễ dàng mà đầy khó khăn,
thử thách. Vậy khi tác phẩm văn học được chuyển thể sang tác phẩm sân khấu
kịch, nó đã khai thác và chuyển hóa những gì? Nó có những biến đổi ra sao và
có bảo toàn được tính văn học nữa không? Ngược lại, nghệ thuật sân khấu
kịch đã tác động vào văn học như thế nào?
Với việc lựa chọn đề tài:“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC
PHẨM SÂN KHẤU, tôi mong tìm hiểu và lí giải được phần nào mối quan hệ
đa chiều, phức tạp đó.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học và nghệ thuật sân khấu kịch đều là các hình thái nghệ thuật
mang ý thức thẩm mĩ, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau.
Tác giả Lí Hoài Thu nhận định : “Kịch nói là một loại hình sân khấu mang
tính đặc thù rõ rệt. Chất liệu để nhà văn xây dựng nên các tác phẩm kịch nói

là ngôn ngữ văn học. Vì lẽ đó, kịch bản văn học là một trong những thể loại
chính của văn học, tiêu biểu cho một phương thức phản ánh – phương thức
kịch. Là một thể loại văn học nằm trong loại hình nghệ thuật kịch, tác phẩm
kịch nói chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên sân khấu.
Bằng những ưu thế riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí…nội


4

dung của kịch bản văn học được tái hiện lại một cách trực tiếp, sinh động
trên sàn diễn” [13, tr. 200].
Về việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu nói
chung, hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây nói riêng, trong các công trình
nghiên cứu, trên các báo, tạp chí, các website, diễn đàn, mạng xã hội.... đã có
không ít ý kiến trình bày, nhận xét:
Trong công trình Cơ sở lý luận văn học Lê Bá Hán nhận xét: “Nhắc
đến tên một bộ tiểu thuyết, một truyện vừa, một truyện ngắn hoặc một kịch
bản văn học quen biết, chúng ta liền nghĩ đến câu chuyện và những con người
được thể hiện trong đó...” [14, tr. 74]
Tác giả Huỳnh Như Phương cho rằng: “Những tác phẩm văn học
được chuyển thể thành công thường là những truyện kể có tính sân khấu theo
cách gọi của Otto Luwig. Đó là những truyện kể mà đối thoại của các nhân
vật được đưa lên hàng đầu và phần trần thuật được giản lược thành các chú
thích cho những câu đối thoại...” [46, tr. 112 – 113]
Nói về việc tác phẩm văn học trở thành “nguồn nguyên liệu” cho điện
ảnh, sân khấu, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Phương tiện kể cũng
là một phương diện của tự sự học (...) đề tài tiểu thuyết có thể đưa lên sân
khấu hay màn ảnh, cũng có thể dùng từ ngữ để kể cái đã xem trên màn bạc.
Tất nhiên cái xem trong phương tiện cụ thể là khác nhau, nhưng chúng ta
cũng chỉ xem cùng một truyện” [51, tr. 5]

Tác giả Đức Thành trong bài Những quyết định nhạy cảm viết: “Văn
học - Điện ảnh - Sân khấu mặc dù khác nhau về ngôn ngữ thể hiện nhưng xét
chung lại "họ" vẫn là những người hàng xóm thân thiết và lâu năm của nhau.
Những cuộc viếng thăm bao giờ cũng đáng quý và chờ đợi những "nồng nàn"
từ những cuộc "giao tiếp" đó sẽ được thể hiện...” [61].


5

Trên báo Đại đoàn kết, nhà báo Hiền Thư viết: “Việc chuyển thể các
tác phẩm văn học nổi tiếng không chỉ đơn thuần nhằm mục đích khắc phục
tình trạng khan hiến kịch bản hay hiện nay mà quan trọng hơn là góp phần
lưu giữ những cái hay, cái đẹp của văn học, cũng như quảng bá những giá trị
đó đến với thế hệ khán giả trẻ” [64]
Cụ thể hơn, khi đánh giá về diễn xuất của diễn viên trong việc thể hiện
các nhân vật ở vở diễn Số đỏ, nhà báo Cát Vũ trong bài viết Kịch Bắc ở Sài
Gòn đã viết: “Vở đã tạo cho hầu hết diễn viên tham gia một vai diễn mới để
đời: Minh Béo với vai cậu Phước “em chã”, Thúy Nga gây ấn tượng mạnh
với vai bà cố Hồng, Minh Hoàng - Cát Phượng trong vai ông bà Văn Minh,
Hồng Vân khẳng định đẳng cấp trong vai bà phó Đoan. [69]
Tác giả Trần Thanh Quang trong bài Đưa văn học đến với học sinh
qua sân khấu kịch, trên báo Giáo dục TP.HCM, đã tổng hợp một số ý kiến
đánh giá của giáo viên, học sinh khi xem xong vở diễn Số đỏ: “Vở kịch
chuyển tải được tinh thần cơ bản của tác phẩm. Những nội dung thể hiện trên
sân khấu đã lồng được những đoạn khác nhau trong tác phẩm mà văn bản tác
phẩm bị dàn trải”. [49]
“Diễn viên sử dụng ngôn ngữ bằng nhiều từ hiện đại chưa phù hợp
với tác phẩm. Về tính cách nhân vật, diễn viên đã lột tả được phần lớn tính
cách nhân vật như tác phẩm thể hiện nhưng chưa hoàn toàn. Giá như nhân
vật Xuân Tóc Đỏ láu cá hơn một chút, tinh ranh hơn một chút sẽ phù hợp với

nhân vật trong tác phẩm.” [49]
Nói về thành công của vở diễn Kỹ nghệ lấy Tây, tác giả Khôi Nguyên
nhận xét: “Với nội dung hấp dẫn, cách dàn dựng độc đáo cùng sự tham gia
của một “dàn sao” quen thuộc, Kỹ nghệ lấy Tây đã thu hút khán giả ngay từ
những xuất diễn đầu tiên” [41]


6

Bài Kỹ nghệ lấy Tây, “bàn thắng đúp” của Hồng Vân đưa ra nhận
định: “Bằng việc khai thác triệt để những yếu tố đối lập, từ ngoại cảnh cho
đến tâm lý nhân vật, Kỹ nghệ lấy Tây đã làm bật lên những bi hài trong xã
hội đương thời. Tiếng cười qua đi nhưng nỗi niềm chua xót cho những kiếp
người vẫn đọng lại trong lòng khán giả sau khi màn nhung khép lại” [74]
Tác giả Văn Bảy nhìn nhận: “Như là một tác phẩm phái sinh từ phóng
sự, trừ nhân vật Vũ Trọng Phụng còn khá lạc lõng, nói chung đây là một vở
kịch đáng xem...” [7]
Bài Khóc, cười cùng Kỹ nghệ lấy Tây của Thanh Hiệp đánh giá: “Kịch
Phú Nhuận không làm việc minh họa cho tác phẩm văn học, mà có những
sáng tạo để người xem cùng cười, cùng khóc với các nhân vật khi so sánh với
phóng sự mà mình đã đọc.” [19]
Trên báo Thế giới văn hóa, bài viết Đi xem Kỹ nghệ lấy Tây cho rằng:
“Với Kỹ nghệ lấy Tây, thực trạng xã hội của miền Bắc Việt Nam trước những
năm 1945 được tái hiện chân thật qua từng số phận. Chuyển thể tác phẩm
cùng tên của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Lê Chí Trung giữ lại hầu hết nội dung
của nguyên tác văn học.” [73]
Bên cạnh đó, còn rất nhiều bài viết như: Kịch Phú Nhuận tăng tốc
“hiện thực phê phán” (H.H) trên báo Tuổi trẻ [17], , Chính kịch hồi sinh
(Hiệp Thanh) [59], Cuộc “thay máu” thành công của sân khấu kịch Phú
Nhuận (Mai Trí) đăng trên báo Thanh niên [66], Thêm một Xuân Tóc Đỏ cho

Số đỏ (Nhật Lam) [31], bài Từ trang văn bước ra sân khấu (Song Minh) của
báo Giáo dục [39]...Hầu hết các bài báo này đều đưa ra những ý kiến xoay
quanh việc chuyển thể tác phẩm văn học – những khó khăn và khúc mắc,
đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá về hai vở diễn Số đỏ và Kỹ nghệ
lấy Tây trên sân khấu.


7

Những bài viết, nhận định trên đã gợi ý, giúp người viết thực hiện việc
tìm hiểu những nét khái quát cho đến việc khảo sát chi tiết, cụ thể và có hệ
thống việc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu (khảo sát
hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây). Để từ đó thấy rõ vai trò, sự gắn kết
của văn học và sân khấu trong việc sáng tạo vở diễn trên sân khấu.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài:
“SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG: TỪ
TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU, tôi nhằm:
- Tìm hiểu hiện tượng chuyển thể các tác phẩm văn học sang tác phẩm
sân khấu: trường hợp Vũ Trọng Phụng (Khảo sát hai tác phẩm : Số đỏ và Kỹ
nghệ lấy Tây)
- Mặt khác, việc thực hiện đề tài này sẽ giúp tôi hiểu biết thêm về văn
học và nghệ thuật sân khấu kịch, thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn
học và nghệ thuật sân khấu (nghệ thuật trình diễn).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa vào kết quả tìm hiểu sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác
phẩm sân khấu: trường hợp Vũ Trọng Phụng (Khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và
Kỹ nghệ lấy Tây), tôi nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu mục đích và tiêu chí lựa chọn các tác phẩm văn học để
chuyển thể thành kịch bản – phục vụ cho nghệ thuật sân khấu kịch.

- Tìm hiểu các nguyên tắc chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác
phẩm sân khấu.
- Xem xét việc chuyển thể các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng (hai tác
phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) sang tác phẩm sân khấu
- So sánh mối tương quan giữa tác phẩm gốc và tác phẩm chuyển thể


8

5. Đối tượng, giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu, điều kiện nghiên cứu có hạn, để tìm hiểu về
sự chuyển thể từ tác phẩm văn học đến tác phẩm sân khấu, đối tượng tìm hiểu
của đề tài là hai tác phẩm của Vũ Trọng Phụng : Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây.
Hai tác phẩm này là những tác phẩm ít nhiều đã có vị trí nhất định trong dòng
chảy của văn học, sau đó được chuyển thể, công diễn trên sân khấu và đã
nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả trên sân khấu kịch. Điều này
sẽ tạo những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu sự chuyển thể từ tác
phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu kịch của người thực hiện đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên,
trong luận văn tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp liên ngành: nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại
hình nghệ thuật (nói chung), mối quan hệ tác động qua lại giữa văn học và
nghệ thuật sân khấu (nói riêng)
- Nhóm các phương pháp phân loại, phân tích, so sánh: Nhóm các
phương pháp này giúp tôi hệ thống các cứ liệu để có thể đánh giá, nhận xét,
phân tích và rút ra kết luận, một số đề nghị cần thiết.
- Phương pháp hệ thống và tổng hợp: nhằm giúp người nghiên cứu
làm rõ một cách hệ thống, đầy đủ những tương đồng và khác biệt của tác
phẩm văn học gốc và tác phẩm sân khấu trong quá trình thực hiện việc

chuyển thể, để từ đó nhận thấy rõ mối quan hệ giữa văn học và sân khấu.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Phần nghiên cứu quá trình sáng tạo vở diễn (kịch) trên sân khấu từ tác
phẩm văn học (khảo sát hai tác phẩm Số đỏ và Kỹ nghệ lấy Tây) chủ yếu kế


9

thừa những kết quả nghiên cứu đã có trước đây. Tuy nhiên, luận văn đã cố
gắng tìm hiểu thêm một số khía cạnh mới chưa được các nhà nghiên cứu đề
cập, hoặc đã có đề cập nhưng chưa đi sâu. Sau đây, là một số đóng góp mới
của đề tài:
- Bước đầu thấy được những thuận lợi và khó khăn khi chuyển thể
một tác phẩm văn học sang tác phẩm sân khấu
- Thấy được những tương đồng, khác biệt trong việc xây dựng xung
đột, nhân vật, ngôn ngữ từ văn học đến sân khấu
8. Cấu trúc của luận văn
Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU (9 trang)
Gồm: Lí do chọn đề tài, Lịch sử vấn đề, Mục đích nghiên cứu, Nhiệm vụ
nghiên cứu, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Phương pháp nghiên cứu,
Những đóng góp mới của đề tài, Cấu trúc của luận văn.
Phần thứ hai : NỘI DUNG (88 trang) gồm bốn chương:
Chương 1 : VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM SÂN KHẤU (29 trang)
Chương 2 : XUNG ĐỘT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU (21 trang)
Chương 3 : NHÂN VẬT TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY” :
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM SÂN KHẤU (20 trang)
Chương 4 : NGÔN NGỮ TRONG “SỐ ĐỎ” VÀ “KỸ NGHỆ LẤY TÂY”:
TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC ĐẾN TÁC PHẨM SÂN KHẤU (18 trang)

Phần thứ ba : KẾT LUẬN (5 trang)
Danh mục tài liệu tham khảo.


10

Chương 1
VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
TÁC PHẨM SÂN KHẤU
1.1. Sự giao thoa giữa văn học và nghệ thuật sân khấu
Mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của
mĩ học và nghệ thuật học. Đây là mối quan hệ giữa các loại hình cùng gắn bó
trong một hệ thống và quan hệ giữa loại hình này với loại hình khác. thường
diễn ra ở dạng động và dạng tĩnh. “Ở dạng tĩnh, đó là quan hệ so sánh để tìm
ra những điểm giống nhau (tương đồng) hoặc khác nhau (sự tương dị). Ở
dạng động, đó là quan hệ có sự hợp tác liên kết trong quá trình sáng tạo
(quan hệ tương tác)” [68, tr. 10]
Văn học và sân khấu vốn dĩ đều là hình thái ý thức xã hội ý thức thẩm
mĩ – nghệ thuật, cùng có đặc tính chung, chức năng chung và cùng chịu sự chi
phối, quyết định của đời sống xã hội. Giữa chúng có mối liên hệ khá mật
thiết, chặt chẽ. Hai loại hình nghệ thuật này đều có chung đối tượng, đề tài,
chủ đề... Nếu văn học lấy cuộc sống làm đối tượng để phản ánh, thì sân khấu
cũng thế. Xét cho cùng, cả văn học và sân khấu đều là “tấm gương phản
chiếu” thực tiễn xã hội. Chúng cùng hướng đến những giá trị Chân – Thiện –
Mĩ, giá trị nhân văn của cuộc sống.
Chẳng hạn, khi khán giả xem vở kịch Làm..., vốn được chuyển thể từ
tiểu thuyết Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng, vẫn được thấy một câu chuyện còn
vẹn nguyên tính thời sự như thuở nào. Vẫn là những tên nhà giàu, quan chức
đạo đức giả thao túng xã hội. Vẫn là bi kịch của những cô gái mất trinh tiết
trước khi lập gia đình. Vẫn là những bậc làm cha, làm mẹ giấu giếm, bưng bít

chuyện giới tính để những cô, cậu bé khi bước vào tuổi dậy thì hoang mang
đến lạc lối lúc nào không biết, và cũng tương tự như vậy ở những vở kịch


11

chuyển thể khác. Đó là thông điệp cố gắng níu giữ hạnh phúc gia đình để
những đứa trẻ còn có cha có mẹ, đừng để chúng rơi vào hoàn cảnh côi cút
không đáng như đôi vợ chồng Út Vũ đã làm. Tình yêu thương tuy có vẻ bình
thường nhưng nếu cuộc sống không có yêu thương, nó sẽ không tồn tại trong
vở Cánh đồng bất tận. Là chuyện kể về thân phận bọt bèo của những tá điền
thuở trước, không chỉ cực nhọc vì gánh nặng tô thuế mà còn bị đám nhà giàu
hiếp đáp cả trong đời sống tình cảm trong vở Con nhà nghèo. Còn với vở Nửa
đời ngơ ngác chuyển thể từ truyện ngắn Chiều vắng của Nguyễn Ngọc Tư lại
là câu chuyện tình trái ngang vì người mẹ trọng giàu sang mà ép duyên con
gái, khiến hư thai, người tình cũ ở tù oan trở về với lòng thù hận và sống
trong hận thù (nhưng không trả) gần 20 năm...
Giữa văn học và nghệ thuật sân khấu luôn có sự giao thoa nhuần
nhuyễn. Bởi lẽ, nhà văn, nhà biên kịch đều là những người nghệ sĩ có cùng sự
đa cảm, trí tưởng tượng, sự tinh nhạy điêu luyện, cảm quan nghệ thuật .... Tư
duy của người nghệ sĩ sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật (nhà văn, nhà biên
kịch) là tư duy nghệ thuật. Họ phản ánh cuộc sống thông qua lăng kính của
nghệ thuật, phản ánh hiện thực theo quy luật của cái đẹp, cái thẩm mĩ nhằm
thể hiện và tái tạo một cách sinh động hiện thực cuộc sống với những nhu
cầu, khát vọng của con người. Cách nhìn, cách cảm nhận, suy nghĩ của nhà
biên kịch gần gũi với nhà văn cho nên khi tiếp cận tác phẩm văn học, nhà biên
kịch dễ dàng tiếp nhận, đồng cảm với những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn
gửi gắm trong tác phẩm văn học. Chính sự “giao lưu” này đã làm nên tiếng
nói chung, sự đồng điệu trong việc sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Nhà
văn khi viết tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn...không hề nghĩ “đứa con tinh

thần” của mình sẽ có “đời sống thứ hai” trên sân khấu. Nhưng nghệ thuật là
lĩnh vực của cảm xúc, của tình cảm nên tâm hồn người nghệ sĩ bao giờ cũng
gặp nhau qua tác phẩm. Vì lẽ đó, rất nhiều tác phẩm văn học đã trở thành


12

niềm cảm hứng thôi thúc các tác giả sân khấu viết nên những vở diễn mang
đầy tính nhân văn, truyền tải những thông điệp đầy ý nghĩa. Các nhà biên kịch
đã tìm thấy sự đồng điệu qua các tác phẩm văn học và họ mong muốn rằng
những tác phẩm văn học sẽ được cụ thể hóa và hiện hữu trên sân khấu.
Nhà biên kịch Minh Nguyệt, khi chuyển thể truyện ngắn Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đã chia sẻ : “Ngay khi mới bắt đầu tôi đã nghĩ
để viết một kịch bản độc lập là rất khó, nên phải dựa vào văn học. Thế nhưng,
để tìm chất liệu trong văn học cũng không dễ, vì truyện nhiều, nhưng không
phải tác giả nào mình cũng thích, nên khi gặp được Tư, tôi rất hạnh phúc,
truyện của bạn ấy mới và có cách xử lý thông minh. Truyện nào cũng rõ cái
tứ, cách khai thác thân phận hay, thấm đẫm tình người… đọc xong thấy xốn
xang và luôn buộc mình nhớ lại. Dù viết đề tài gì, Tư cũng có cách nhìn mới
lạ và sang trọng về mặt ý tưởng, không chỉ có éo le, đau khổ, bần cùng...” 1.
Đạo diễn Doãn Hoàng Giang, người dựng vở kịch Số đỏ (chuyển thể từ tiểu
thuyết cùng tên của Vũ Trọng Phụng) lại cho biết : “Từ ngày còn đi học, tôi
đã bị hấp dẫn bởi Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, một tác phẩm văn học có cốt
truyện hay. Các nhân vật được mô tả một cách cường điệu, khoa trương mà
vô cùng duyên dáng. Sự nhố nhăng của xã hội hiện lên một cách tài hoa....” 2
Tác phẩm sân khấu được bắt đầu từ kịch bản văn học. Thiếu kịch bản
văn học sẽ không thể hình thành vở diễn trên sân khấu. Đó là yếu tố đầu tiên
đảm bảo chất lượng, sự thành công cho vở diễn trong tương lai. Trong quá
trình “sáng tạo” ra tác phẩm để diễn trên sân khấu, giai đoạn sáng tác ra kịch
bản văn học là giai đoạn thể hiện tập trung nhất mối quan hệ mật thiết giữa

hai loại hình nghệ thuật – văn học và sân khấu (ở đây là sân khấu kịch nói).
Kịch bản văn học sân khấu là biểu hiện cụ thể của của tính văn học trong sân
1
2

Theo báo TT & VH, ngày 07/04/2012
Theo báo NLĐ, ngày 18/01/2002


13

khấu. Kịch bản trước hết tự nó phải là một tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập,
thể hiện đầy đủ những đặc điểm của một tác phẩm văn học. Kịch bản là bước
đầu tiên để hiện thực hóa những con chữ thành một câu chuyện trên sân khấu.
Trần Đình Sử trong Lý luận văn học – Tập 2: Tác phẩm và thể loại
văn học cho rằng: “Kịch bản là bản kịch gốc mà người ta dựa vào để dựng
thành vở diễn trên sân khấu. Kịch bản văn học là nền tảng, là bộ phận quan
trọng nhất làm nên một vở diễn. Kịch bản văn học là một bộ phận hợp thành
của nghệ thuật sân khấu và những điều kiện của sân khấu góp phần quyết
định đặc điểm riêng của kịch bản văn học” [52, tr. 323]. Cho nên, một vở
kịch chuyển thể từ tác phẩm văn học muốn có chất lượng, muốn thành công,
tất nhiên phải có kịch bản chuyển thể đáp ứng được những yêu cầu đặc trưng
của ngôn ngữ sân khấu. Những yếu tố cơ bản trong văn học cũng là những
yếu tố cơ bản trong kịch bản sân khấu như : xung đột, nhân vật, ngôn
ngữ...Các yếu tố trên được định hình trên giấy trước khi được chuyển thể
thành vở diễn trên sân khấu. Điều này lại càng đúng với những vở diễn được
cải biên, chuyển thể từ tác phẩm văn học.
Một vở diễn trên sân khấu cũng như một tác phẩm văn học, bao giờ
cũng phải có tính xung đột. Tác phẩm văn học và sân khấu chỉ có thể hình
thành, phát triển thông qua các xung đột. Việc lựa chọn, giải quyết các xung

đột sẽ giúp chúng ta thấy được tư tưởng nghệ thuật mà nhà văn, nhà biên kịch
gửi gắm trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Cả văn học và kịch nếu không
có xung đột thì chỉ là những hoạt cảnh nhạt nhẽo mà thôi!
Đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng cách đây hàng chục năm ta thấy được
sự xâm nhập của phong trào Âu hóa, những biến đổi đến không ngờ của con
người trong xã hội thành thị; thì nay ở vở diễn trên sân khấu, cũng vẫn là
những xung đột đó – xung đột giữa những Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, ông
bà Văn Minh...với cái xã hội thành thị “nửa vời”, đồng thời đó còn là xung


14

đột của chính nội tâm nhân vật! Những xung đột đó cứ như xoay vần, âm ỉ,
kéo dài mãi không thôi. Giống như thế, vở kịch Làm... (chuyển thể từ tiểu
thuyết Làm đĩ) nhằm tái hiện bi kịch của Huyền. Chính cuộc hôn nhân gặp
nhiều tan vỡ trong đời sống gia đình với người chồng ăn chơi nổi tiếng đất Hà
Thành là Tham Kim, đã đẩy Huyền đến bi kịch “làm đĩ” như bà mẹ kế. Còn
vở diễn Kỹ nghệ lấy Tây (chuyển thể từ phóng sự cùng tên) lại là câu chuyện
chuyện bi hài của các me hành nghề lấy Tây. Bi kịch của những người phụ nữ
này là ở chỗ, họ “được tiếng” là “lấy Tây” nhưng lại chẳng sung sướng gì cho
cam mà ngược lại, phải chịu sự dè bỉu, khinh khi, cái nhìn soi mói của người
đời. Không những thế, bi kịch đó được thực thi bằng “bản án” được truyền
đến cả đời con, đời cháu họ!
Tuy vậy, một tác phẩm và một vở diễn, tất nhiên không thể nào giống
nhau hoàn toàn. Nếu trong tiểu thuyết, phóng sự, truyện ngắn...xung đột được
thể hiện thông qua ngòi bút của tác giả, qua cách sử dụng ngôn từ của nhà
văn, được hiện thực hóa, hữu hình trên trang sách; thì vở diễn, do đặc trưng,
chịu sự chi phối của nghệ thuật sân khấu, xung đột lại được cụ thể hóa thông
qua hành động kịch, mà ở đây, chủ yếu là thông qua diễn xuất, cử chỉ, điệu
bộ, ngôn ngữ của nhân vật, của diễn viên...Văn học nói bằng ngôn ngữ hay

ngôn từ. Đây là một dạng chất liệu đặc biệt bởi nó mang tính phi vật thể,
trong khi đó, chất liệu của nghệ thuật sân khấu lại là âm thanh, sân khấu, diễn
xuất của diễn viên... Nếu chất liệu của văn học là phi vật thể; thì ngược lại, ở
sân khấu, đó lại là chất liệu vật thể. Đọc một tác phẩm văn học, người đọc
cảm nhận vẻ đẹp, giá trị của tác phẩm thông qua ngôn từ, qua cách sử dụng từ
ngữ của tác giả. Còn vở diễn trên sân khấu, lẽ dĩ nhiên, cũng sử dụng ngôn
ngữ, nhưng lại theo một cách khác – ngôn ngữ của hiệu ứng âm thanh, ánh
sáng, của sân khấu và quan trọng đó là ngôn ngữ diễn xuất của diễn viên. Ở
đó, ngôn ngữ diễn xuất của người diễn viên hóa thân thành ngôn ngữ nhân


15

vật. Đó là ngôn ngữ mang tính hành động, tính khẩu ngữ, tính hàm súc và tính
tổng hợp cao.
Có thể nói, trên sân khấu, người diễn viên đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Một kịch bản trở nên sống động, được khắc họa vào không gian - thời
gian bằng đời sống tâm hồn, bằng trái tim nóng với nhịp đập đời sống tươi
mới của những con người chỉ có thể dựa vào nghệ thuật diễn xuất của diễn
viên trên sân khấu. Một ý tưởng, một hình tượng nghệ thuật trong cấu tứ của
tác giả và đạo diễn cũng chỉ có thể được thể hiện và biểu đạt bằng nghệ thuật
diễn xuất của người diễn viên. Nghệ thuật diễn xuất của người diễn viên sân
khấu được biểu đạt bằng hành động sân khấu trong một không gian - thời gian
sân khấu. “Nghệ thuật biểu diễn là nghệ thuật của hành động. Hành động sân
khấu chính là cơ sở sáng tạo, là phương tiện nghệ thuật của người diễn viên”
[ 48, tr.18]. Cuộc sống sân khấu là quá trình hành động của các nhân vật, từ
sự khởi đầu cho đến kết thúc. Sân khấu phản ánh hiện thực cuộc sống thông
qua hành động, bằng diễn xuất của người diễn viên.
Đọc một tác phẩm văn học, người đọc có thể hình dung ra hình ảnh
của một Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, cô Tuyết, vợ chồng Văn Minh...trong Số

đỏ; hình ảnh của “đội quân” hành nghề “lấy Tây” trong Kỹ nghệ lấy
Tây....thông qua ngòi bút tài hoa, nhạy bén và sắc sảo của Vũ Trọng Phụng.
Bằng tài năng của mình, nhà văn đã dựng nên những nhân vật mang tính điển
hình, khái quát cao. Những vở diễn trên sân khấu (với tư cách là những tác
phẩm chuyển thể), lẽ dĩ nhiên, với những ưu thế riêng, đã giúp những nhân
vật từ trang sách được “tái tạo” lần nữa, để các nhân vật có “đời sống thứ hai”
trên sân khấu. Xem một vở diễn, khán giả có thể nhìn thấy nhân vật (vốn đã
được tái hiện trong tác phẩm văn học) “bằng xương bằng thịt”, để từ đó họ có
cái nhìn gần gũi, mới mẻ hơn về chính nhân vật văn học, về tác phẩm văn học
mà mình đã được đọc, được xem. Để làm được điều này, bên cạnh sự hỗ trợ


16

của cả một ê – kip thì vai trò của người diễn viên là vai trò trung tâm. Bởi lẽ,
hơn ai hết, họ hiểu rằng, một nhân vật văn học từ tác phẩm văn học bước ra
sàn diễn xem như được “khai sinh lần nữa”. Chẳng phải vì thế mà ta đã bắt
gặp một lần nữa hình ảnh của một Xuân Tóc Đỏ láu cá, xỏ xiên qua diễn xuất
của nghệ sĩ Đức Hải (vở Số đỏ), một bà Ách vừa đáng thương vừa đáng trách
qua tài nghệ diễn xuất của nghệ sĩ Hồng Vân, một me Tây Kiểm Lâm gai góc,
bất cần đời của diễn viên Trịnh Kim Chi...(vở Kỹ nghệ lấy Tây)....
Không chỉ vậy, nhờ lợi thế riêng của mình, đôi khi, tác phẩm sân
khấu, với tài diễn xuất của người diễn viên còn giúp làm đầy đặn hơn những
nhân vật – vốn chỉ được xem là nhân vật phụ, nhân vật làm nền cho sự xuất
hiện của nhân vật chính. Nói về điều này, có thể kể đến trường hợp của cậu
Phước (Minh Béo), thầy bói (Quyền Linh), vợ chồng Văn Minh (Minh Hoàng
– Cát Phượng)...trong Số đỏ; Duyên (Thúy Nga), Bond (Minh Nhí)...trong Kỹ
nghệ lấy Tây hay Lan dẹo (Như Phúc), Hết (Quang Thảo), Hoài (Kim Phước)
trong vở Nửa đời ngơ ngác....Chính sự xuất hiện của những nhân vật như thế
đã làm cho vở diễn thêm phần sinh động, nhiều màu sắc. Và cũng nhờ thế mà

kịch tính của tác phẩm sân khấu được tăng lên.
Nếu tác phẩm văn học miêu tả nhân vật bằng ngôn từ thì sân khấu là
nghệ thuật miêu tả hành động của con người bằng động tác. Hệ thống hành
động sân khấu được coi là hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật diễn xuất, biểu hiện
ngữ nghĩa của sân khấu. Hệ thống hành động sân khấu (tương tự như tác
phẩm văn học) bao gồm hành động hình thể, hành động ngôn ngữ và hành
động tâm lý v.v... của người diễn viên sân khấu. Hành động hình thể gồm
những động tác tạo nên từ hình thể người diễn viên. Hành động ngôn ngữ là
đối thoại, độc thoại, lời nói riêng. Hành động tâm lý chỉ những trạng thái có
thể ngừng lặng về ngôn từ của diễn viên, song cũng là lúc diễn viên hoàn toàn
dùng hành động biểu đạt thể hiện trạng thái sóng gió trong nội tâm nhân vật.


17

Chẳng hạn, trong phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây, nhân vật Duyên (trước
khi lấy Tây) đã được miêu tả thế này qua lời kể của bà Cẩm: “Sao không ở
làng ấy mà lấy thằng cổ cầy vai bừa nào thì lấy có được không? Thân phận
đã thế lại còn chê chồng! Không biết bố mẹ mày ăn uống gì mà đẻ ra mày
như thế chứ? Sào một xanh rau thì bắc lên hai con đỉa! Một tháng chưa tắm,
rận chấy lúc nào cũng như sung! Ngồi ăn cơm, ho một cái bắn vung cơm ở
mồm ra như mưa ấy! Chồng nó không chê thì thôi chưa lại còn chê chồng!
Tưởng ta...vàng...ngọc lắm đấy!” [45, tr.43 – 44]. Ấy vậy mà, Duyên đã thay
đổi. Cô đã biết “đánh phấn, bôi môi, kẻ lông mày” [45, tr. 47], lại còn biết
“liếc mắt một cái rồi cười” [45, tr. 47].... Lẽ dĩ nhiên, khi viết như thế, Vũ
Trọng Phụng muốn ta hình dung được một cô Duyên đã thay đổi như thế nào
trước và sau khi được “xung vào đội quân kỹ nghệ lấy Tây”, nhưng tính tổng
hợp của văn học diễn ra thông qua trí tưởng tượng của mỗi người đọc, được
miêu tả qua ngữ nghĩa. Sự hình dung đó đúng hay không đúng với sự vật
được miêu tả còn tùy thuộc ở trình độ hiểu biết và sự từng trải, kinh nghiệm

sống của mỗi người đọc. Chính vì vậy, đôi khi, người đọc không thể nào
mường tượng được hết những “ẩn chứa sâu kín” do ngôn từ mang lại và như
thế, nhân vật sẽ chỉ là nhân vật tồn tại, hiển hiện trên trang sách mà thôi!
Thế rồi, nhân vật sân khấu ra đời, khán giả lại có dịp thấy được một
nhân vật Duyên có đời sống, hành động, ngôn ngữ, điệu bộ...một Duyên
“người thật việc thật” hẳn hoi! Khác với ngôn từ phi vật thể của văn học,
nghệ thuật sân khấu phản ánh hiện thực cuộc sống bằng những hình ảnh cụ
thể, bằng diễn xuất của người diễn viên, thông qua hiệu ứng sân khấu, âm
thanh, ánh sáng...khiến cho người xem tưởng như mình đang nhập cuộc vào
câu chuyện. Để rồi, từ đó, khán giả có thêm cái nhìn đồng cảm với nhân vật,
với những gì đang diễn ra trên sân khấu, ngay trước mắt mình. Tác phẩm văn
học, nhờ thế, cũng được thẩm thấu dễ dàng, gần gũi hơn.


18

Duyên trong Kỹ nghệ lấy Tây trên sân khấu là một cô Duyên đầy biến
hóa. Khi mới xuất hiện, trông Duyên thật quê mùa, xấu xí đến kinh ngạc với
bộ răng vẩu, tóc tai bù xù, quần áo thì “lôi thôi lếch thếch”. Thế nhưng, khi
“ngấm” được những bài học “xương máu” từ dạo lấy chồng Tây, Duyên đã
thay đổi hẳn. Cô ăn mặc diêm dúa và sành điệu trong bộ quần áo “hoa hòe
hoa sói”, đến nỗi chính bà Ách – người “huấn luyện” cô cũng phải thốt lên:
“Mày đấy hả Duyên. Hết hồn...Sao mày lạ thế?”[76]. Và chính Duyên đã trả
lời với bà Ách thế này: “Cám ơn cô nhé. Ngày xưa đấy, cô nhìn thấy không,
cháu lúc nào cũng như là con chuột chù, hôi hoa tỏi. Nhưng từ ngày lấy Tây
bây giờ, nó cho một loại nước hoa gì, xịt vào...xịt con chuột chết nó cũng
thơm, huống gì là con...”, hay “Xin lỗi cô, con Duyên này bây giờ đã khác
xưa rồi!” [76]. Câu nói mang đầy sự chua chát đến không ngờ, sự thay đổi
của thành thị đã làm thay đổi cả số phận, tính cách của cả một con người!
Văn học nói chung sâu sắc và tinh tế hơn sân khấu, nhưng đọc một

cuốn truyện, nghe một bài thơ ta không thể thấy con người, cảnh vật...hiện ra
một cách hiện hữu, cụ thể như trên sân khấu mà chỉ có thể mường tượng, cảm
nhận chúng qua thông qua trí tưởng tượng mà thôi. Sự hình dung, tưởng
tượng đó đúng hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, vốn sống
cũng như sự từng trải của từng đối tượng độc giả. Sân khấu, với tư cách là
nghệ thuật tổng hợp, tái hiện cuộc sống bằng những hình ảnh, điệu bộ cụ thể
của người diễn viên. Đến với một vở kịch, khán giả có thể xem lại một cốt
truyện cũ, tình tiết vốn đã được viết trong tác phẩm văn học; thấy được những
nhân vật, vốn trước đây, chỉ được hình dung qua trang giấy, thì nay, bước ra
sân khấu, hiện diện trước mắt họ một cách đường hoàng, hẳn hoi!
Tóm lại, không thể phủ nhận rằng chính văn học là “mảnh đất màu
mỡ” cho sân khấu, còn sân khấu là nơi giúp văn học thăng hoa, đưa văn học
đến gần với độc giả, khán giả hơn


×