Tải bản đầy đủ (.pdf) (262 trang)

biểu tượng thẩm mỹ trong thơ thanh tâm tuyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 262 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Quốc Việt

BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ
TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

TP. Hồ Chí Minh – 2013


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Quốc Việt

BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ
TRONG THƠ THANH TÂM TUYỀN
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG

TP. Hồ Chí Minh - 2013




2

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời biết ơn chân thành và sâu sắc đối với PGS.TS. Đào
Ngọc Chương. Thầy luôn quan tâm, giúp đỡ hết lòng và tận tình chia sẻ cũng như
đã định hướng cho tôi trước rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn.
Và sự giúp đỡ của thầy còn khơi dậy niềm đam mê đối với nghiên cứu văn học. Đó
chính là động lực giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Phòng Sau
đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi khắc phục khó khăn, tiếp tục chương
trình đào tạo. Và tôi muốn gửi lời cảm ơn đến Khoa Ngữ Văn Trường đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh cùng tất cả thầy cô đã hướng dẫn học viên qua nhiều chuyên
đề. Tất cả trở thành định hướng lâu dài cho học viên trên con đường theo đuổi
nghiên cứu khoa học.
Tác giả luận văn cũng gửi lời cảm ơn bạn bè và những người thân trong
gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Học viên
Võ Quốc Việt


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 5
T
3


3T

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................. 5
T
3

3T

2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................... 7
T
3

3T

3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................... 9
T
3

3T

4. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................................... 11
T
3

3T

5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 11
T
3


T
3

6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................................... 14
T
3

3T

7. Cấu trúc luận văn .............................................................................................................. 14
T
3

3T

Chương 1: BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ - NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÍ LUẬN ........ 15
T
3

T
3

1.1. Những nét chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ .......................... 15
T
3

T
3


1.1.1. Hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ trong lí luận phê bình văn học
phương Tây thế kỷ XX ..................................................................................................... 15
T
3

3T

1.1.2. Nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ ở Việt Nam từ 1986 đến nay .............................. 18
T
3

T
3

1.2. Những vấn đề khái niệm ................................................................................................ 19
T
3

3T

1.2.1. Về biểu tượng ......................................................................................................... 19
T
3

3T

1.2.2 Những phân biệt cần thiết ........................................................................................ 29
T
3


T
3

1.3. Biểu tượng thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo .............................................................. 43
T
3

T
3

1.3.1. Về biểu tượng thẩm mỹ .......................................................................................... 43
T
3

T
3

1.3.2. Từ biểu tượng tâm lý đến biểu tượng thẩm mỹ ...................................................... 46
T
3

T
3

1.3.3. Biểu tượng thẩm mỹ – Ám ảnh và khát vọng sáng tạo ........................................... 53
T
3

T
3


Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ NỔI BẬT TRONG THƠ THANH TÂM
TUYỀN ..................................................................................................................................... 57
T
3

3T

2.1 Thanh Tâm Tuyền và thi ca Việt Nam hiện đại .............................................................. 57
T
3

T
3

2.1.1 Hành trình thơ Thanh Tâm Tuyền ........................................................................... 57
T
3

T
3

2.1.2. Thanh Tâm Tuyền giữa dòng chảy thi ca Việt Nam hiện đại ................................. 61
T
3

T
3

2.2. Biểu tượng Thể xác và Thành phố qua góc nhìn Hiện sinh........................................... 64

T
3

T
3

2.2.1 Thể xác – Biểu tượng của ám ảnh và tội lỗi ............................................................ 65
T
3

T
3

2.2.2. Thành phố – Biểu tượng của hư vô, lạc lõng và ruồng bỏ ...................................... 75
T
3

T
3

2.3. Biểu tượng Nước và Đất qua Phân tâm vật chất ............................................................ 83
T
3

T
3

2.3.1. Nước và sự hao mòn đời sống ................................................................................ 86
T
3


T
3

2.3.2. Đất của nỗi buồn, cô độc và niềm đau .................................................................... 97
T
3

T
3


4
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ
THANH TÂM TUYỀN .......................................................................................................... 104
T
3

3T

3.1. Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật và đổi mới thơ ca ở Thanh Tâm Tuyền ................ 104
T
3

T
3

3.1.1 Thanh Tâm Tuyền và bóng dáng của Nietzsche .................................................... 104
T
3


T
3

3.1.2. Về nghệ thuật đen ................................................................................................. 106
T
3

3T

3.1.3. Về sáng tạo, về thơ................................................................................................ 110
T
3

3T

3.2. Quá trình đổi mới và xây dựng biểu tượng thẩm mỹ................................................... 114
T
3

T
3

3.2.1. Những suy nghĩ về đổi mới thơ ca ........................................................................ 114
T
3

T
3


3.2.2. Việc tái thiết ngôn ngữ trong thơ Thanh Tâm Tuyền ........................................... 118
T
3

T
3

3.3. Những đặc trưng nổi bật trong nghệ thuật xây dựng biểu tượng thẩm mỹ .................. 122
T
3

3T

3.3.1. Những biểu tượng từ thủ pháp thơ Siêu thực........................................................ 122
T
3

T
3

3.3.2. Biểu tượng thẩm mỹ qua thủ pháp tạo hình Lập thể............................................. 129
T
3

T
3

3.3.3 Biểu tượng thẩm mỹ qua thủ pháp thơ Tân hình thức ........................................... 134
T
3


T
3

KẾT LUẬN............................................................................................................................. 144
T
3

3T

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 147
T
3

3T


5

MƠỞ ĐAẦ U
1. Lí do chọn đề tài

Nghiên cứu văn học đã quan tâm đến hình ảnh, kí hiệu, hình tượng và biểu

tượng. Riêng biểu tượng ngày càng được chú trọng tìm hiểu toàn diện hơn. “Người
ta sử dụng nó như là một thuật ngữ cả trong logic học, toán học, ngữ nghĩa học, kí
hiệu học, nhận thức học; ngoài ra nó còn đóng một vài trò trong các lĩnh vực như
thần học (“biểu tượng” nói riêng là một trong những từ đồng nghĩa của “tín ngưỡng”
– biểu tượng niềm tin), và nghi thức tế lễ, mĩ thuật, thi ca. Cái chung đối với tất cả ý
nghĩa hiện đại của từ này rõ ràng là thuộc tính ngụ ý một cái gì đó lớn hơn, ám chỉ

một điều gì đó chưa nói hết”[25;tr.336]. Chúng ta nhận thấy rằng biểu tượng xuất
hiện trong hầu hết các hình thái ý thức xã hội. Với khả năng hàm chứa ngoài những
ý nghĩa hiển nhiên trực tiếp, biểu tượng đã chi phối đến sự hình thành nội dung và
giá trị của các hình thái ý thức ấy, đặc biệt là tác phẩm văn học nghệ thuật. Cho nên,
việc nghiên cứu biểu tượng nói chung là hướng tiếp cận phù hợp cho việc thâm
nhập, lĩnh hội và phát hiện những quy luật nội tại của văn bản văn học cũng như văn
hoá nghệ thuật nói chung.
Như đã biết, hướng nghiên cứu biểu tượng đã trở thành một trào lưu rộng khắp
và kéo dài suốt thế kỷ XX trong giới nghiên cứu lí luận phê bình văn học phương
Tây. Hướng nghiên cứu này đóng góp đáng kể cho hoạt động nghiên cứu văn học
thế giới. Tại Việt Nam, nghiên cứu biểu tượng chỉ mới được quan tâm trong thời
gian gần đây. Chúng ta ghi nhận những đóng góp ấy. Nhưng hơn hết, chúng tôi cho
là cần thiết xây dựng hệ thống và nền tảng lý luận về nghiên cứu biểu tượng. Vì sự
phát triển bền vững và toàn diện luôn bắt đầu từ nền tảng cụ thể. Với năng lực và
kinh nghiệm nghiên cứu, tôi không suy nghĩ nhiều đến việc xây dựng một hệ thống
lí luận về biểu tượng, nhưng điều làm cho tôi băn khoăn và là mục tiêu hướng đến:
đó là gợi mở thêm một vài quan điểm trên con đường đến với biểu tượng học. Đây
là một lĩnh vực rộng lớn, đòi hỏi công sức của nhiều người. Và chúng tôi mong


6

muốn đóng góp, cũng như trân trọng những đóng góp nhiều phía đối với luận văn
này. Đó chính là những suy nghĩ trước nhất khi chúng tôi đến với nghiên cứu biểu
tượng.
Đối với thơ ca Việt Nam hiện đại, Thanh Tâm Tuyền lạ mà rất quen. Khởi đi
từ Thơ mới, thành tựu của những tác giả giai đoạn này ngày càng được khẳng định.
Thơ mới đặt nền tảng cho những cuộc cách tân thơ ca về sau. Phan Khôi mở lời, Thế
Lữ tiếp bước, và khuynh hướng lãng mạn nhất thiết phải nói đến Xuân Diệu. Đẩy
thơ ca đi xa hơn, Trường thơ Loạn đóng góp đáng kể về mặt thi pháp và thi liệu.

Hậu kì Thơ mới, chúng ta còn nhìn thấy những tia sáng chợt loé lên rồi phụt tắt. Đó
là Xuân Thu, là Dạ Đài. Tất cả đều là nỗ lực cách tân thơ Việt nói chung. Gần đây,
Trần Thanh Hiệp trò chuyện với Thuỵ Khuê trên RFI về những bạn văn “cùng một
lứa bên trời lận đận” từ những lúc còn hoạt động ở Hà Nội cho đến khi vào Sài Gòn.
Qua đó, ông nhận định: “nếu cuộc đổi mới mà chúng tôi thực hiện, có đóng góp chút
ít gì cho văn học Việt Nam thì công của Thanh Tâm Tuyền là rất lớn”.
Thanh Tâm Tuyền là tác giả có vị trí quan trọng trong văn học đô thị miền
Nam trước 1975. Thành tựu của Thanh Tâm Tuyền trước hết là thơ. Đóng góp quan
trọng là ở thi pháp, cách tư duy và một phong cách thơ hoàn toàn mới. Mặc dù vậy,
Thanh Tâm Tuyền vẫn là cái tên ít ai biết đến, đặc biệt là độc giả trẻ. Ngay cả khi
còn hoạt động và sáng tác văn học tại miền Nam Việt Nam trước 1975, ông vẫn là
tượng đài “kính nhi viễn chi”. Tuy nhiên, thơ ca Thanh Tâm Tuyền vẫn tràn đầy sức
sống và chưa hết mới mẻ. Nghiên cứu thơ Thanh Tâm Tuyền là công việc cần thiết
vì những cách tân ở thế giới thơ của ông đã thúc đẩy sự phát triển của thơ Việt hiện
đại, giúp thơ Việt hòa mình nhiều hơn vào dòng chảy chung của thơ ca thế giới. Tìm
hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền, chúng tôi đặc biệt chú ý đến vật chất tưởng tượng và
sức sống kì lạ của những biểu tượng khởi đi từ vô thức của một phong cách thơ cá
tính và đầy ám ảnh. Điều này lí giải tại sao chúng tôi đến với thơ Thanh Tâm Tuyền
từ hướng nghiên cứu biểu tượng trong luận văn này.


7

2. Lịch sử vấn đề
Biểu tượng là vấn đề không mới. Từ thời cổ đại, người ta đã quan tâm đến biểu
tượng. Đó còn là một chặng đường của tư duy. Biểu tượng là bước phát triển của tư
duy trong quá trình truyền đạt thông tin. Đóng vai trò là phương thức tư duy, nó đi
vào nhiều hoạt động tinh thần khác nhau. Trong đó, văn học là không gian phù hợp
cho sự tồn tại của hình ảnh, hình tượng, biểu tượng..... Nghiên cứu văn học theo
hướng biểu tượng thực sự định hình từ thế kỷ XIX. Tuy nhiên, giai đoạn này vẫn

chưa có nền tảng lý thuyết vững chắc về khái niệm biểu tượng. Có sự nhập nhằng
giữa biểu tượng với hình tượng và những khái niệm liên quan. Cuối thế kỷ XIX, với
trào lưu Tượng trưng trong thơ ca Pháp, người ta chú ý nhiều hơn đến biểu tượng.
Mặc dù như Raymond Firth, đó chỉ là quãng thời gian của những tranh luận kéo dài
về ý nghĩa biểu tượng.
Đến khi phân tâm học định hình do Sigmund Freud (1856-1939) xây dựng và
Carl Gustav Jung (1875-1961) phát triển thì nghiên cứu biểu tượng mới có được
những thành tựu đáng kể. Đã có nhận định cho rằng: Jung là người vẽ bản đồ nội
tâm con người đầy đủ nhất. Đặt nền tảng trên tâm lí học, nghiên cứu biểu tượng hầu
như động chạm đến tất cả các chuyên ngành khoa học xã hội. Nghiên cứu biểu
tượng ngày càng được quan tâm không chỉ trong lĩnh vực văn nghệ. Đó là giai đoạn
nửa sau thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, biểu tượng vẫn là một khái niệm
mang nhiều tính phổ quát. Mặc dù có sự phân biệt với hình ảnh, hình tượng, kí hiệu,
cổ mẫu... nhưng biểu tượng của Jung vẫn là một biểu tượng tâm lí hơn là biểu tượng
thẩm mỹ. Đi xa hơn, giới nghiên cứu thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng với các
chuyên ngành khác trong đó có nghiên cứu văn học. Nhưng việc hiểu về biểu tượng
thẩm mỹ vẫn dừng lại ở cấp độ biểu tượng tâm lí.
Tại Việt Nam, giai đoạn trước 1954 hầu như các khuynh hướng lí luận phê
bình vẫn chưa thật sự tiếp cận và hoà nhịp với lí luận phê bình văn học thế giới. Sau
1954, giới nghiên cứu văn học tại Sài Gòn có nhiều điều kiện giao lưu học tập nên
đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để nói về một trào lưu


8

nghiên cứu biểu tượng trong văn học đô thị Miền Nam thì theo như chúng tôi tìm
hiểu vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu đối tượng này.
Từ sau đổi mới, sáng tác văn học cũng như hoạt động lí luận phê bình văn học
được tiếp thêm sinh lực mới, đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Việc giao lưu, tiếp
biến, và ứng dụng các lí thuyết phê bình văn học nước ngoài được mở rộng. Có thể

kể đến kí hiệu học, chủ nghĩa hậu hiện đại, thuyết người đọc và biểu tượng học. Đưa
vào nghiên cứu và giảng dạy biểu tượng ở bậc đại học có thể nói là bước tiến đáng
kể cho hoạt động nghiên cứu biểu tượng tại Việt Nam (cụ thể là Đại học Khoa học
xã hội và Nhân Văn Hà Nội, Khoa học xã hội và Nhân Văn Tp. Hồ Chí Minh, Đại
học Văn hoá Hà Nội). Có thể kể ra rất nhiều công trình và bài viết gần đây đề cập
đến biểu tượng trong văn học. (- Biểu tượng nước trong thơ ca dân gian và thơ ca
hiện đại các dân tộc ít người; - Biển: biểu tượng của vũ trụ trong thơ Huy Cận; - Về
biểu tượng Lửa trong thơ Nguyễn Quang Thiều; - Biểu tượng giấc mơ trong thơ
Nguyễn Bính; - Biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ; - Biểu tượng trong thơ thiền
Lý – Trần; - Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn kí hiệu học; - Cấu trúc luận trong
nghiên cứu biểu tượng….). Nghiên cứu biểu tượng cơ hồ là một trào lưu thời thượng
của giới nghiên cứu trong thời gian gần đây. Nhưng dễ hiểu, hướng nghiên cứu này
bổ sung đáng kể cho diện mạo lí luận phê bình văn học Việt Nam. Chúng tôi đến với
nghiên cứu biểu tượng cũng với mục đích ấy. Một phần hoà vào dòng chảy chung,
nhưng hơn hết, chúng tôi - thông qua luận văn này – mong muốn gợi mở thêm một
vài điểm nhìn về nghiên cứu biểu tượng trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
Về Thanh Tâm Tuyền, đây là nhà thơ hầu như bị độc giả hiện nay quên lãng,
thậm chí hoàn toàn xa lạ với người đọc trẻ. Việc nghiên cứu tác phẩm của ông gặp
phải rất nhiều khó khăn, trước hết là vấn đề tài liệu. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận
thấy nghiên cứu về Thanh Tâm Tuyền đặt ra rất nhiều vấn đề với những thách thức
chung cho nghiên cứu văn học đô thị miền Nam trước 1975. Bước vào thế giới thơ
Thanh Tâm Tuyền, người đọc phải tuân thủ những luật lệ của ông. Nhà thơ cũng là
vua, là ông hoàng của cô độc. Phải chăng vì thế mà có rất ít công trình tìm hiểu thơ
Thanh Tâm Tuyền. Có chăng là một vài bài viết tưởng niệm sau khi ông qua đời. Đa


9

số được viết bởi những bạn văn thân thiết, mến mộ tài thơ của ông (- Nhớ nghĩ về
Thanh Tâm Tuyền, những điều chợt đến… của Trần Thanh Hiệp; - Thanh Tâm

Tuyền của Khánh Phương; - Nói thêm về Thanh Tâm Tuyền của Phan Lạc Phúc; Thanh Tâm Tuyền trong văn học Việt Nam hiện đại của Bùi Ngọc Tuấn; - Thanh
Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo của Dương Nghiễm
Mậu….). Nhìn chung viết về nhà thơ này, bài vở chỉ dừng lại ở mức giới thiệu, kể
lại một vài kỷ niệm, hay những đánh giá bước đầu về thơ Thanh Tâm Tuyền. Riêng
công trình của Trần Hữu Vinh với “Thi pháp thơ Thanh Tâm Tuyền qua Tôi không
còn cô độc và Liên-Đêm-Mặt trời tìm thấy” phác hoạ được phần nào thế giới nghệ
thuật của nhà thơ. Tuy nhiên, công trình chưa làm nổi bật được những gì được gọi là
“đặc sản”, hay những thành tựu cách tân, những đỉnh cao trong sáng tác của ông.
Nếu chỉ dừng lại ở những thủ pháp như tính hàm súc đa nghĩa, giàu tính văn xuôi
hay các phép tu từ quen thuộc thì Thanh Tâm Tuyền vẫn chưa có nhiều đóng góp
cho thơ ca Việt Nam. Thông qua việc tìm hiểu và ghi chép, chúng tôi nhận thấy:
nghiên cứu về Thanh Tâm Tuyền vẫn còn ít ỏi và hạn chế, riêng hướng tiếp cận biểu
tượng đối với thơ ông thì hầu như không tìm thấy. Đây cũng là một thách thức đối
với chúng tôi trong luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Xác định tính cấp thiết của đề tài, chúng tôi đặt ra những mục đích cần đạt
được trong quá trình nghiên cứu:
a. Phần thứ nhất:
Trước hết, chúng tôi phác hoạ tổng quan về hoạt động nghiên cứu biểu tượng
trong nước cũng như giới lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, xem đây
là nền tảng và là góc nhìn tham khảo quan trọng đối với việc hiểu về biểu tượng.
Thông qua trình bày cách suy nghĩ của mình về biểu tượng thẩm mỹ dựa trên
những quan niệm vốn có; đặc biệt là quan niệm của các nhà phân tâm học; chúng tôi
còn phân biệt giữa biểu tượng với những khái niệm liên quan. Quan trọng hơn, luận
văn góp phần xác định cách hiểu về khái niệm biểu tượng thẩm mỹ. Bên cạnh đó,


10

chúng tôi trình bày thêm một cách hiểu về biểu tượng thẩm mỹ và biểu tượng nghệ

thuật.
Luận văn xác định phải trình bày được quá trình hình thành và biểu hiện của
biểu tượng thẩm mỹ đặc biệt trong lĩnh vực văn học. Đây là vấn đề mà chúng tôi đặc
biệt quan tâm trong chương thứ nhất. Con đường từ biểu tượng tâm lí đến biểu
tượng thẩm mỹ đòi hỏi người viết đào sâu vào tư tưởng của các nhà phân tâm học;
nhưng trong phạm vi cho phép của luận văn thạc sĩ, chúng tôi hầu như tiếp cận được
những khái niệm bước đầu và nền tảng. Để có được góc nhìn toàn diện hơn, e rằng,
chúng tôi cần phải có nhiều thời gian hơn. Do đó, những phát biểu và suy nghĩ của
chúng tôi ít nhiều xuất phát từ quan niệm và lập luận riêng với mong muốn học tập
và trao đổi.
b. Phần thứ hai:
Tìm hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền bằng việc khảo sát thế giới biểu tượng và
nghệ thuật thơ, chúng tôi muốn khơi dậy sự quan tâm nhiều hơn đối với nhà thơ này.
Theo tìm hiểu mà chúng tôi có được, Thanh Tâm Tuyền thực sự là một nhà thơ có
nhiều đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại. Qua luận văn này, chúng tôi muốn
trình bày rõ hơn về những đóng góp ấy.
Thông qua đó, chúng tôi phát hiện những biểu tượng thẩm mỹ trong thơ ông,
xem như một hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ và mang đến những biểu tượng thẩm
mỹ độc đáo. Trong phần này, với mục đích đã nêu, chúng tôi trình bày hệ thống biểu
tượng thẩm mỹ qua hai góc nhìn: 1 – dưới góc độ của khuynh hướng hiện sinh và 2
– quan điểm phân tâm vật chất.
Thanh Tâm Tuyền và tạp chí Sáng Tạo cũng như những bạn văn từ trước khi
đến với Sáng Tạo thật sự gây dựng được cuộc đổi mới mạnh mẽ trên thi đàn bấy giờ.
Tất nhiên, độ dài hơi và những giá trị mà họ đóng góp còn là việc chúng ta cần thêm
thời gian để nghiên cứu nhưng những nỗ lực, đóng góp ấy nên được ghi nhận. Ở
đây, chúng tôi mong muốn trình bày quá trình cách tân ở thơ Thanh Tâm Tuyền. Và
cho thấy, quá trình này đã ảnh hưởng gì đến sự hình thành biểu tượng thẩm mỹ.


11


Vấn đề “cái mới” trong thơ Thanh Tâm Tuyền, có lẽ mỗi hướng nghiên cứu lại
mang đến một nét riêng. Luận văn này cũng chỉ dừng lại ở việc trình bày những nét
mới của nhà thơ dưới góc nhìn biểu tượng. Chúng tôi cho rằng nên xem xét những
kết quả nghiên cứu khác biệt ấy là sự bổ sung hơn là mâu thuẫn. Văn học cơ hồ là
một bức tranh đa dạng, đa diện và nhiều màu sắc.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt cơ sở lí luận, chúng tôi tìm hiểu trong phạm vi thành tựu nghiên cứu
biểu tượng của giới lí luận phê bình văn học Âu-Mỹ thế kỷ XX. Mặc dù, sự quan
tâm dành cho biểu tượng, hay sự manh nha cho chuyên ngành biểu tượng học đã
xuất hiện từ lâu, nhưng phải đến thế kỷ XX thì nghiên cứu biểu tượng mới có được
những thành tựu đáng kể. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ nên tập trung vào những thành
tựu của giới nghiên cứu Âu- Mỹ giai đoạn này.
Về Thanh Tâm Tuyền, ông là cây viết đa dạng. Ông vừa làm thơ, viết truyện,
viết báo, viết tiểu luận, tạp ghi. Tuy nhiên, người ta nhớ đến ông nhiều nhất là thơ.
Tài sản thơ của ông quan trọng nhất là hai tập được xuất bản trước 1975 tại Sài Gòn.
Riêng tập Thơ ở đâu xa được xuất bản ở hải ngoại không có nhiều đóng góp vào
con đường nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền. Do đó, chúng tôi xác định đối tượng
nghiên cứu biểu tượng thơ thông qua hai tập : - Tôi không còn cô độc (1956); Liên- đêm- Mặt trời tìm thấy (1964). Mặc dù có tham khảo thêm một vài truyện
ngắn, truyện dài và tiểu thuyết của ông trước 1975 nhằm mục đích so sánh, nhưng
trên hết vẫn là thơ và biểu tượng thẩm mỹ. Và chúng tôi cũng xác định phạm vi chủ
yếu của luận văn này là những biểu tượng đặc trưng nhất.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lí luận
Trước hết đó là những thành tựu nghiên cứu biểu tượng của giới lí luận phê
bình văn học Âu - Mỹ thế kỷ XX. Phân tâm học đóng góp đáng kể cho lĩnh vực
nghiên cứu văn học ở quan niệm về biểu tượng. Chúng tôi xem đó là một trong
những nền tảng lí luận quan trọng suốt quá trình thực hiện luận văn này.



12

Bên cạnh đó, trong sự liên hệ và mở rộng việc nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ
trong thơ Thanh Tâm Tuyền, một tác giả đa dạng, chúng tôi còn quan tâm đến chủ
nghĩa hiện sinh và khuynh hướng hiện sinh trong văn học đô thị miền Nam trước
1975. Đồng thời, tiếp biến các thành tựu văn học một cách rộng rãi và trực tiếp,
Thanh Tâm Tuyền là ngọn gió mới của thi đàn thời bấy giờ, mà trước hết, đó là
mạch nguồn siêu thực. Trào lưu Siêu thực cũng là vấn đề lí luận mà chúng tôi xem
là cơ sở cho luận văn này. Tiếp theo, những biểu hiện Tân hình thức trong thơ ông,
lôi cuốn chúng tôi khảo cứu về thi pháp của trường phái này. Quả thực, Thanh Tâm
Tuyền là một vũ trụ thơ đa dạng, đa tầng, đa chiều trong cái toàn thể vừa chuyển
động vừa tái tạo liên tục.
b. Phương pháp nghiên cứu cơ bản:
- Phương pháp khảo sát, thống kê:
Đến với các vấn đề quan niệm về biểu tượng hay tìm hiểu văn bản thơ Thanh
Tâm Tuyền, phương pháp này là công việc bước đầu nhằm nắm bắt những quan
niệm và liên hệ xung quanh biểu tượng, cũng như khám phá các chi tiết và hình ảnh
nào đã thể hiện sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả. Chính những dữ liệu khảo
sát và thống kê được là nền tảng cho việc hình dung về biểu tượng và những biểu
tượng nào thực sự nổi bật trong sáng tác của Thanh Tâm Tuyền.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát
Dựa trên dữ liệu khảo sát được, chúng tôi tiếp tục sử dụng những phương pháp
cơ bản như phân tích, tổng hợp, khái quát. Biểu tượng nước và đất chẳng hạn, chúng
tôi bắt đầu từ việc khảo sát các hình ảnh hệ lụy trong quỹ đạo của nó. Và từ đó, phân
tích các khía cạnh hình thức, tổng hợp và tìm ra mối liên hệ giữa chúng, nhằm đưa
tới khái quát về đặc tính của một biểu tượng chủ đạo cụ thể.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Song song với tổng hợp, khát quát về đặc tính biểu tượng thì việc so sánh và
đối chiếu biểu tượng ấy với những biểu tượng trong cùng môi trường của nó sẽ giúp
ích cho việc phát hiện các liên hệ bên trong. Những liên hệ này sẽ bị bỏ qua nếu

chúng ta đặt biểu tượng trong thế khép kín như một đối tượng duy nhất. Và thiếu đi


13

việc liên hệ so sánh sẽ đánh mất khá nhiều đặc trưng thú vị của biểu tượng. So sánh
giữa những đặc trưng của chủ nghĩa Lập thể trong văn học và hội họa, chúng tôi
nhìn thấy mối liên hệ giữa chúng mà hơn hết đã xác định được phương hướng tiếp
cận thơ Thanh Tâm Tuyền. Phương pháp so sánh đóng góp đắc lực vào khả năng
hình thành khung tham chiếu trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp hệ thống
Thêm vào đó, nhìn thấy mối liên hệ giữa những biểu tượng thuộc về hình thức
và biểu tượng thuộc về bản thể nghĩa là đặt chúng trong một hệ thống. Chính
phương pháp hệ thống và quan điểm hệ thống đóng vai trò liên kết các khía cạnh đặc
trưng của biểu tượng. Phương pháp này giúp cho luận văn không rơi vào tình trạng
rời rạc và gượng ép các mảng màu xô bồ, hỗn tạp. Phương pháp này giúp cho những
ý tưởng được tiếp nhận thấu đáo hơn. Cụ thể, trong khi trình bày về những biểu
tượng nước và đất, chúng tôi vẫn không ngừng tìm đến mối liên hệ giữa chúng với
biểu tượng thành phố và thể xác đã trình bày qua. Phương pháp này giúp cho luận
văn trở nên nhất quán và chặt chẽ hơn.
- Phương pháp thi pháp học:
Với chương 2 và 3, chúng tôi sử dụng phương pháp thi pháp học với mục đích
khám phá từng khía cạnh nội tại của biểu tượng thẩm mỹ cũng như sự hình thành
của nó qua tư duy thơ Thanh Tâm Tuyền.
- Phương pháp liên ngành:
Ở đây, trong phạm vi những biểu tượng mà chúng tôi khảo sát, đâu đó vẫn có
những vấn đề đòi hỏi một cái nhìn liên ngành. Vì Thanh Tâm Tuyền là một tư duy
thơ rộng mở. Sự tiếp nhận nơi ông cho thấy mối quan tâm sâu sắc đến văn nghệ nói
chung. Các loại hình nghệ thuật đã đi vào thơ Thanh Tâm Tuyền mà rõ nét nhất là
hội họa. Hơn nữa, bầu không khí “hiện sinh” tại Sài Gòn trước 1975 đặt ra cho nhà

thơ và giới văn nghệ sĩ nói chung rất nhiều suy tư. Có thể hình dung, họ rơi vào
vòng xoáy hiện sinh. Thế nên, một cách nhìn liên ngành (xã hội học, triết học,
nghiên cứu văn học) thực sự cần thiết cho việc tìm hiểu luận văn này.


14

6. Đóng góp của luận văn
Chúng tôi mong rằng qua luận văn này đã góp thêm một phần nhỏ vào việc tìm
hiểu biểu tượng thẩm mỹ trong tác phẩm văn học, mong muốn mang lại vài suy nghĩ
tiếp theo về hướng nghiên cứu biểu tượng tại Việt Nam hiện nay. Chúng tôi không
quá chú ý đến việc phải xác lập hệ thống lí luận về biểu tượng (việc này dường như
vượt quá yêu cầu của một luận văn thạc sĩ). Cụ thể hơn, điều mà chúng có thể làm
được là gây dựng được nhiều quan tâm hơn đến nghiên cứu biểu tượng, cũng như
đối với thơ Thanh Tâm Tuyền.
Trình bày những thành tựu đáng kể trong thơ Thanh Tâm Tuyền, luận văn ít
nhiều đã mang lại thêm vài ý kiến giúp ích cho việc hiểu biết về nhà thơ này. Chúng
tôi chỉ mong sao bài viết này góp một phần nhỏ để tìm lại những tài năng văn học đa
đạng và độc đáo của văn học đô thị miền Nam nói riêng.
Cho thấy những đặc sắc trong thơ Thanh Tâm Tuyền về mặt biểu tượng thẩm
mỹ, nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Thanh Tâm Tuyền là tiểu mục mà
chúng tôi đặt nhiều tâm huyết và công sức. Mặc dù, có thể bên cạnh đó, nghệ thuật
thơ Thanh Tâm Tuyền vẫn còn nhiều khía cạnh đặc sắc và đặc trưng hơn; nhưng các
quan điểm mà chúng tôi phát biểu với tinh thần trao đổi cũng gợi ra một vài hướng
tiếp cận khả dĩ phù hợp đối với thế giới thơ Thanh Tâm Tuyền. Công việc này có thể
giúp ích cho việc hiểu về thơ Thanh Tâm Tuyền toàn diện hơn.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, công trình được chia làm
ba chương:
Chương 1: Biểu tượng thẩm mỹ - những vấn đề lịch sử và lí luận

Chướng 2: Những biểu tượng thẩm mỹ nổi bật trong thơ Thanh Tâm Tuyền
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Thanh Tâm
Tuyền


15

Chương 1:

BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ LÍ LUẬN

1.1. Những nét chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ
1.1.1. Hoạt động nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ trong lí luận phê bình văn học
phương Tây thế kỷ XX
“Biểu tượng và huyền thoại là phương thức khám phá. Chúng là sự biểu lộ cho
tiến trình của cấu trúc trong các mối quan hệ giữa chúng với tự nhiên và chính sự
tồn tại này, đồng thời biểu lộ một phương thức thẩm mỹ mới”[45;tr.45]. Biểu tượng,
do đó, có thể nói là đối tượng không chỉ của lí luận phê bình văn học mà còn đối với
nhiều chuyên ngành khác. Biểu tượng đóng vai trò là phương thức của tư duy người.
Biểu tượng là một vấn đề quan trọng của văn hóa. Biểu tượng thâm nhập vào hầu
hết những khía cạnh của đời sống, từ sinh hoạt thường nhật đến những hình thái ý
thức xã hội như văn học, triết học, tôn giáo, …Con người từ lâu đã quan tâm đến
biểu tượng. Hoạt động nghiên cứu biểu tượng, bởi thế, có một quá trình phát triển
lâu dài.
Từ thời Trung cổ, hoạt động chú giải Kinh thánh phần nào đụng chạm đến
những vấn đề đầu tiên của biểu tượng học.
“Biểu tượng trong nghệ thuật dựa trên phương pháp biểu hiện ý tưởng
hoặc (của) việc liên kết hình ảnh. Lý thuyết thời Trung cổ và lý thuyết cổ
điển về biểu tượng cho rằng nhiều tác phẩm chứa đựng những tầng kép
phức hợp về ý nghĩa. Chúng và những thứ tương tự có thể được xem là

văn chương, có tính biểu tượng, là sự chú giải Kinh thánh, hoặc những
hình thức phổ thông hơn và ngay cả trong đạo đức. Biểu tượng còn có
thể được hiểu như là cái bản chất hoặc là cái quy ước. Những thứ vốn có
làm nảy sinh những cái khác; hoặc một số lại tùy thuộc vào mối quan hệ
đã quy ước hóa từ trước. Chiếc nón trắng có thể là biểu tượng cho một


16

anh chàng lịch thiệp ở Tây phương, nhưng màu trắng cũng tự nó biểu
hiện cho khoảng màu sắc giản dị và do đó lại gần với sự thanh khiết.
Biểu tượng, do đó, như là nhân tố ưu trội của nhiều loại hình nghệ thuật,
chúng đã tự phân tách ra khỏi những hình thức phản ánh được xác nhận
là duy thực và những cách lý giải hiện thực khác, mặc dù lý luận về nghệ
thuật đã xác định rằng ngay cả hiện thực cũng phải sử dụng những hiểu
biết mang tính quy ước và do đó đã là tượng trưng”[56;p.310].
Trải qua thời gian lâu dài nhưng nghiên cứu biểu tượng hoạt động tách rời,
thiếu đi phương pháp khoa học thích hợp khiến cho nghiên cứu biểu tượng trở thành
“cuộc tranh luận kéo dài” cho đến tận đầu thế kỷ XIX. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, nghiên cứu biểu tượng mới thật sự trở thành một khoa học. Và cũng ở giai đoạn
này trở về sau, nghiên cứu biểu tượng nói chung đạt được nhiều thành tựu đáng kể,
khiến chúng ta có cái nhìn thấu đáo và sâu sắc hơn về biểu tượng trong rất nhiều lĩnh
vực đời sống.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Tượng trưng đã trở thành một phong trào có
tầm ảnh hưởng rộng rãi trong tư duy thơ Tây phương. Đi sâu vào những khía cạnh
đặc sắc của trào lưu này, theo đó, hoạt động nghiên cứu văn học hình thành xu
hướng nghiên cứu biểu tượng trong thế giới nghệ thuật của những nhà thơ Tượng
trưng Pháp. Ở Mỹ, còn có những nghiên cứu về E.A.Poe, N. Hawthorne,
W.Whitman….. Bên cạnh đó, chúng ta thấy nhiều học giả quan tâm đến giải thích
những hình ảnh, biểu tượng, các khía cạnh biểu tượng, các hình ảnh tượng trưng

trong nhiều tác phẩm kinh điển, chẳng hạn như trường hợp của J.B.Fletcher với
Thần khúc hay W.R. Price với Zadig.
Chính trong giai đoạn này, sự phát triển của khoa tâm lý học với những thành
tựu to lớn của S.Freud (1856-1939) và C.Jung (1875-1961), mang lại nền tảng cần
thiết và vững chắc cho việc tìm hiểu biểu tượng và sự hình thành biểu tượng trong tư
duy người. Phân tâm học góp phần xác lập sự hình thành, tồn tại và ý nghĩa của biểu
tượng. Nghiên cứu biểu tượng thật sự trở thành một ngành khoa học.


17

Trong phạm vi ảnh hưởng của phân tâm học, Gaston Bachelard (1884-1962)
thật sự là “ngọn núi đứng riêng một cõi” mang lại nhiều điều thú vị cho hoạt động
nghiên cứu biểu tượng. Những tác phẩm của Bachelard giàu chất thơ, uyên thâm và
gần với văn chương hơn bao giờ hết. Dựa trên này tảng ấy, chưa bao giờ biểu tượng
lại được quan tâm nhiều như thế. Hầu như hướng nghiên cứu này diễn ra trên rất
nhiều phương diện. Nghiên cứu biểu tượng đi vào từng khía cạnh vấn đề. Đặc biệt,
từ phân tâm học, hoạt động nghiên cứu biểu tượng trong địa hạt văn chương thật sự
nở rộ.
Song song việc chú giải Kinh thánh, các biểu tượng của tôn giáo đi vào trong
đời sống và do đó đã trở thành một bộ phận của văn hóa Tây phương. Biểu tượng
tôn giáo cũng là biểu tượng của văn hóa. Sau nữa, hướng nghiên cứu này gắn liền
với sự phát triển của văn hóa học, nhân học, xã hội học, dân tộc học…khi nó đi sâu
nghiên cứu đời sống văn hóa tộc người (vượt ra khuôn khổ đời sống Âu châu).
Trong tình hình nghiên cứu biểu tượng triển khai rộng rãi ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, việc này đòi hỏi các nhà khoa học cần có tiếng nói chung. Và do đó, dù
mỗi chuyên ngành có những đặc điểm tư duy và phương pháp khác nhau, nhưng
nghiên cứu biểu tượng vẫn cần thiết xác lập nền tảng chung về thuật ngữ, phân loại,
định tính và phương pháp tiếp cận. Khoảng những thập niên 1950-1960 của thế kỷ
XX, nghiên cứu biểu tượng có cơ hội nhìn lại và rút ra tổng quan về mặt lí luận,

đồng thời xây dựng quan niệm về biểu tượng trong nhiều khoa học khác nhau. W.
Y.Tindall nghiên cứu biểu tượng trong văn học. F.W.Dillistone tìm hiểu mối quan
hệ giữa Thiên Chúa giáo và biểu tượng. R. May chủ biên cho những nghiên cứu về
biểu tượng trong tôn giáo và văn học. Chính sự mở rộng biên độ từ biểu tượng tâm
lý sang biểu tượng thẩm mỹ, như là đối tượng của văn nghệ cũng như những hình
thái ý thức xã hội khác, khiến cho diện mạo lí luận về biểu tượng trở nên đa dạng.
Từng khía cạnh biểu tượng được trình bày cụ thể và đóng góp đáng kể cho việc nắm
bắt biểu tượng nói chung.
Khởi đi từ nền tảng tâm lý, biểu tượng trở thành đối tượng nghiên cứu của hầu
hết các ngành khoa học xã hội. Nghiên cứu biểu tượng trở thành một hoạt động


18

mang tính chất liên ngành. Chính giai đoạn này, những năm 80 trở đi, cũng là lúc
xét lại những khía cạnh nội dung của biểu tượng, góp thêm hiểu biết về biểu tượng.
Nhiều nhà nghiên cứu đứng từ vị trí của một lý thuyết khác nhìn về biểu tượng
(Elzbieta Halas, Barbara Foley,..), hoặc nghiên cứu biểu tượng trong mối liên hệ với
chuyên ngành khác (Nick Ciceotosto, Craig Leroux, Rodger Morrison….). Một lần
nữa, nghiên cứu biểu tượng lại được mở rộng biên độ và đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận.
1.1.2. Nghiên cứu biểu tượng thẩm mỹ ở Việt Nam từ 1986 đến nay
Theo Tiến sĩ Đinh Hồng Hải: “Cho đến nay, các nghiên cứu khoa học xã hội
trên bình diện văn bản học (như văn học, sử học, triết học, ngôn ngữ học,...) đã đạt
được khá nhiều thành tựu, trong khi nghiên cứu biểu tượng (như ký hiệu học, nhân
học biểu tượng,...) dường như vẫn đang là một mảnh đất còn bỏ trống với số lượng
các công trình nghiên cứu chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí trong số những
nghiên cứu ít ỏi đó, chưa một công trình nào thực sự “đặt nền móng” cho một khoa
học nghiên cứu về biểu tượng”[71]. Và ông nhận xét thêm, thực trạng ấy bắt nguồn
từ chỗ chúng ta chưa có nền tảng lí luận cần thiết. Trong những năm gần đây, nghiên

cứu biểu tượng hay cụ thể là biểu tượng trong văn học nghệ thuật đang trở thành
một trào lưu bổ khuyết cho diện mạo lí luận phê bình văn học Việt Nam. Nhưng rõ
ràng ý kiến nêu trên vẫn có chỗ xác đáng, vì trong nhiều nghiên cứu, nhiều luận án
mà chúng ta thực hiện, hầu như vẫn chưa có tài liệu nào định hướng một cách vững
chắc cho hoạt động nghiên cứu biểu tượng. Tình hình chung là biểu tượng ngày
càng được chú ý, nhưng một khoa học hệ thống với đầy đủ nền tảng lí luận về biểu
tượng vẫn chưa thật sự định hình ở Việt Nam. Và đó cũng là điều mà giới nghiên
cứu ở nước ta đang cố gắng thực hiện.
Chúng tôi xin trình bày thêm một ý kiến khác. “Ranh giới đích thực phân biệt
con người và các động vật cao cấp khác chính là khi vượn người xuất hiện một khả
năng đặc biệt – khả năng biểu trưng hóa (symbolizing) trong hoạt động trí thức để
trở thành người vượn”[73]. Đó là lời nhận xét của PGS.TS Đỗ Thu Hà ( công tác tại


19

Khoa Đông phương học – Đại học KHXH & NV Hà Nội). Dẫn ý kiến này, chúng tôi
nhận thấy sự quan tâm ngày càng nhiều của giới nghiên cứu khoa học Việt Nam về
vấn đề biểu tượng nói chung. Trong đó, chúng ta cũng nhận thấy “biểu trưng hóa” là
một đặc trưng tồn tại về mặt tư duy của con người từ buổi sơ khai và ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động ý thức của chúng ta. Nghiên cứu biểu tượng trong các hình thái
ý thức xã hội là cần thiết. Trong đó, nghiên cứu biểu tượng trong văn học là khía
cạnh thú vị. Dành nhiều quan tâm nhưng cũng có rất nhiều lí do ảnh hưởng khiến
cho nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam hiện nay hầu như phân tán rời rạc.
Nhìn chung, biểu tượng học vẫn là mảnh đất ít người tìm đến. Mặc dù hiện
nay đã có không ít công trình nghiên cứu về lĩnh vực này nhưng vẫn chưa góp phần
định hình nền tảng lí luận cần thiết. Thiết nghĩ, vẫn luôn cần một nền tảng vững
chắc cho sự phát triển bền vững tiếp theo. Nghiên cứu biểu tượng hiện nay thật sự
trở thành trào lưu. Chúng tôi không chỉ đơn thuần hòa vào dòng chảy chung, mà hơn
hết muốn đóng góp thêm vài ý kiến vào quan niệm chung về biểu tượng. Đây là

hướng nghiên cứu sâu rộng mà chúng ta cần phải chú trọng nhiều hơn nữa.
1.2. Những vấn đề khái niệm
1.2.1. Về biểu tượng
a. Về khái niệm biểu tượng nói chung
Trước hết, chúng tôi xin trình bày qua về nguồn gốc thuật ngữ. Biểu tượng
trong nguồn gốc Hy Lạp là symbolon (συμβoλον); - Latin: symbolus/symbolum; Pháp: symbole [35],[42],[43],[58]. Theo Từ điển Latin của Charlton T. Lewis:
symbolus là kí hiệu hoặc phù hiệu mà nó mang lại một cái khác, nhằm để hiểu thấu
bất cứ gì đằng sau nó[42;p.825].Theo Henry G. Liddell và Robert Scott [43; p1174]:
“συμβoλον” có nghĩa là: 1- là một kí hiệu hoặc dấu hiệu mà từ nó cho biết hoặc suy
ra/ hàm ý một thứ khác; 2- Vật tượng trưng hoặc phù hiệu; 3 – là dấu hiệu bên ngoài
của ý thức hoặc cảm giác; 4 - ở Athens, còn có nghĩa là vé, ngân phiếu, bàn tính. Có
thể nói thêm rằng, biểu tượng trong nguồn gốc Hy Lạp có nghĩa đen là dẫn đến, so
sánh với một thứ khác. Hay “cái biểu hiện, vật làm tin, dấu hiệu mà từ nó có thể suy


20

luận/suy ra/ gợi ý/ hàm ý thứ gì đó”. [58;p.1529]. Nó bắt chúng ta đặt giả thuyết
ngay từ đầu về một nội dung nào đó phía sau, những ý nghĩa được mang vào cho nó.
Nghĩa là biểu tượng cho phép và tạo điều kiện cho chúng ta bắt được mối liên kết
với những gì đứng phía sau nó.
Cùng chung ý kiến trên, George J. Hagar: biểu tượng “vật tượng trưng hoặc
dấu hiệu đại diện cho một thứ gì khác; một biểu hiện hoặc đặc trưng dùng như sự
tóm lược vào….”[33;p.749].... Những điều phía sau nó được triển khai thông qua sự
tóm lược ấy. Ý kiến này phần nào làm rõ quá trình hình thành biểu tượng. Đó là quá
trình thâu tóm nghĩa vào bản thân vật đại diện. Tại sao quá trình ấy lại xuất hiện
trong tư duy người ? Nhu cầu tư duy nhanh gọn và chính xác, cũng như việc tri nhận
tổng hợp thúc đẩy chúng ta có những “vật làm tin”, vật đại diện cho hơn một thông
tin. Điều này giúp cho việc trao đổi, truyền đạt thông tin hiệu quả hơn. Quá trình ấy
là sự tóm lược những đặc trưng mà sau đó trở thành nghĩa của biểu tượng. Nó sẽ chỉ

là “cái vỏ ốc” trống không nếu không có những đặc trưng được tóm lược vào. Nhìn
chung, ý kiến này trình bày được những nét cơ bản nhất trong việc hiểu về biểu
tượng.
Vậy những gì sẽ được tóm lược vào ? Theo Webster’s New World Dictionary
of the American Language, biểu tượng: 1- là thứ đại diện hoặc tượng trưng cho một
thứ gì khác; đặc biệt, có thể là một đối tượng/vật thể đại diện cho thứ gì đó mang
tính trừu tượng; 2 – một nhãn hiệu, kí tự, sự ước lược được viết hoặc in ra nhằm đại
diện cho một đối tượng, phẩm tính, quá trình hay phẩm lượng…; 3 – trong phân tâm
học, đó là một hành động hay một đối tượng tượng trưng cho những khát vọng từ
trong vô thức. Quan niệm này hầu như trình bày cụ thể và cơ bản về những thông tin
được thâu tóm vào bản thân biểu tượng. Đó rất có thể là những ý niệm trừu tượng:
lượng tính, phẩm tính, quá trình... và các hình dung tràn từ cõi vô thức.
Tương tự, dẫn theo Gedion Juba G. Mncube, ý kiến J.M. Hawkins về biểu
tượng như sau: “thông thường nó được xem như cái điển mẫu, cái đại diện hoặc vật
triệu hồi đến thứ gì đó, đặc biệt là một ý niệm hay một phẩm tính nào đấy”[46;p.25],
[36;p.1464]. Và Mncube nói thêm rằng “Biểu tượng điển hình cho thứ gì khác bởi lẽ


21

nó có thể là đồng dạng về đặc tính hoặc hình thức” [46;p.25], và nó chỉ có thể là vật
ám chỉ hay triệu hồi khi nó đã gây được sự tri nhận ở đối tượng tiếp nhận trước khi
một lần nữa anh ta gặp lại nó để có thể thông qua đó hiểu được nghĩa mà biểu tượng
hàm chứa hay mang lại. Không chỉ là vật đại diện hoặc bị quy ước, biểu tượng và
nội dung mà nó tóm lược vào luôn tồn tại mối liên hệ nhất định. Sự gần gũi giữa nó
và nội dung cho phép sự tóm lược vào được triển khai. Và cái đáng ghi nhận ở
Mncube là đã chú ý đến việc tiếp nhận biểu tượng. Từ chỗ quan tâm khả năng triệu
hồi mà biểu tượng gây ra trong hoạt động tri nhận, Mncube cho thấy biểu tượng chỉ
có thể thể hiện phạm vi ảnh hưởng sau khi đã tác động vào đối tượng và có một
lượng nghĩa hiển ngôn xác định. Chúng ta gặp gỡ một biểu tượng, điều đó có nghĩa

là chúng ta đã gặp gỡ nó trước đấy rồi và lần trước chúng ta biết nó với một ý nghĩa
khác. Nhưng bây giờ chúng ta gặp lại nó như một đối tượng có sự sống và chuyển
động. Hoàn cảnh mới khiến nó có thêm lượng nghĩa mới. Hoàn cảnh mới ở đây vừa
là hoàn cảnh của văn bản, vừa là hoàn cảnh của người đọc. Đây lại là một vấn đề
rộng lớn hơn. Ở khía cạnh này, biểu tượng gần như cuộc hội ngộ với nhân tình cũ
hơn là cái mặt nạ đơn thuần. Và người tình ấy ngoài những chuyện đá vàng quá khứ
còn có nhiều nếp nhăn mới ở hiện tại.
Cũng là những ý kiến gần đây, theo Dictionary of Symbols của C.G.Liungman
thì “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó
có nhiều hơn một ý nghĩa, là đại diện cho chính bản thân nó” [44;p.25]. Và
Symbology được hiểu là Biểu tượng học. Với định nghĩa này chúng ta dường như
nhận thấy một bất cập ngay lập tức. Theo như Ju.M. Lotman, “biểu tượng vừa ở
bình diện biểu hiện, vừa ở bình diện nội dung bao giờ cũng là một văn bản, tức là có
một ý nghĩa thống nhất đóng kín ở bên trong nó, và có một ranh giới biểu hiện rõ
ràng cho phép tách biệt nó khỏi ngữ cảnh kí hiệu xung quanh. Điều này là đặc biệt
quan trọng để có thể “trở thành biểu tượng”” [67]. Biểu tượng nói chung gần với kí
hiệu vì nó cần bảng mã quy chiếu, hệ quy chiếu cho việc xác lập nghĩa của nó bên
cạnh một biểu tượng khác nhưng biểu tượng trong nghệ thuật lại là một ngoại lệ,
một “electron” trật khỏi quỹ đạo. Chính điều đó làm cho biểu tượng trong nghệ thuật


22

trở nên độc đáo và khác biệt, tách bạch khỏi kí hiệu. Biểu tượng trong nghệ thuật có
thể không cần một nhóm người đồng ý sử dụng. Nó khước từ bảng mã mang tính xã
hội và tự xác lập mối ràng buộc nghĩa với những yếu tố khác trong chính bản thân
nó. Vậy là biểu tượng trở là một hành tinh vận chuyển theo quy luật nội tại về ý
nghĩa của tác phẩm hơn là quy luật của ý nghĩa về mặt xã hội. Đồng thời, lại có
những vệ tinh khác quay quanh nó, cố định, cô kết nghĩa cho nó (đó là những hình
ảnh hệ lụy). Chính cơ chế vận hành kép ấy định vị biểu tượng, định vị về mặt nghĩa

cho nó. Nó không cần đến những ràng buộc nghĩa từ cộng đồng nào đó, hay như một
khế ước của xã hội ( thậm chí điều đó còn có hại).
Biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật có giá trị tự thân, độc lập tương đối. Vì
trước hết nó là một hình ảnh, tồn tại trong văn bản như một kí hiệu đặc biệt. Tóm
lại, với hệ thống, biểu tượng có được một bảng mã tự định vị ý nghĩa của nó. Ví dụ
một nhà thơ luôn có những luật lệ riêng. Và nhà thơ nói chung có thể có những biểu
tượng mang ý nghĩa không hoàn toàn được chấp nhận bởi số đông. Nhưng với tính
hệ thống, khả năng xác định chính bản thân nó trong bảng mã hình ảnh liên quan
giữa miền tưởng tượng đã không ngừng xây dựng ý nghĩa cho nó. Biểu tượng không
cần ai thừa nhận, vì nó đã hoàn toàn có nghĩa với chính thế giới của nó. Đây cũng
chính là luật lệ giấc mơ ở biểu tượng thẩm mỹ mà chúng ta sẽ bàn ở phần sau.
Và cũng từ ý kiến Ju. M. Lotman, có thể khẳng định hơn nữa việc thiết lập vũ
trụ nghĩa nội tại bên trong biểu tượng. Trong quá trình hình thành, biểu tượng đã
tách khỏi kí hiệu, từ bỏ tính võ đoán. Khiến cho cái được biểu đạt của kí hiệu trở
nên năng sản, đa tầng nghĩa và thiết lập lại việc tạo nghĩa cho chính nó. Vén màn
bước vào vũ trụ nghĩa nội tại của biểu tượng, đó là hệ thống đa cấp về ý nghĩa trong
mối liên hệ giữa chúng.
“Tách biệt nó khỏi ngữ cảnh kí hiệu xung quanh”, làm thế nào mà biểu tượng
có được sự định vị của mình....Nó – BIỂU TƯỢNG - buộc lòng phải có môi trường
của nó (đặc biệt biểu tượng thẩm mỹ chỉ hình thành trong điều kiện nhất định). Đó
là văn bản với khả năng truyền chuyển thông tin một cách đa dạng, đa tầng. Trong
đó, ngữ cảnh triển khai truyền và nhận thông tin giúp định vị biểu tượng là quá trình


23

“phân giải” mà mỗi mắc xích trên chặng đường ấy lại là một biểu tượng hệ lụy
chung quanh một biểu tượng lớn hơn, sâu kín hơn. Có thể nói, quan niệm này đặc
biệt đáng lưu tâm không chỉ ở chỗ giúp khu biệt kí hiệu và biểu tượng mà còn đề đặt
vấn đề tồn tại của biểu tượng song song với quá trình phân giải văn bản.

Trong tiếng Việt, biểu tượng là một từ gốc Hán được dùng lẫn lộn với hình
tượng và kí hiệu. Biểu tượng có 2 nghĩa: 1-hình ảnh tượng trưng; 2- hình ảnh của
nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi
tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt [15;tr.26],[71]. Và theo Cung Kim
Tiến trong Từ điển Triết học: “biểu tượng là hình ảnh trực quan cảm tính, khái quát
về sự vật hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo trong ý thức và không có
sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật hiện tượng đến giác quan” [19;tr.86].
Chúng ta chú ý đến những điểm sau: là hình thức phản ánh cảm tính, được giữa lại
và tái tạo. Vậy là biểu tượng như hạt mầm không ngừng nảy nở, xác lập, tái tạo lại
nó để bản thân nó có thể chứa đựng một lượng nghĩa năng động. Điều này cho phép
biểu tượng chuyển động không ngừng trong môi trường tư duy cũng như môi trường
người tiếp nhận thông tin. Ngoài ra, “mặc dù biểu tượng là hình thức phản ánh cảm
tính của cá nhân, nhưng ở con người, nó có mối liên hệ mật thiết với những nghĩa do
xã hội tạo ra, đã được tạo ra một cách gián tiếp qua ngôn ngữ, mang đầy nội dung xã
hội và bao giờ cũng lĩnh hội được, nhận thức được” [19;tr.86]. Điều này khẳng định
biểu tượng không thể từ bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nhưng có vẻ đây chỉ là một
trong những khía cạnh của biểu tượng. Tất nhiên biểu tượng vẫn chịu sự ràng buộc ít
nhiều với quy phạm xã hội. Đó là một quãng sinh hoạt tinh thần rộng rãi, từ ý thức
đến vô thức tập thể. Có thể nói, nhờ vào ý nghĩa xã hội mà biểu tượng định vị được
nó, bắt được sóng truyền đạt, tạo được kênh truyền đạt cho thông tin. Tuy nhiên,
phần nhiều biểu tượng trở nên độc đáo do sự vượt thoát khỏi mối ràng buộc với quy
phạm xã hội. Với nghệ thuật, biểu tượng hoàn toàn tự do và không ngừng nảy nở
trong môi trường cá nhân như đã trình bày ở phần trên. Nguồn gốc xã hội của biểu
tượng khi nảy mầm một cách “cá nhân” đã rũ bỏ ít nhiều ý nghĩa xã hội của nó, dần
dần phát sinh thêm những ý nghĩa mới nhờ kết nối được với những yếu tố bên trong


24

tác phẩm. Nói khác đi, biểu tượng bị cá thể hóa, rơi vào quỹ đạo cái tôi, dần xa ý

thức xã hội và “tập quán bầy đàn” sẽ phát triển với ít nhiều phẩm tính thẩm mỹ. Nó
gắn liền với khát khao và những ám ảnh cá nhân nhiều hơn (Phần này sẽ được trình
bày ở phần tiếp theo).
Thêm một ý kiến nữa, chúng ta hình dung cụ thể hơn nguồn gốc hình thành
biểu tượng (xuất phát từ thực tiễn đời sống). Theo Đoàn Tiến Lực:
“Khởi nguyên, biểu tượng là một vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ, hay
kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần (có thể là chủ và khách,
người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp chia tay
nhau lâu dài…Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối
thân tình xưa hoặc món nợ cũ, tình bạn ngày trước. Biểu tượng chia ra
và lại kết lại với nhau như vậy nên nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái
hợp. Điều ngày cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị
đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ, vừa là nối
kết những phần của nó” [63].
Rõ ràng biểu tượng tạo nên bởi hai phần, khi nào có đủ hai phần mới có sự kết
nối, nghĩa là sự hoàn thiện để trở thành biểu tượng. Ở đây, người viết đặt ra vấn đề
về mối liên hệ song phương giữa biểu tượng. Cả hai là cần thiết. Mất một trong hai
điều nguy hại cho sự tồn tại biểu tượng. Nó phải có cái cho nó ý nghĩa. Nó cho lại sự
hình dung và đối tượng thao tác của tư duy. Ý kiến của người viết trong trường hợp
này, đáng nói, ở chỗ khẳng định mối liên hệ biện chứng giữa biểu tượng và cái song
hành cùng biểu tượng tạo nên khả năng tồn tại của chính nó.
Qua phần trên, chúng tôi đã phác họa phần nào những quan niệm chính về
biểu tượng. Tiếp theo, chúng tôi trình bày quan niệm của phân tâm học. Chính ở
đây, nghiên cứu biểu tượng có được nhiều thành tựu đáng kể và sâu sắc. Như S.
Freud: “Chúng ta gọi những mối liên hệ bất biến giữa môi trường giấc mơ và sự chú
giải của nó là “symbolic”. Những yếu tố trong mơ tự nó đã là biểu tượng của suy
tưởng mộng mơ thuộc về vô thức” [32;p.123]. Với suy nghĩ này, có vẻ Freud đánh
đồng toàn bộ hình ảnh xuất hiện trong mơ với biểu tượng. Tất nhiên, ông vẫn có cái



×