Tải bản đầy đủ (.pdf) (286 trang)

các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” trong tiếng việt (có so sánh với tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 286 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM HÙNG DŨNG

CÁC PHƯƠNG TIỆN THỂ HIỆN
Ý NGHĨA “CỰC CẤP”
TRONG TIẾNG VIỆT
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012


ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM HÙNG DŨNG

CÁC PHƯƠNG TIỆN THỂ HIỆN
Ý NGHĨA “CỰC CẤP”
TRONG TIẾNG VIỆT
(CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 62 22 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012


1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án này là công trình tự nghiên cứu của bản thân,
không sao chép từ bất kỳ công trình nào của người khác.
Tác giả luận án
PHẠM HÙNG DŨNG


2

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
1. Trong luận án có một số từ ngữ thường lặp lại được chúng tôi viết tắt như
sau:
− Dấu /:

Hoặc, hay

− Dấu →: Có nghĩa là, có thể chuyển thành, hay tương đương với
− Dấu ≠>: Không có nghĩa là, không thể chuyển thành
− Dấu *:

Ngữ, câu không chấp nhận được


− PTCC:

Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp”

− T:

Vị từ trạng thái thang độ

− Tc:

Vị từ trạng thái cực cấp

2. Trong phần nguồn gốc các cứ liệu trích dẫn, tên của các báo, tạp chí được
viết tắt như sau:
− ANTG:

An ninh thế giới

− ANTGCT:

An ninh thế giới cuối tháng

− CA. TP.HCM: Công an TP. Hồ Chí Minh
− LĐ:

Lao động

− NLĐ:


Người Lao động

− ND:

Nhân Dân

− NĐ. TP.HCM: Nhi đồng TP. Hồ Chí Minh
− PNCN:

Phụ nữ chủ nhật

− SGTT:

Sài Gòn tiếp thị

− SGGP:

Sài Gòn Giải phóng

− TN:

Thanh niên

− TNCN:

Thanh niên chủ nhật

− TT:

Tuổi trẻ


− TTCN:

Tuổi trẻ chủ nhật

− TT. TP.HCM:

Thể thao TP. Hồ Chí Minh

− TT&VH: Thể thao & Văn hóa
− VN:

Văn nghệ

− VNQĐ:

Văn nghệ Quân đội


3

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ (1.1): Thang độ màu đen theo hai cực đối lập ....................................... 22
Sơ đồ (1.2): Thang độ “chiều cao” theo hai cực đối lập ................................. 35
Sơ đồ (1.3): Trục thang độ ............................................................................... 38
Sơ đồ (1.4): Thang độ năng lực và thang nhiệt độ trong tiếng Anh ................ 40
Sơ đồ (1.5): Thang độ dài có hai dải mức độ đối lập ngắn − dài.................... 41
Sơ đồ (1.6): Thang độ dài có hai dải mức độ đối lập dài – ngắn và dải mức
độ không ngắn cũng không dài .................................................... 42

Sơ đồ (1.7): Thang độ dài có hai dải mức độ ngắn – dài và dải trung
gian là chuẩn so sánh .................................................................... 43
Sơ đồ (1.8): Các dải mức độ ngắn – dài có thể xuất hiện trên trục thang độ .. 44
Sơ đồ (1.9): Các dải mức độ ngắn – dài so với chuẩn .................................... 45
Sơ đồ (1.10): Thang độ tính chất, trạng thái nhiệt độ/ vẻ đẹp ......................... 47
Sơ đồ (1.11): Thang độ tính chất, trạng thái thắng/ chín................................. 49
Sơ đồ (1.12): Thang độ trạng thái kín .............................................................. 51
Sơ đồ (1.13): Thang độ trạng thái tâm lý, tình cảm theo hai cực đối lập ........ 52
Sơ đồ (1.14): Thang độ trạng thái tâm lý, tính cảm......................................... 54
Sơ đồ (1.15): Thang độ màu sắc ...................................................................... 56


4

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng (2.1): Vị từ trạng thái cực cấp biểu hiện ý nghĩa “cực cấp” của vị từ trạng
thái thang độ ........................................................................................62
Bảng (2.2): Vị từ trạng thái cực cấp ràng buộc với vị từ trạng thái thang độ ..65
Bảng (2.3): Tóm tắt các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” trong
tiếng Việt .......................................................................................... 111
Bảng (3.1): So sánh các đặc điểm tri nhận của thẳm và tít.............................. 103
Bảng (4.1): Tính từ tiếng Anh theo các tiêu chí của Quirk & al ..................... 172
Bảng (4.2): Tóm tắt các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp”
trong tiếng Anh ................................................................................ 201


5

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình (3.1): Điểm nhìn không thể định vị được trong vật chứa có tính hình

khối ................................................................................................... 128
Hình (3.2): Điểm nhìn không thể định vị trong không gian tận chân trời ..... 128
Hình (3.3): Điểm nhìn có thể định vị trong vật chứa có tính hình khối lớn
theo định hướng không gian phía trước mặt ............................... 133
Hình (3.4): Điểm nhìn định vị được ở trên cao ................................................. 138
Hình (3.5): Điểm nhìn định vị được ở đường chân trời ................................... 138
Hình (3.6): Điểm nhìn định vị được ở đáy vật chứa có tính hình khối…….. 139


6

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................. 1
QUY ƯỚC VIẾT TẮT ..................................................................... 2
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ............................................................... 3
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................ 4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ .......................................................... 5
MỤC LỤC .......................................................................................... 6
MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 1
3. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 2
4. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ................................................ 17
6. Bố cục luận án............................................................................................... 18

Chương 1: Ý NGHĨA “CỰC CẤP” VÀ VỊ TỪ TRẠNG THÁI
GẮN VỚI Ý NGHĨA “CỰC CẤP” TRONG TIẾNG VIỆT ...... 20
1.1. Ý nghĩa “cực cấp” – khái niệm cơ sở của đề tài ........................................ 20
1.2. Vị từ trạng thái tiếng Việt .......................................................................... 27

1.2.1. Vị từ trạng thái thang độ .............................................................................. 28
1.2.2. Vị từ trạng thái không thang độ ................................................................... 29

1.3. Thang độ trong tiếng Việt .......................................................................... 34
1.4. Các vị từ trạng thái có tính đối lập qua dải trung gian là chuẩn so sánh trên
thang độ gắn với ý nghĩa “cực cấp” .................................................................. 38
1.5. Các vị từ trạng thái có tính đối lập qua dải trung gian không phải là chuẩn
so sánh trên thang độ gắn với ý nghĩa “cực cấp” ............................................. 49
1.6. Các vị từ trạng thái có tính đối lập không qua dải trung gian là chuẩn so
sánh trên thang độ gắn với ý nghĩa “cực cấp” .................................................. 50
1.7. Các vị từ trạng thái không có tính đối lập biểu hiện dải trung gian là chuẩn
so sánh trên thang độ gắn với ý nghĩa “cực cấp” ............................................. 51
1.7.1. Các vị từ trạng thái biểu thị tâm lý, tình cảm .............................................. 51


7

1.7.2. Các vị từ trạng thái chỉ màu sắc .................................................................. 54

1.8. Các vị từ không có tính đối lập vừa biểu thị trạng thái vừa biểu hiện ý
nghĩa “cực cấp” ................................................................................................. 57
1.9. Tiểu kết ...................................................................................................... 58

Chương 2: CÁC PHƯƠNG TIỆN THỂ HIỆN Ý NGHĨA “CỰC
CẤP” TRONG TIẾNG VIỆT XÉT TRÊN BÌNH DIỆN CẤU
TRÚC ............................................................................................... 60
2.1. Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là từ ............................................ 60
2.2. Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là ngữ đoạn ................................ 64
2.2.1. Ngữ đoạn có vị từ trạng thái cực cấp với hình thức ràng buộc ................... 64
2.2.2. Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là ngữ đoạn có yếu tố láy............. 73

2.2.3. Ngữ đoạn ghép hai ngữ đoạn có vị từ trạng thái cực cấp với hình thức ràng
buộc ....................................................................................................................... 85
2.2.4. Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là ngữ đoạn có từ chỉ mức độ cực
cấp .......................................................................................................................... 86
2.2.5. Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là ngữ đoạn có yếu tố tình thái .... 88

2.3. Phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là thành ngữ ............................... 90
2.3.1. Thành ngữ có yếu tố so sánh thể hiện ý nghĩa “cực cấp”............................ 91
2.3.2. Thành ngữ không có yếu tố so sánh thể hiện ý nghĩa “cực cấp” ................ 96

2.4. Các biện pháp tu từ thường dùng thể hiện ý nghĩa “cực cấp” ................. 103
2.4.1. Ẩn dụ ......................................................................................................... 103
2.4.2. Nói quá ...................................................................................................... 109

2.5. Tiểu kết .................................................................................................... 110

Chương 3: CÁC PHƯƠNG TIỆN THỂ HIỆN Ý NGHĨA “CỰC
CẤP” TRONG TIẾNG VIỆT XÉT TRÊN BÌNH DIỆN TRI
NHẬN ............................................................................................. 113
3.1. Bức tranh thế giới và ý nghĩa “cực cấp” .................................................. 113
3.2. Các phạm trù tri nhận gắn với các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp”
......................................................................................................................... 114
3.3. Đặc điểm tri nhận của những phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” ... 123
3.3.1. Đặc điểm tri nhận của phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là vị từ trạng
thái cực cấp .......................................................................................................... 127


8

3.3.2. Đặc điểm tri nhận của các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là ngữ

đoạn ..................................................................................................................... 143

3.4. Tiểu kết .................................................................................................... 166

Chương 4: SO SÁNH PHƯƠNG TIỆN THỂ HIỆN Ý NGHĨA
“CỰC CẤP” TRONG TIẾNG VIỆT VỚI CÁC HÌNH THỨC
TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG TIẾNG ANH.................................. 168
4.1. Mở đầu ..................................................................................................... 168
4.2. Những hình thức thể hiện ý nghĩa “cực cấp” trong tiếng Anh ................ 171
4.2.1. Hình thức thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là từ ............................................... 171
4.2.2. Hình thức thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là ngữ đoạn .................................... 183
4.2.3. Hình thức thể hiện ý nghĩa “cực cấp” là thành ngữ .................................. 190
4.2.4. Biện pháp tu từ (ẩn dụ) thể hiện ý nghĩa “cực cấp” .................................. 198

4.3. Đối chiếu các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” trong tiếng Việt và
tiếng Anh......................................................................................................... 201
4.4. Tiểu kết .................................................................................................... 207

KẾT LUẬN .................................................................................... 208
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 212
PHỤ LỤC ....................................................................................... 225


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mỗi sự vật và hiện tượng (SV/ HT) đều có tính chất, trạng thái của nó,
trong đó có những tính chất, trạng thái là bình thường, phổ biến, nhưng
cũng có những tính chất, trạng thái vượt quá ngưỡng bình thường, phổ biến.

Tính chất, trạng thái vượt quá ngưỡng bình thường, phổ biến có thể nhận
diện ở mức độ: mức độ thấp, mức độ cao hoặc ở mức độ cực cấp, trong đó
cực cấp là mức độ mà hiện tượng vượt quá ngưỡng đạt đến mức tối đa.
Trên thế giới, ngôn ngữ nào cũng có những phương tiện từ vựng và/ hoặc
ngữ pháp thể hiện tính chất, trạng thái của SV/ HT ở mức độ cực cấp.
Chúng tôi gọi đó là các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp”.
Trong tiếng Việt có rất nhiều phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp”
khá độc đáo nhưng, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề
này một cách thấu đáo, có hệ thống. Vì lẽ đó, luận án chọn đề tài Các
phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” trong tiếng Việt (có so sánh với
tiếng Anh).
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu các phương tiện thể hiện ý nghĩa “cực cấp” (từ đây
gọi tắt là PTCC) trong tiếng Việt của luận án sẽ góp phần giải quyết một số
vấn đề về lí luận và thực tiễn, nhất là trong lĩnh vực dạy và học ngôn ngữ.
Luận án hệ thống hóa và khảo sát các PTCC trong tiếng Việt nhằm
phân tích đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa của chúng. Qua đó luận án làm rõ
một số khía cạnh về đặc điểm loại hình của tiếng Việt, cũng như đặc điểm
tri nhận của người Việt thể hiện qua cách dùng các phương tiện hữu quan.
Luận án phân tích cấu trúc, ý nghĩa tri nhận của các PTCC nhằm góp
phần vào việc dạy học tiếng Việt nói chung và PTCC nói riêng trong nhà
trường phổ thông. Phần đối chiếu với tiếng Anh sẽ cho ta một bức tranh


2

đầy đủ về những tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ trong lĩnh vực
các PTCC. Kết quả phân tích sẽ góp phần vào lĩnh vực dạy và học tiếng
Việt và tiếng Anh như những ngoại ngữ.
3. Đối tượng nghiên cứu

Tuy ý nghĩa “cực cấp” là một phạm trù phổ quát nhưng các phương
tiện thể hiện phạm trù này trong các ngôn ngữ khác nhau là không giống
nhau.
Chẳng hạn, để thể hiện ý nghĩa “cực cấp”, tiếng Anh có các phương
tiện đã được ngữ pháp hóa (grammaticalized), ví dụ:
– tall

→ tallest (cao nhất)

– old

→ oldest (già/ cũ nhất)

hoặc:
– dangerous

→ most dangerous (nguy hiểm nhất)

– interesting

→ most interesting (lí thú nhất)

– proper

→ most proper (thích đáng nhất)

Bên cạnh đó, tiếng Anh còn dùng các trạng từ chỉ mức độ cực cấp như
extremly, ultra, fantastically, frightfully, v.v. đặt trước các tính từ để thể
hiện ý nghĩa “cực cấp” của tính chất, như extremely/ fantastically big (cực
lớn), frightfully big (hết sức lớn), v.v.; hoặc thể hiện bằng các tính từ, như

soggy (ướt mèm/ nhẹp/ sũng), freezing (lạnh cóng/ buốt), v.v..
Tương tự, trong tiếng Pháp, người ta dùng trạng từ chỉ mức độ cao
nhất (plus) và thấp nhất (moins) có mạo từ xác định đứng trước như le/ la/
les plus/ moins hoặc các trạng từ như très, bien, fort, tout à fait,
extrêmement, v.v. đặt trước tính từ để thể hiện ý nghĩa “cực cấp”. Ví dụ:
– le plus grand (cao nhất);
– la moins gentille (xấu nhất);
– très ordonné (rất ngăn nắp);


3

– bien malade (rất nguy kịch); v.v..
Giống như tiếng Anh, trong tiếng Pháp cũng có những đơn vị từ vựng
biểu hiện ý nghĩa “cực cấp”, như richissime (giàu cực kỳ), minime (nhỏ
xíu), ultime (tối hậu), archicomble (đầy ắp/ đông nghẹt), extra–fort (cực
chắc), v.v..
Trong tiếng Ý, ý nghĩa “cực cấp” có các cách diễn đạt:
a) thêm các hậu tố –issimo sau tính từ, chẳng hạn: candido (trắng) →
candidissimo (trắng như tuyết); stanco (mệt) → stanchissimo (mệt đừ);
vecchio (cũ) → vecchissimo (cũ mèm), v.v.;
b) đặt các trạng từ chỉ mức độ cực cấp (như molto/ assai (rất),
incredibilimente (cực kỳ), v.v.) trước tính từ, chẳng hạn: Michele è molto
simpatico (Michele rất xinh);
c) đặt các tiền tố arci–, stra–, super–, ultra–, extra–, sovra– trước tính
từ, như L’autobus era sovraffollato (Xe buýt đông nghẹt người);
d) lặp lại tính từ, ví dụ: Ho un cane piccolo piccolo (Tôi có con chó
nhỏ xíu).
e) thêm một tính từ cùng nghĩa với chức năng bổ nghĩa cho tính từ
chính, chẳng hạn: Sono stanco morto (Tôi mệt đừ). Era bagnato fradicio

(Nó ướt nhẹp) [110, tr. 3].
Đối với tiếng Nhật, ý nghĩa “cực cấp” được tạo lập bằng hình vị cực
cấp độc lập (the independent superlative morpheme) ichiban hoặc mottomo
(có ý nghĩa như –est, most trong tiếng Anh) đứng trước tính từ thang độ. Ví
dụ:
– John–ga ichiban takai yama–ni nobot–ta (John leo lên ngọn núi cao
nhất) [101, tr. 5 – 6].
– Kore wa kono mise no mottomo yasui pasokon desu (Trong cửa
hàng, đây là chiếc máy vi tính rẻ nhất) [139, tr. 2].


4

Khác với các ngôn ngữ trên, tiếng Việt chỉ dùng phương tiện từ vựng
để thể hiện ý nghĩa “cực cấp”. Chúng có thể là từ hoặc ngữ, chẳng hạn:
– từ: ắp, đanh, đầm, đẫm, sũng, hệt, khú, lền, mạt, ngát, ngầu, ngất,
ngời, ngồng, meo, phờ, quánh, rộc, thẳm, thoắt, tít, tẹo, trĩu, ú, ù, xíu, v.v.;
– ngữ: béo nục, béo núc, cao vót, dốt đặc, đầy ắp, đen thui, đen sì,
nghèo rớt, v.v. ; cỏn con, cứng cựng, dửng dưng, héo hẹo, khít khịt, khô
khốc, sát sạt, xốp xộp, v.v.; cỏn còn con, cứng cừng cựng, dửng dừng dưng,
héo hèo hẹo, khít khìn khịt, khô không khốc, sạch sành sanh, sát sàn sạt,
xốp xồm xộp, v.v.; béo nung béo nục, béo nung béo núc, đen thủi đen thui,
ốm nhom ốm nhách, xa tít xa tắp v.v.; béo như trâu trương, cao như núi,
đen như cột nhà cháy, đẹp như tiên, nghèo rớt mồng tơi, dốt đặc cán mai,
v.v.; cực đẹp, tuyệt đẹp, cực kì đẹp, đẹp cực kì, chúa bướng, khó vô cùng,
vô cùng khó, sâu kinh khủng, tối cao, tối thượng, v.v..
Đây là những PTCC thể hiện nhiều nét đặc trưng quan trọng của tiếng
Việt. Các PTCC rất đa dạng về cấu trúc và ý nghĩa. Chẳng hạn, để thể hiện
ý nghĩa “cực cấp” của tính chất nghèo/ giàu, tiếng Việt có những PTCC,
như: nghèo rớt, nghèo rớt ra, nghèo rướt, nghèo xơ nghèo xác, nghèo kiết

xác, nghèo lõ đít, nghèo rớt mồng tơi, v.v.; giàu sụ, giàu xộn, giàu nứt đố
đổ vách, giàu như Thạch Sùng, v.v.. Có thể thấy mỗi PTCC đều miêu tả,
nhận định biểu hiện sự tri nhận với những sắc thái biểu cảm khác nhau về
tính chất nghèo/ giàu. Đặc điểm của các PTCC trong tiếng Việt xét trên
bình diện cấu trúc, ý nghĩa và qua lăng kính đối chiếu với các PTCC trong
tiếng Anh chính là đối tượng nghiên cứu của luận án này.
4. Lịch sử vấn đề
Như đã trình bày, ý nghĩa “cực cấp” trong tiếng Việt được thể hiện
bằng nhiều PTCC khác nhau, được các nhà ngôn ngữ học trong nước và
ngoài nước lưu tâm, nhưng cho đến nay, các nhà Việt ngữ học chỉ trình bày


5

rải rác trong các công trình nghiên cứu về từ vựng ngữ nghĩa, ngữ pháp
tiếng Việt ở nhiều góc độ khác nhau, và các ý tưởng khoa học này chỉ mang
tính khái quát, gợi ý. Có thể nói vấn đề này còn để ngỏ.
4.1. Ngoài nước
Léopold Cadière (1957) đã phân tích ý nghĩa “cực cấp” trong tiếng
Việt từ khá sớm. Theo ông, trong tiếng Việt có ba loại ý nghĩa “cực cấp”:
1) cực cấp tương đối (superlatif relatif) là sự kết hợp của các đơn vị như
nhứt, nhứt hạng, hơn cả, hơn hết đứng sau các tính từ trong các hình thức
có so sánh như tốt nhứt/ nhứt hạng, giàu hơn cả/ hết, v.v.; 2) cực cấp tuyệt
đối (superlatif absolu) là sự kết hợp của các đơn vị rất, quá, lắm, cực đứng
trước hoặc sau các tính từ trong các hình thức rất/ cực đẹp, đẹp lắm/ quá,
v.v.; và 3) cực cấp vượt ngưỡng (superlatif excessif) là sự kết hợp với các
yếu tố cực cấp tuyệt đối quá, lắm được mở rộng như quá đi, quá sức, quá
lẽ, hung lắm, dữ lắm, v.v. đặt sau các tính từ để có các hình thức như tốt
quá đi, tốt quá sức, tốt quá lẽ, tốt hung lắm, tốt dữ lắm, v.v. [142, tr. 42 –
43].

Với quan điểm tiếng Việt cũng có các phụ tố (affixes) giống như các
ngôn ngữ Ấn Âu, đó là tiền tố (prefixes) và hậu tố (suffixes), L.C.
Thompson (1967) xem các hình thức: a) cỏn con, tẻo teo, cứng cựng, khét
khẹt, v.v.; b) sạch nhách, cụt ngút, v.v.; và c) cụt ngủn cụt nghỉu, thấp xủn
thấp xỉu, xa lắc xa lơ, v.v. là từ láy. Về nghĩa, tác giả không coi chúng biểu
hiện ý nghĩa “cực cấp”, mà chỉ cho rằng các phụ tố láy, như cỏn (cỏn con),
tẻo (tẻo teo), cựng (cứng cựng), nhách (sạch nhách), ngút (cụt ngút), v.v.
có ý nghĩa nhấn mạnh nghĩa của từ gốc và làm cho nghĩa của cả từ láy có
hình ảnh sinh động hơn. Đồng thời tác giả cũng xem các ngữ đoạn như cụt
ngủn, thấp xủn, xa lắc, v.v. vốn mang ý nghĩa nhấn mạnh nếu có hình thức
láy kiểu như cụt ngủn cụt nghỉu, thấp xủn thấp xỉu, xa lắc xa lơ, v.v. thì


6

chúng có ý nghĩa tăng cường, gây cảm xúc mạnh hơn nữa [140, tr. 139 –
175].
V.S. Panfilov (1993) không đề cập rõ đến PTCC nhưng tác giả có cho
rằng hơi, khá, lắm, rất, quá, v.v. trong các hình thức rất/ khá nặng, tối lắm,
v.v. là “trạng từ mức độ biểu thị cường độ của các dấu hiệu và hoạt động
như những tín hiệu ranh giới trong câu”, “chỉ được sử dụng ở vị trí trước
hay sau vị từ” và các đơn vị phức, bí tỉ, v.v. trong thơm phức, say bí tỉ là
trạng từ nhấn mạnh có “tính hình tượng cao” [82, tr. 279 – 283].
Gần đây, trong công trình Du superlatif en Vietnamien (Cực cấp trong
tiếng Việt), M. Prévot (2004) cho rằng trong tiếng Việt có hai loại ý nghĩa
“cực cấp”, đó là cực cấp tương đối và cực cấp tuyệt đối. Tác giả đã thống
kê 10 phương thức thể hiện hai loại ý nghĩa “cực cấp”. Ý nghĩa “cực cấp”
tương đối được biểu thị bằng các đơn vị nhất, hơn hết, hơn cả trong các
hình thức so sánh, như bén nhất, đẹp hơn hết, giỏi hơn cả, v.v.. Trên cơ sở
đối chiếu với tiếng Pháp, Marina Prévot đã phân tích đặc điểm hình thức

của 9 phương thức thể hiện ý nghĩa “cực cấp” tuyệt đối. Tác giả nhận xét
đặc điểm ngữ pháp của những yếu tố bổ nghĩa trong các phương thức, kết
cấu và cũng nêu rõ từng loại ý nghĩa của các bổ tố là: mức độ (rất, lắm),
tăng cường sắc thái cảm thán (thật, quá), láy tăng cường (sết sệt, cứng
cựng, khỏe khỏe là, khổ khổ là, v.v.), láy nhấn mạnh (hớt ha hớt hải, lôi
tha lôi thôi, ba khùng ba khịa, bù lem bù luốc, v.v.), miêu tả (đầy ắp, chua
lét, sáng lòa, rộng mênh mông, thấp lè tè, v.v.) [53, tr. 61 – 85]. Do chỉ liệt
kê nên tác giả đã chưa phân tích rõ các PTCC. Chẳng hạn, tác giả chưa nêu
rõ đặc điểm quan hệ giữa các PTCC, như: cóng và lạnh cóng; ắp và đầy ắp;
mênh mông và rộng mênh mông, lênh khênh và cao lênh khênh; cỏn con và
cỏn còn con, sát sạt và sát sàn sạt, v.v.. Và tác giả cũng chưa đề cập đến
các PTCC, như: a) từ: ắp, đanh, đầm, đẫm, sũng, hệt, khú, lền, mạt, ngát,


7

ngầu, ngất, ngời, ngồng, meo, phờ, quánh, rộc, thẳm, thoắt, tít, tẹo, trĩu, ú,
ù, xíu, v.v.; b) ngữ láy: mênh mông, lênh khênh, v.v.; c) thành ngữ: nghèo
rớt mồng tơi, dốt đặc cán mai, gan cóc tía, bé hạt tiêu, v.v.; d) và hiện
tượng dùng các biện pháp tu từ để biểu hiện ý nghĩa “cực cấp”, như rét cắt
da cắt thịt, thương đứt ruột, sợ tím mặt, v.v. (ẩn dụ); hay buồn chết đi được,
mệt thấy ông bà ông vải, v.v. (nói quá).
4.2. Trong nước
Có thể thấy, các nhà nghiên cứu nước ngoài có những nhận định về
các PTCC trong tiếng Việt nhưng những ý kiến này có tính khái quát, sơ
lược, chưa đầy đủ. Tương tự, ở trong nước, các nhà nghiên cứu cũng quan
tâm đến các PTCC nhưng với những ý kiến khá tổng quát, tựu trung là: a)
thống kê, nhận định mang tính gợi ý về một hay nhiều PTCC hay các hình
thức liên quan đến ý nghĩa “cực cấp”; b) bàn đến các hình thức vốn là
PTCC nhưng không xác định ý nghĩa “cực cấp”.

4.2.1. Những phân tích các hình thức liên quan đến ý nghĩa “cực cấp” và
xác định ý nghĩa “cực cấp”
Trương Vĩnh Ký (1883) là người trong nước đầu tiên đề cập đến ý
nghĩa “cực cấp” của các hình thức trắng bóc, đen thui, đỏ lòm, v.v. và các
thành ngữ so sánh như đẹp như tiên, xấu như ma, đỏ như son, v.v.. Ông đã
thống kê 560 đơn vị có cấu trúc như hai hình thức trên, và tác giả chỉ dừng
lại ở đó [144, tr. 114 – 132].
Trần Trọng Kim – Bùi Kỷ – Phạm Duy Khiêm (1954) xem xét
nhiều hơn các hình thức liên quan đến ý nghĩa “cực cấp” và có xác định ý
nghĩa “cực cấp” nhưng gọi là “trạng thái tối cao” [88, tr. 85].
Trước hết, đối với hình thức như cỏn con, dửng dưng, phau phau,
thênh thang, phăng phắc, vằng vặc, thoăn thoắt, v.v. các tác giả gọi là “tĩnh
từ ghép” và xác định chỉ là “nghĩa mạnh thêm” “do một tiếng trạng từ nói


8

lắp lại” tĩnh từ gốc [88, tr. 82]. Đối với những hình thức thể hiện như buồn
tênh, cũ rích, lạnh ngắt, vắng teo, trong veo, đỏ lòm, v.v., các tác giả quan
tâm về mặt ngữ pháp, không xét về mặt ý nghĩa và xác định tênh, rích,
ngắt, teo, veo, lòm, v.v. là đơn vị không có nghĩa, chúng chỉ là “trạng từ
đơn chỉ thể cách” có tính ràng buộc đối với tĩnh từ đứng trước nó. Các tác
giả nói rằng các trạng từ đơn này “chỉ dùng riêng được với mấy tiếng tĩnh
từ. Dùng lẻ một mình, thì những tiếng trạng từ ấy không có nghĩa gì cả”
[88, tr. 102].
Đặc biệt khi bàn về các “đẳng cấp nghĩa tiếng tĩnh từ” (tức vị từ chỉ
tính chất, trạng thái nghĩa thang độ – PHD), các tác giả xác định ý nghĩa
“cực cấp” là “chỉ cái phẩm hay cái trạng tối cao, không có sự so sánh với
vật khác, hoặc tuyệt đối trong sự so sánh với vật khác” và phân biệt rõ
trong hai trường hợp gọi là: tuyệt đối tối cao đẳng cấp và tỉ hiệu tối cao

đẳng cấp. “Tuyệt đối tối cao đẳng cấp chỉ đẳng cấp rất cao, không có ý
nghĩa so sánh gì cả” là các ngữ có trạng từ được đánh dấu phía trước tĩnh từ
như cực, chí, tối, đại, v.v. trong cực giỏi, chí thiện, tối linh, đại tài, v.v.
hoặc phía sau tĩnh từ như hay vô cùng, nhiều vô số, v.v. và đồng thời coi
lắm, rất, quá cũng có ý nghĩa như vậy mà chưa phân biệt lắm, rất, quá là
các hình thức đánh dấu mức độ cao. “Tỉ hiệu tối cao đẳng cấp chỉ cái bậc
hơn nhất hay kém nhất của một người hay một vật trong sự so sánh” của
một tập hợp, nghĩa là trong đó nếu tính chất, trạng thái của SVHT ở “bậc
tối cao thì có những tiếng nhất, hơn cả, hơn hết cả, v.v. đứng sau tiếng tĩnh
từ” và nếu ở “bậc tối thấp, thì có những tiếng bét, kém nhất, kém hơn cả,
v.v. đứng sau tiếng tĩnh từ” [88, tr. 84 – 86]. Sự phân biệt này chính là dựa
theo cách phân loại hai mức độ cực cấp (superlative degree), đó là cực cấp
tương đối (relative superlative) và cực cấp tuyệt đối (absolute superlative)
trong các ngôn ngữ Ấn Âu.


9

Hồ Lê (1976), khi đề cập đến các hình thức cũ rích, đầy ắp, trắng hếu,
v.v., tác giả không xác định đây là PTCC mà định danh chúng với ý nghĩa
tương tự là “từ ghép biểu thị mức độ hết sức cao kèm theo sắc thái biểu
cảm”. Theo đó, với quan điểm “trong tiếng Việt nguyên vị là đơn vị ngữ
pháp cơ sở, từ đó tạo ra từ đơn, từ tố; rồi từ tố lại tạo ra từ ghép, v.v.”, tác
giả coi các đơn vị au, ắp, bóc, bươm, cộp, củn, choang, choèn, chót, hếu,
hiu, hoảnh, hoắc, hoắm, hoắt, hoe, khấc, lè, lốp, lự, mèm, muốt, múp, trịch,
vánh, xóa, xợt, v.v. là các “nguyên vị hệ thống phụ thuộc không lấp láy”
[40, tr. 126 – 154]. Chúng được ghép với nguyên vị thực theo mẫu “nguyên
vị thực + nguyên vị hệ thống phụ thuộc không lắp láy” tạo hình thức diễn
đạt kiểu như cũ rích, đầy ắp, trắng hếu, v.v. để “biểu thị mức độ hết sức
cao của tính chất cũ, đồng thời cũng biểu thị một sắc thái tình cảm nhất

định” [40, tr. 342 – 344].
Nguyễn Văn Tu (1978) coi các hình thức trắng nõn, ngọt lịm, v.v.
gồm có từ tố nghĩa chính là trắng, ngọt còn từ tố sau nó là tính từ bổ nghĩa
nói lên tính chất của trắng, của ngọt là tính từ ghép bổ nghĩa theo dạng
“tính – tính” [80, tr. 36 – 64]. Từ đó tác giả chia nghĩa bổ sung của từ tố
thành các loại: nghĩa phân biệt, nghĩa chức năng, nghĩa phân bố, v.v.. Các
nghĩa bổ sung này chỉ nhằm “tăng thêm nghĩa cho từ hoặc giảm nghĩa đi
hoặc cả hai từ tố bổ sung cho lẫn nhau tạo thành nghĩa của từ”. Vì thế các
hình thức trắng xóa, trắng tinh, trắng ởn, trắng toát, v.v. có nghĩa phân
biệt. Bởi vì các từ này đều có cùng từ tố trắng mà nghĩa khác nhau nhờ các
từ tố xóa, ởn, tinh, toát, v.v. [80, tr. 113 – 114]. Bên cạnh đó, tác giả coi các
hình thức đẹp như tiên, lành như bụt, dai như đỉa đói, nhanh như cắt, hôi
như cú, chắc như đanh đóng cột, v.v. chỉ là những quán ngữ so sánh và có
hai loại: loại có từ như (đau như cắt, đẹp như tiên, v.v.) và loại không có từ
như (dốt đặc cán mai, nghèo rớt mồng tơi, v.v.). Những quán ngữ này chỉ


10

có ý nghĩa “gợi hình ảnh rất sinh động” mà thôi [80, tr. 186]. Tuy nhiên,
khi phân tích cấu trúc các ngữ láy ba như khít khìn khịt, sát sàn sạt, v.v. tác
giả đã xác định được “nghĩa tuyệt đối”, nhưng các hình thức như bé tí tẹo
tèo teo, thơm phưng phức, v.v. lại chỉ có “ý nghĩa cao hơn” [80, tr. 74 –
75]. Quả thật, tác giả phân tích nhiều hình thức liên quan đến ý nghĩa “cực
cấp” nhưng chỉ nhìn nhận một hình thức có ý nghĩa “cực cấp”, đó là từ
ghép láy ba.
Đái Xuân Ninh (1978) quan niệm các đơn vị như ngắt, nhách, tênh,
tanh, ngầu, v.v. là các hình vị hạn chế, chỉ xuất hiện một lần, như dai
nhách, hoặc xuất hiện ràng buộc trong một số trường hợp nhất định, như
xanh ngắt, lạnh ngắt, tím ngắt, nhẹ tênh, lạnh tanh, vắng tanh, đỏ ngầu,

đục ngầu, v.v. [14, tr. 12 – 18] và được coi là tính từ đã xác định, không thể
kèm theo bổ tố mức độ rất, cực, cực kì, hơi, v.v. [14, tr. 87]. Đồng thời,
cực, cực kì, v.v. là bổ tố “đặt trước tính từ để chỉ mức cao nhất của trạng
thái”, “coi như không thể hơn được nữa”, tức mang ý nghĩa “cực cấp” [14,
tr. 136]. Đối với các ngữ láy như phênh phếch, lênh khênh, lè tè, lòm lòm,
v.v. trong các hình thức bạc phênh phếch, cao lênh khênh, thấp lè tè, đỏ
lòm lòm, v.v. tác giả xem đó là cụm tính từ miêu tả có hình thức tăng cường
nhấn mạnh về mặt nghĩa [14, tr. 266]. Ngoài ra, đối với ngữ láy ba, tác giả
gọi là hình thức láy nhiều tầng, “hình thức láy lại càng dài thì ý nghĩa của
nó càng được nhấn mạnh” [14, tr. 199]. Có thể thấy, tác giả nêu những hình
thức diễn đạt có liên quan đến ý nghĩa “cực cấp” và cho rằng các hình thức
diễn đạt này thể hiện ý nghĩa tăng cường hoặc nhấn mạnh để “chỉ mức cao
nhất của trạng thái”, “coi như không thể hơn được nữa”.
Lê Cận – Phan Thiều (1983) cũng như Ủy Ban Khoa Học Xã Hội
(1983) gọi các hình thức rộng thênh thang, đẹp lộng lẫy, hết sức giỏi/ giỏi
hết sức, v.v. là tính ngữ có các phụ tố thênh thang, lộng lẫy, v.v. với tác


11

dụng miêu tả vừa sắc thái vừa mức độ tuyệt đối của tính chất. Các phụ từ
dùng làm phụ tố loại này như hết sức, vô cùng, cực kỳ, v.v. có thể đặt trước
hoặc sau tính ngữ [47, tr. 151], [98, tr. 147 – 151].
Cao Xuân Hạo (1998) xác định: “Các yếu tố ràng buộc tuyệt đối còn
xuất hiện sau một số vị từ làm thành những tổ hợp có mô hình trọng âm
[01] như say mèm, sáng trưng, đỏ lòm, hôi rình, đắng nghét, v.v.. Đó là
những trạng ngữ chỉ mức tối cao (superlatif) của các tính/ vị từ đi trước,
kèm thêm một sắc thái biểu cảm nhất định và/ hay một ý nghĩa ấn tượng”.
Có thể nói, tác giả đã nói đến ý nghĩa “cực cấp” được thể hiện trong hình
thức say mèm, sáng trưng, đỏ lòm, hôi rình, đắng nghét, v.v. Tác giả giải

thích ý nghĩa “cực cấp” của các hình thức này theo mẫu: “A đến nỗi/ đến
mức B” như trong đau điếng, mệt nhoài, béo núc, phục lăn, ngọt lịm hoặc
là “A đến nỗi như thể (bị) B” như trong đen thui, tròn vo, giống đúc, uớt
đầm, lép kẹp” [4, tr. 201 – 202]. Đồng thời tác giả cũng đồng tình với ý
kiến của Trương Vĩnh Ký khẳng định các thành ngữ so sánh kiểu như chậm
như rùa, đỏ như son, v.v. biểu hiện ý nghĩa “cực cấp” [4, tr. 439]. Về sau,
tác giả cho rằng các đơn vị như chí, chúa, cực, lắm, quá, tối, v.v. biểu hiện
ý nghĩa “cực cấp” [5, tr. 86 – 87] và các đơn vị như au, ắp, bóc, thui, lòm,
v.v. là vị từ trạng thái “bao giờ cũng hàm nét nghĩa tuyệt đối” [6, tr. 66].
Diệp Quang Ban – Hoàng Văn Thung (1998) xem các hình thức
xanh lè, xanh um, xanh lơ, xanh biếc, xanh lục, xanh rì, xa tắp, xa tít, thẳng
đơ, thẳng đuột, thẳng tắp, thẳng tuốt, sưng vếu, sưng vù, sưng húp, sưng
mọng, v.v. là từ ghép chính phụ sắc thái hóa, “trong đó từ tố phụ có tác
dụng bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho toàn từ ghép này khác
với từ tố chính khi từ tố chính hoạt động một mình như từ rời, hoặc khiến
cho từ ghép sắc thái hóa này khác với từ ghép sắc thái hóa khác về ý
nghĩa”. “Thành tố phụ ở từ ghép sắc thái hóa, có thể rõ nghĩa, phai nghĩa,


12

không có nghĩa…” [11, tr. 50]. Từ đó các tác giả xác định những hình thức
này là tính từ chỉ đặc trưng tuyệt đối [11, tr. 103].
4.2.2. Những phân tích các hình thức liên quan đến ý nghĩa “cực cấp”
nhưng không xác định ý nghĩa “cực cấp”
Phan Khôi (1954) có khái quát đặc điểm cấu trúc của một, hai hình
thức liên quan đến ý nghĩa “cực cấp” nhưng không khẳng định ý nghĩa “cực
cấp”. Do quan niệm từ (ông gọi là thành từ [84, tr. 61]) là một đơn vị hoàn
chỉnh gồm hai loại: từ có tiếng đệm và từ không có tiếng đệm, trong đó
“Tiếng đệm là những tiếng tự nó không có nghĩa, đệm sau một từ căn hay

đệm cho nhau để nảy ra nghĩa”, nên tác giả xem các tiếng như dờn, dượi,
khè, hoe, hỉm, ngắt, rợi, um, v.v. trong các hình thức như xanh dờn, buồn
dượi, vàng khè, vàng hoe, ấm hỉm, vắng ngắt, mát rợi, xanh um, v.v. và
các tiếng láy trong hình thức như sành sanh (sạch sành sanh), khòe khoe
(khỏe khòe khoe), dửng dừng (dửng dừng dưng), v.v. là tiếng đệm có chức
năng “phó từ làm lọn nghĩa cho từ căn đi kèm theo” và phân biệt nghĩa của
các từ cùng từ căn như xanh rì, xanh um, xanh dờn, xanh ngắt, v.v. [84, tr.
59 – 74].
Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê (1963) xem các trạng từ1 như
nhẹ, đỏ, sạch, khít, v.v. chỉ diễn đạt một ý đơn giản là nhẹ, đỏ, sạch, khít,
v.v.; và các từ kép, như nhẹ nhàng, nhẹ nhẻ nhè diễn đạt diễn tả ý nhẹ của
trạng từ nhẹ; hay khập khà khập khiễng cũng diễn tả ý khiễng của trạng từ
khiễng, v.v. Chính vì thế, các tác giả cho rằng ngữ láy chỉ tính chất, trạng
thái là từ kép do sự điệp âm, điệp từ mà ra và chỉ diễn đạt nghĩa mạnh hơn
của từ đơn gốc, như xốp xộp (xốp lắm), khít khịt (khít lắm), sết sệt (sệt lắm),
v.v. hoặc diễn đạt nghĩa nhẹ hơn của từ đơn gốc, như xôm xốp (hơi xốp),
khin khít (hơi khít), sền sệt, (hơi sệt), v.v. [94, tr. 61 – 95]. Đặc biệt, đối với
Dựa vào tính chất động và tĩnh, hai ông gọi các từ đơn chỉ hành động, tính chất, trạng thái là trạng từ
(Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê 1963: 119 – 182).
1


13

các hình thức do hai từ đơn trở lên ghép với nhau chỉ một sự vật hay sự
trạng được các tác giả khẳng định là ngữ. Các hình thức diễn đạt kiểu như
đỏ ối, đỏ bừng, tái mét, đông nghịt, v.v. có hai yếu tố: trạng từ chính (đỏ,
tái, đông, v.v.) và hình dung từ (ối, bừng, mét, nghịt, v.v.) bổ nghĩa cho
trạng từ chính, “kết hợp với nhau chặt chẽ gần như là một ngữ” [94, tr. 244
– 257]. Đây là sự khẳng định về cấu trúc của một ngữ thể hiện ý nghĩa “cực

cấp” nhưng các tác giả chưa nói đến ý nghĩa “cực cấp” của chúng.
Lê Văn Lý (1972) cũng phát biểu rằng trong tiếng Việt có cách so
sánh bậc hơn nhất của tĩnh từ như Trần Trọng Kim – Bùi Kỷ – Phạm Duy
Khiêm đã đề cập và khi nói về ý nghĩa của tĩnh từ như giàu trong các hình
thức diễn đạt như “Nó thật giàu; Nó thiệt giàu; Nó giàu ghê; Nó giàu vô
kể; Nó giàu quá sức; Nó giàu hơn ai hết; Nó giàu không thể tả được; v.v”
[48, tr. 194 – 195] tác giả chỉ xem đó là những hình thức để nhấn mạnh mà
thôi.
Nhìn từ góc độ từ nguyên, Nguyễn Tài Cẩn (1981) coi các hình thức
kiểu như xanh lè, trắng bệch, thơm phức, v.v. là từ ghép phụ nghĩa thỉnh
thoảng cũng có hiện tượng mất nghĩa ở từ phụ nhưng không nhiều. Vì theo
tác giả “có lẽ xanh lè, trắng bệch, thơm phức trước kia cũng có thời kì được
nhận thức như thuộc kiểu láy nghĩa: Lè ở một vùng Mường Ngọc – Lặc
(Thanh Hóa) có nghĩa là xanh. Bệch vốn bắt nguồn từ yếu tố bạch (=trắng)
gốc Hán – Việt. Phức trong tiếng Hán – Việt cũng có nghĩa là thơm” [70,
tr. 94]. Và tác giả không bàn đến ý nghĩa “cực cấp” của các hình thức này.
Nguyễn Kim Thản (1981) khẳng định các “hình thức: đẹp như tiên,
đỏ như gấc, đen như củ súng, v.v. chỉ là cụm tính từ có bổ ngữ gián tiếp sau
tính từ có tác dụng so sánh” [59, tr. 83 – 85]. Ông không xác định ý nghĩa
“cực cấp” hay tuyệt đối của các hình thức so sánh này như Hoàng Phê về
sau có đặt vấn đề: “Và phải chăng cũng chính vì vậy mà khi cần so sánh


14

làm nổi bật một mức độ nào đó, thì thường là so sánh với một mức độ thậm
chí càng cao hơn, một mức độ cao tuyệt đối hoặc lí tưởng kiểu như, trong
tiếng Việt: đẹp như tiên, vàng như nghệ, lạnh như băng giá ?” [31, tr. 52].
Tác giả chỉ xác định “các hình thức chắc nịch, xanh ngắt, xanh lè, trắng
lốp, nặng trịch, đông nghịt, v.v. và một số hình thức mà từ tố giả bao giờ

cũng có hình thức láy như sáng vằng vặc, trần trùng trục,v.v. là tính từ ở
cấp tuyệt đối” [59, tr. 270].
Đỗ Hữu Châu (1981) coi “xanh lè, xanh om, xanh rì, thẳng đuột,
thẳng đơ, thẳng tắp, sưng vù, sưng vếu, v.v. là từ ghép một chiều có lè, om,
rì, đuột, đơ, tắp, vếu, v.v. là các hình vị phân nghĩa và xanh, thẳng, sưng,
tròn, v.v. là hình vị chỉ loại lớn”. “Các từ ghép phân nghĩa này có tác dụng
sắc thái hóa các hình vị chỉ loại lớn” và các hình vị phân nghĩa thường mất
nghĩa vì theo “phân tích từ nguyên cho thấy ít nhiều chúng đồng nghĩa hoặc
liên quan về ngữ nghĩa với ý nghĩa của hình vị chỉ loại lớn”. Từ đó tác giả
khẳng định “các ngữ cố định mà từ trung tâm nằm ngay trong ngữ thì đồng
nghĩa một cách hiển nhiên với từ sẵn có” [21, tr. 48 – 68], như: thẳng ruột
ngựa đồng nghĩa với thẳng; chậm như rùa đồng nghĩa với chậm; yếu như
sên đồng nghĩa với yếu; dai như chão, dai như đĩa đói, dai như chó nhai giẻ
rách đồng nghĩa với dai; v.v..
Cù Đình Tú (1983), trên phương diện phong cách học, xác định đặc
điểm cấu trúc các hình thức ngon ơ, mốc thếch, trắng dã, v.v. là khẩu ngữ
có “yếu tố 2 thêm vào vốn không có nghĩa đứng riêng, vốn không phải là
một từ độc lập nhưng khi thêm vào thì làm cho đơn vị mới trở thành từ
khẩu ngữ, mang tính miêu tả cụ thể, sắc thái biểu cảm âm tính” [9, tr. 134].
Hoàng Văn Hành (1991) nhận thấy “các đơn vị như au, ngắt, lè, v.v.
là những đơn vị từ vựng biểu thị thuộc tính của thuộc tính, (…) chuyên làm
chức năng phụ nghĩa bậc hai”, diễn đạt “mức độ cao” với “hai nét nghĩa là:


15

với một vẻ nào đó, gây một cảm giác nhất định tùy theo sự bình giá của
người nói” như (đỏ) au “là (đỏ) ở mức độ cao, với vẻ tươi, nhìn thấy thích
mắt”. Từ đó tác giả kết luận các đơn vị như au, ngắt, lè, v.v. là từ vì chúng
“có hai đặc trưng cơ bản và tổng quát là: a) chúng có tính độc lập tương đối

về hình thái – cú pháp; b) chúng có cơ cấu nghĩa riêng”. Đồng thời tác giả
cũng coi những thành ngữ so sánh kiểu như chậm như rùa, khỏe như vâm,
v.v. cũng biểu hiện ý nghĩa mức độ cao [36, tr. 106 – 108]. Có thể thấy
Hoàng Văn Hành xác định các hình thức: a) từ, như au, ngắt, lè, v.v.; b)
ngữ cố định, như đỏ au, xanh ngắt, xanh lè, v.v.; chậm như rùa, khỏe như
vâm, v.v. chỉ biểu thị mức độ cao.
Đào Thản (1998) có bàn đến các PTCC, như: cực điểm, cực độ, cực
kì, cùng cực, cực, v.v.; vô kể, vô cùng, vô hạn độ, tột bậc, tột cùng, tột độ;
trứ danh, tuyệt vời, tuyệt tác, tuyệt diệu, tuyệt trần, tuyệt, v.v.; hết sức, hết
cỡ, hết xảy, chúa, v.v. nhưng tác giả lại cho rằng đây là “những từ ngữ vốn
đã mang sẵn ý nghĩa phóng đại”, “tương đương như các phó từ chỉ mức độ”
được dùng để “thể hiện sự phóng đại trong lời nói”. Và tác giả coi các cách
miêu tả buồn nẫu ruột, thương/ tiếc đứt ruột, tức lộn ruột, giận sôi gan, mệt
đứt hơi, sợ hết hồn, đói rã họng, v.v. là những “đặc ngữ, quán ngữ” biểu
hiện “ý nghĩa phóng đại luôn luôn xuất phát từ cách nhìn và sự đánh giá
chủ quan của người nói” [16, tr. 154 – 155].
Gần đây Huỳnh Thị Hồng Hạnh (2002), trong luận án tiến sĩ, đã
nghiên cứu “Đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của các vị từ có yếu tố đứng
sau biểu thị mức độ cao trong tiếng Việt” như nhắm nghiền, im thít, cấm
tiệt, lăn đùng, xanh lè, đỏ au, chán phèo, chát sì, mỏng lét, nhẹ tênh, nặng
trịch, nhẹ tênh, sáng choang, to kếch, đầy phè, vàng ệch, đắng nghét, thẳng
đuột, tối hù, nhám sì, hôi rình, tẻ ngắt, đói ngấu, sâu hoắm, v.v.. Chúng tôi
nhận thấy, mặc dù có đề cập đến các yếu tố biểu thị mức độ cao như ắp, au,


×