Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

đặc điểm của trường ca thu bồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.75 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN XUÂN CỔN

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG CA THU BỒN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2002


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu: ................................................... 4
2. Giới hạn đề tài:............................................................................................... 5
2.1. Đối tượng khảo sát: ............................................................................ 5
2.2. Đối tượng nghiên cứu: ....................................................................... 5
3. Lịch sử vấn đề: ............................................................................................... 5
3.1. Nhận xét mở đầu: ............................................................................... 5
3.2. Những nhận xét chung về Thu Bồn: .................................................. 6
3.3. Nhận xét về kết cấu, cốt truyện:......................................................... 8
3.4. Nhận xét về cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình của trường ca
Thu Bồn..................................................................................................... 9
3.5. Nhận xét về hình tượng và ngôn ngữ ............................................... 11


4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 12
4.1. Phương pháp hệ thống: .................................................................... 12
4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp: .................................................... 12
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu: ...................................................... 12
4.4. Phương pháp xã hội học:.................................................................. 13
5. Đóng góp của luận văn: ............................................................................... 13
6. Kết cấu luận văn: ......................................................................................... 13
CHƯƠNG 1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN ... 15
1.1. Thời đại - nhà thơ...................................................................................... 15
1.1.1. Thời đại ......................................................................................... 15
1.1.2. Nhà thơ .......................................................................................... 15
1.2. Hình tượng nhân vật trong trường ca Thu Bồn: ....................................... 17
1.2.1. Hình tượng người chiến sĩ ............................................................ 18
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ .............................................................. 34
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG TRỮ TÌNH TRONG
TRƯỜNG CA THU BỒN ........................................................................................ 40
2.1. Cảm hứng sử thi trong trường ca Thu Bồn: .............................................. 40
2.2. Cảm hứng trữ tình trong trường ca Thu Bồn: ........................................... 51
CHƯƠNG 3. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG
CA THU BỒN .......................................................................................................... 63
3.1. Không gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn: .................................... 63


3.1.1. Không gian thanh bình yên ả: ....................................................... 63
3.1.2. Không gian của miền đất đau thương mà anh dũng: .................... 66
3.1.3. Không gian mở rộng. .................................................................... 69
3.1.4. Không gian đưa tiễn, không gian thương nhớ: ............................. 72
3.2. Thời gian nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn .................................. 74
3.2.1. Thời gian lịch sử: .......................................................................... 75
3.2.2. Thời gian cá nhân .......................................................................... 77

CHƯƠNG 4. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRƯỜNG CA CỦA THU
BỒN .......................................................................................................................... 81
4.1. Ngôn từ trong trường ca của Thu Bồn ...................................................... 81
4.2. Giọng điệu trong trường ca của Thu Bồn ................................................. 92
4.2.1. Giọng điệu kể, đối thoại: ............................................................... 93
4.2.2. Giọng điệu mang tính nhận định, khái quát, tổng kết một quá trình
................................................................................................................. 96
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 101


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:
Trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, đặc
biệt những tác phẩm xuất bản trong những năm 70 là hiện tượng đáng chú ý của thơ ca
Việt Nam hiện đại. Hầu hết những tác phẩm trường ca này viết về những sự kiện mang
tầm vóc lịch sử khác nhau, từ sự tích anh hùng của một người đến lịch sử chiến công
của cả dân tộc, nhưng tất cả đều mang hơi thở và nội dung lớn của thời đại. Đó là
những tình cảm thiêng liêng với nhân dân, đất nước, là sự hi sinh, cống hiến của cả
một thế hệ. Điều đó được phản ánh đậm nét trong văn học, đặc biệt là trong trường ca
của Thu Bồn. Trường ca của Thu Bồn chiếm một lượng lớn trong toàn bộ trường ca
viết về thời kì chiến tranh chống Mĩ. Bằng cảm xúc mãnh liệt, nhà thơ Thu Bồn đã làm
sống lại cuộc chiến tranh giàu chất sử thi của nhân dân ta qua những bản trường ca bất
hủ: Bài ca chim Chơ rao, Campuchia hy vọng, vách đá Hồ Chí Minh...
Đi vào tìm hiểu trường ca của Thu Bồn là đi vào thế giới những hình tượng (phụ
nữ, chiến sĩ, nhân dân, dân tộc...) trong những thời kì ác liệt của khói lửa chiến tranh.
Những hậu quả của chiến tranh, những triết lý về cuộc sống... đều được phản ánh sinh
động trong trường ca, tác động sâu rộng đến tâm hồn con người Việt Nam.Vì vậy
nghiên cứu trường ca của Thu Bồn là một việc làm cần thiết.
Xét về mặt thực tiễn giảng dạy hiện nay, thì các tác phẩm trường ca góp mặt rất

khiêm tốn trong chương trình PTTH, Cao đẳng và cả Đại học. Mặc đù vậy, việc nghiên
cứu trường ca nói chung và trường ca Thu Bồn nói riêng vẫn cần thiết đối với công tác
giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, phổ thông. Các đoạn trích trong các
trường ca như : Theo chân Bác của Tố Hữu, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa
Điềm, và đặc biệt là trường ca Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn... với chất trữ tình sâu
lắng, với âm hưởng sử thi hào hùng đã được giáo viên, học sinh, sinh viên phân tích,
nghiên cứu nhưng chỉ mới tìm hiểu ở những đoạn trích. Chính vì thế , việc nghiên cứu
một cách có hệ thống trường ca của Thu Bồn cũng góp phần không nhỏ vào việc giảng
dạy, cảm nhận trường ca. Thể loại trường ca đã được các nhà nghiên cứu phê bình tìm
hiểu khá sâu sắc: văn phong, cảm xúc chủ đạo, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nghệ
4


thuật trong trường ca của Thu Bồn ra sao, đã được nghiên cứu khá sâu trong nhiều
công trình của các nhà nghiên cứu, các nhà phê bình văn học.Còn vấn đề quan niệm
nghệ thuật về con người; cảm hứng sử thi và trữ tình; thời gian và không gian nghệ
thuật; ngôn từ nghệ thuật……hầu như chưa được nhìn dưới góc độ tổng hợp trong
trường ca Thu Bồn.
Trường ca Thu Bồn vừa có giọng điệu thật riêng biệt vừa rất dễ hiểu, dễ nắm bắt
đối với mọi người. Điều đó mang đến cho trường ca tiếng nói mới mẻ, tươi trẻ...
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài "Đặc điểm của trường ca Thu
Bồn" để nghiên cứu, trên cơ sở tiếp thu kế thừa một số kinh nghiệm và kết quả của
những công trình đi trước.

2. Giới hạn đề tài:
2.1. Đối tượng khảo sát:
Xuất phát từ mục đích của đề tài đã đề ra, luận văn này tập trung nghiên cứu xem
xét, làm sáng tỏ những điều cơ bản xung quanh các vấn đề cụ thể như:
Những hình tượng nhân vật trong trường ca của Thu Bồn: hình tượng người
chiến sĩ, người phụ nữ…

Tính chất trữ tình và tính chất sử thi anh hùng trong trường ca của Thu Bồn.
Vài nét nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn: không gian và thời gian nghệ
thuật trong trường ca, ngôn từ, giọng điệu trong trường ca của Thu Bồn

2.2. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn này tập trung nghiên cứu toàn bộ trường ca của Thu Bồn: "Bài ca chim
ChoRao" (1964); "Vách đá Hồ Chí Minh" (1972); "Quê hương mặt trời vàng", "Chim
nàng chốt lửa" (1975); "Tiếng hú người DioLoa"; "Badan khát" (1977); "Oan 76
ngọn"; "Người gồng gánh phương đông"; "Hà Nội ngày nào"; "CamPuChia hy vọng"
(1979)

3. Lịch sử vấn đề:
3.1. Nhận xét mở đầu:
Trường ca là thể loại thơ có dung lượng đồ sộ, đề cập đến những nội dung lớn
lao, có tầm khái quát lịch sử và được viết bằng cảm hứng mãnh liệt. Chúng tôi tiếp cận
5


với những công trình nghiên cứu phê bình về trường ca của Thu Bồn để thấy rõ những
đóng góp của ông trong việc sáng tác trường ca: quan niệm về con người thể hiện qua
cách miêu tả nhân vật của tác giả, giá trị của từng trường ca. Qua đó chúng ta tiếp thu
có chọn lựa thành tựu của những công trình đi trước và vận dụng sự hiểu biết của bản
thân để khảo sát vấn đề: "Đặc điểm của trường ca Thu Bồn".
Là một tác giả viết nhiều trường ca nhất trong tất cả các nhà thơ Việt Nam, vì thế,
từ ngay trường ca đầu tiên (cũng là tác phẩm đầu tiên). "Bài ca chim Chơrao", cho đến
nay, đã có khá nhiều bài viết về sự nghiệp văn chương của Thu Bồn. Ta có thể phân ra
làm hai bình diện để khái lược lịch sử vấn đề. Đó là: những ý kiến chung về Thu Bồn
và những ý kiến riêng về trường ca Thu Bồn.

3.2. Những nhận xét chung về Thu Bồn:

3.2.1. Về phong cách thơ Thu Bồn, Nguyễn Trọng Tạo trong Thương nhớ Thu
Bồn - Hà Đức Trọng có nhận xét khá sắc nét: "Thơ văn anh có thể ví với dòng sông
đầy ghềnh thác, cuộn xiết và réo gọi... Ngòi bút anh cắm sâu vào những đề tài mang
tính anh hùng ca, nhưng cũng chan hòa máu lệ trong những bi thương đau khổ của
kiếp người" [37, tr.790]
3.2.2. Ngô Thế Oanh trong Người hiến mình trọn vẹn cho thơ đánh giá: "Trong
những nhà thơ đương đại, Thu Bồn là một trong những nhà thơ có nhiều bài thơ tình
say đắm nhất" [38,tr.738].
3.2.3. Thanh Thảo trong Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng cho rằng: Thu
Bồn "là thi sĩ của tình yêu cuồng nhiệt với cuộc đời... Về sáng tác, phần bản năng là
phần mạnh nhất trong tác phẩm của Thu Bồn". Thanh Thảo cũng cho rằng: Chính vì
Thu Bồn "quá lo âu để phần ý thức sáng rõ can thiệp" khiến "bản năng nghệ thuật"
không dẫn dắt được cảm xúc tạo nên điểm yếu trong nhiều bài, nhiều đoạn thơ của
Thu Bồn. Nhưng, cũng như Ngô Thế Oanh, Thanh Thảo khẳng định: "Anh xứng đáng
là một trong những cánh chim Chơrao đầu đàn của Văn học chống Mỹ" [51, tr.551].
3.2.4. Trung Trung Đỉnh trong Tráng sĩ hề...dâu bể có một nhận xét khá khái quát
về phong cách thơ Thu Bồn: "cái dâu bể sâu nặng ân tình với đồng đội, nhân dân, Tổ
quốc, chính nó đã tạo nên vẻ đẹp thơ ông, cái đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian
nan khúc khuỷu vừa ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn" [37, tr.529] và "Thơ Thu Bồn
6


hiện đại ngay cả trong cảm xúc" và khẳng định: "ông là nhà thơ hàng đầu trong số
đông đảo các nhà thơ thời chống Mỹ" [37, tr.544].
3.2.5. Vũ Khoa trong Bay và hát cùng Bài ca chim Chơrao cũng đánh giá: "Thu
Bồn là một nhà thơ viết nhiều trường ca nhất và thành công nhất của dòng văn học
cách mạng trong chiến tranh chống Mỹ xâm lược"; Vũ Khoa cũng cho rằng: "Có nhiều
nhà thơ hiện đại viết trường ca, nhưng chất tráng ca trong trường ca thơ thì chỉ có Thu
Bồn" [37,tr.607].
3.2.6. Huỳnh Như Phương với bài Những bài thơ viết dưới trời sao, đăng trên

Tuổi trẻ Chủ Nhật có nhận xét: "Những bài thơ đầy chất sử thi và mang dáng vẻ trầm
mặc của Thu Bồn như là được viết ra dưới một bầu trời đầy sao. Thiên nhiên khoáng
đạt đã có thể góp phần làm cho con người điềm tĩnh hơn sau những khổ đau. Càng
hiển nhiên là vậy khi tâm hồn người phiêu lãng đã tìm được bến đỗ. Mà nói cho cùng,
có người phiêu lãng nào lại không đến lúc quay về bến đỗ của đời mình, dù đôi khi chỉ
là một bến đỗ tượng trưng nào đó..." [40, tr.26]
3.2.7. Tác giả Ngô Thế Oanh nhận xét "Thu Bồn như dòng sông cuộn xiết":
"Trong các nhà thơ đương đại mà tôi được quen biết, ít ai bộc lộ tâm hồn trước người
khác thật thà như Thu Bồn. Những nhà thơ thựcsự là thi sĩ bao giờ cũng chân thành,
nhưng ở Thu Bồn tôi muốn dùng chữ thật thà. Ông bộc lộ trước ta cả niềm vui lẫn nỗi
đau không một chút dấu diếm" [39, tr.10]
3.2.8. Nguyễn Thị Liên Tâm trong cuốn Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn (2002): "Đặc
điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ" xem xét trường ca ở góc độ thể
loại và trên bình diện tổng hợp nhiều mặt của vấn đề. Trong đó tác giả đã dành nhiều
phần, nhiều đoạn khảo sát về trường ca của Thu Bồn trong thế so sánh với các trường
ca của các tác giả khác. Tác giả đã có nhiều nhận xét sắc sảo, quan trọng về trường ca
Thu Bồn, nhất là các mặt: hình tượng nhân vật, cảm hứng sáng tác, ngôn từ,...
3.2.9. "Nhà thơ Thu Bồn trong lòng bạn bè" - tác giả Phạm Trung Thành Chung:
"Thu Bồn là người có cá tính mạnh luôn luôn sống hết mình, từ việc lo một bữa ăn đến
làm cái lán để ở, từ việc đi săn thú rừng đến việc gùi gạo, bổ củi, làm thơ... Trong thơ
của Thu Bồn, cái chất cuồn cuộn của trường ca dường như luôn luôn thường trực trong
từng câu từng chữ, kể cả trong những bài thơ ngắn, kể cả trong tiểu thuyết của Thu
Bồn..." - [19, tr.19]
7


Như vậy, đa số các bài nghiên cứu về Thu Bồn ở phần này chủ yếu là đưa ra
những đánh giá về phong cách thơ Thu Bồn, về chất văn hoá Tây Nguyên hùng vĩ,
phóng khoáng và văn hóa Quảng chân thành, bộc trực tạo nên phong cách thơ ông. Đa
số tác giả đều khẳng định vị trí đầu đàn của Thu Bồn trong thơ ca kháng chiến chống

Mỹ.
3.2.10. Phạm Tiến Duật trong "Người dựng lều trong đêm để viết" khẳng định:
"Thu Bồn là người có thành công và đi đầu trong số những nhà thơ làm trường ca của
ta" [37, tr.518].
3.2.11. Vĩnh Quang Lê trong "Thu Bồn sống mãi cùng nhịp sống trường ca"
khẳng định "bằng trường ca Chim Chơrao Thu Bồn đã mở đầu một thời đại mới của
trường ca" [37, tr.613].

3.3. Nhận xét về kết cấu, cốt truyện:
3.3.1. Trong cuốn "Thơ Việt Nam hiện đại"của các tác giả: Phong Lê, Vũ Văn Sỹ,
Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (xuất bản năm 2001),Vũ Văn Sỹ có bài "Trường ca trong
hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại" có bàn đến trường ca Thu Bồn. Thu Bồn gọi
kết cấu Bài ca chim Chơrao là kết cấu cốt truyện - liên tưởng. Câu chuyện được kết lại
từ thời hiện tại là cảnh tù ngục đến tra tấn và hành hình. Tất cả những gì mà người đọc
hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật đều thông qua lời ca trữ tình của họ.
Nhà thơ khẳng định "chỉ kết cấu theo kiểu đó mới diễn đạt được chủ đề",... "tự sự mà
không vân vi, kể lể". Đối với Thu Bồn, tư tưởng chủ đề của tuyến sự kiện quy định cốt
truyện: "Từ chủ đề của tuyến sự kiện tìm ra kết cấu cốt truyện thích hợp rồi mới huy
động tổ chức tài liệu, vốn sống và khuynh hướng hoá chúng. Không phải sự kiện lôi
mình đi mà phải kéo sự kiện vào tổ chức tác phẩm".
3.3.2. Nguyễn Viết Lãm có bài: "Bài ca chim Chơrao, một bản trường ca hay"
đăng trên tạp chí văn học số 5/1965.
Trong đó tác giả ca ngợi: "Bài ca chim Chơrao" của Thu Bồn vừa mang hình
thức trường ca, vừa mang hình thức truyện thờ. Trường ca, vì tác giả đã phát triển khá
sâu những tình cảm đẹp đẽ của nhân vật chính diện - và cũng chính ở lòng mình, đã sử
dụng rộng rãi phương pháp miêu tả nghệ thuật, sử dụng nhiều hình tượng cô đọng, đã
nhân cách hoá và cường điệu hóa hiện thực và đã phát huy óc tưởng tượng, để cho mơ
8



mộng chắp cánh bay xa. Trong nhiều trường hợp, trường ca không đòi hỏi phải có một
cốt truyện đầu đuôi trọn vẹn...
"Bài ca chim Chơrao" cũng là một truyện thơ, vì tác giả đã kể lại một câu chuyện
có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc; nhân vật trong truyện được xây dựng rõ nét, có
hành động cụ thể, điều mà hình thức trường ca không đặt ra yêu cầu..." [31, tr.196209].
3.3.3. Nguyễn Trọng Tạo trong "Trường ca - cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của
người viết" cho rằng: "Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn được dư luận đánh giá cao
chính là do sự hấp dẫn của cốt truyện, số phận có tính anh hùng ca của nhân vật
[46,tr.118].
3.3.4. Hữu Thỉnh trong "Vài suy nghĩ" đánh giá sự chuyển biến về kết cấu của
trường ca Thu Bồn là: "Nếu như ở trường ca đầu, người ta thấy anh chú ý chăm chút
cho nhân vật, cốt truyện, thì trong các trường ca về sau, tính trữ tình đã dần dần chiếm
ưu thế".[52,tr.121]
3.3.5. Vũ Văn Sỹ trong "Một số đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam..." khái quát:
"Có thể nói, Thu Bồn là tác giả tiêu biểu viết trường ca theo kết cấu tuyến sự kiện
thông qua cốt truyện" [44, tr.172].
3.3.6. Nguyễn Đức Mậu trong "Tưởng nhớ Thu Bồn" nhận xét cụ thể về kết cấu
của trường ca Bài ca chim Chơrao được "viết theo lối truyền thống, có cốt truyện, có
nhân vật" [37,tr.653].
3.3.7. Bích Thu trong "Theo dòng văn học" nhận xét: "Thu Bồn đã sử dụng khá
thành thạo chất liệu đời sống Tây Nguyên để đưa vào tác phẩm. Bài ca chim Chơ rao
được kết cấu theo cốt truyện. Nhân vật xuất hiện và phát triển theo tuyến sự kiện trên
một môi trường, hoàn cảnh cụ thể. Kết cấu theo phương thức này, Thu Bồn có khả
năng xây dựng tình huống gay cấn dữ dội và đi sâu vào những tính cách phi thường
bằng bút pháp lãng mạn, khoa trương" [37, tr.859]

3.4. Nhận xét về cảm hứng sử thi và cảm hứng trữ tình của trường
ca Thu Bồn
3.4.1. Nguyễn Trọng Tạo trong "Thương nhớ Thu Bồn - Hà Đức Trọng" có nhận
xét khá sắc nét: "thơ văn anh có thể ví với dòng sông đầy ghềnh thác, cuộn xiết và réo

9


gọi…" Ngòi bút anh cắm sâu vào những đề tài mang tính anh hùng ca nhưng cũng
chan hòa máu lệ trong những bi thương đau khổ của kiếp người" [37, tr.790]
3.4.2. Nguyễn Chiến trong "Chim Chơrao đến từ núi lạ" nhận xét: "Thu Bồn là
một hồn thơ dào dạt, cháy khát và nhiều nỗi niềm". Trên cơ sở đó, tác giả rút ra phong
cách thơ Thu Bồn: "có cái giọng hào sảng rất Quảng Nam. Hồn thơ Thu Bồn vút lên
như cánh chim Chơrao đến từ núi lạ. Điều quan trọng nhất ở anh là đã làm nên một cõi
Thu Bồn [37, tr.508-510]. Cũng ở góc nhìn văn hóa học, Vũ Khoa trong "Bay và hát
cùng Bài ca chim Chơrao" nói: "Chất thơ tráng ca trữ tình của Tây Nguyên, miền
Trung, xứ Quảng luôn là mạch thơ xuyên suốt" cuộc đời thơ Thu Bồn [37, tr.605]
3.4.3. Phùng Tấn Đông trong: "Thu Bồn qua sông Thu Bồn" cho rằng: giọng thơ
Thu Bồn nghiêng hẳn về tư duy nghệ thuật trữ tình trong thơ. Tính chất triết luận trong
thơ Thu Bồn nếu hiện diện cũng luôn nằm trong mạch trữ tình nhất quán" [37, tr.548]
3.4.4. Một trường ca về đề tài xây dựng kinh tế: "Ba-dan Khát"của Thu Bồn, tác
giả Đào Thái Tôn viết: "Với Ba-dan Khát, Thu Bồn không trực tiếp miêu tả cặn kẽ một
công trường hay một dự toán cụ thể nào về kinh tế. Anh trở lại dải đất Tây Nguyên đầu
năm 1976 để khảo sát một lần nữa dải đất thân quen này từ chiều sâu lịch sử, quá khứ
của nó; từ đó suy nghĩ về vấn đề kinh tế Tây Nguyên, với tầm nhìn và nhận thức hôm
nay. Làm như vậy, anh tạo cho mình được một thế chủ động, có được khoảng cách cần
thiết như người đứng ở trên cao nhìn được xa hơn, không bị ngợp trước những nét đơn
lẻ không toàn diện của cuộc sống; nhờ đó, trước một đề tài mới, anh vẫn có thể tạo ra
cho tác phẩm của mình một chủ đề có phần khái quát hơn: Nỗi khát khao đến bức bối
của vùng đất ba-dan từ ngàn đời nay mà suy cho cùng, chính là nỗi khát khao một
quan hệ, một phương thức sản xuất mới mà chỉ sau ngày toàn thắng ta mới có cơ sở
vững chắc để ước mơ, nhằm làm cho dân tộc Tây Nguyên: "đi thẳng từ nông nô đến
những lâu đài /mơ ước của con người bao thế kỷ /... đi thẳng đến con người / từ buổi
sơ khai" [56, tr.116].
3.4.5. Ngô Thế Oanh trong "Người hiến mình trọn vẹn cho thơ" nhớ lại:

"Thật khó nói hết ấn tượng mạnh mẽ và cảm động đến gần như có một chút gì
sửng sốt mà Bài ca chim Chơrao đã mang đến cho thơ Việt Nam vào nửa đầu những
năm sáu mươi của thế kỷ trước. Vì vẻ đẹp vừa rực rỡ vừa bi tráng. Vì là bản trường ca

10


đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến từ miền Nam máu thịt đau
thương" [38, tr.5]
3.4.6 Phùng Tấn Đông trong "Thu Bồn qua sông Thu Bồn" cho rằng "Thành công
của Bài ca chim Chơrao là đã kế thừa được về mặt nghệ thuật từ sử thi Tây Nguyên...
và trở thành trường ca của thời đại mới, ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân miền
Nam, ngợi ca người anh hùng của thời đại cách mạng" [37, tr.553].
3.4.7. Hoài Anh trong "Tìm hoa quá bước" có nhận xét: "Thu Bồn không đi theo
lối chuộng lạ, đưa nhiều hình ảnh kì quái kiểu exotique vào thơ, bên cạnh chất hùng
tráng, anh vẫn khơi được cái mạch trữ tình, nồng nàn thắm thiết [1, tr.417].
3.4.8. Phạm Huy Thông trong "Trường ca" đánh giá "Bài ca chim Chơrao hòa
lẫn thơ trữ tình với anh hùng ca" [53, tr.17].
3.4.9. Ngô Thế Oanh trong "Người hiến mình trọn vẹn cho thư":
"Cùng một lúc vang lên trong Bài ca chim Chơrao âm hưởng rực rỡ, bi tráng của
cá khan trường ca Tây Nguyên và sự mềm mại, tha thiết của những điệu hò khoan hát
ru trữ tình dọc những làng biển miền Trung quê hương tác giả". Tiếp theo là hàng loạt
trường ca của Thu Bồn... Tất cả đều mang hơi thở mạnh mẽ, sử thi, biên niên sử.
Những tác phẩm đã đưa Thu Bồn lên vai trò của một người dẫn đầu trong thể loại kiến
trúc tổng hợp của thơ ca, thể hiện được những tư tưởng chủ đề lớn, bao trùm những
tuyến nhân vật phức tạp, những ngôn ngữ phong phú" [38, tr.12].

3.5. Nhận xét về hình tượng và ngôn ngữ
3.5.1. Lại Nguyên Ân trong "Mấy suy nghĩ về trường ca" "Trữ tình và anh hùng
ca thường có ưu thế trong những mạch cảm xúc chủ đạo. Nhiều trường ca mang phong

cách lãng mạn táo bạo mà Bài ca chim Chơ-rao là một ví dụ. Thu Bồn nhấn mạnh tư
thế cao đẹp của hai chiến sĩ cách mạng - tư thế đứng cao hơn sự thực tò ngục và pháp
trường [3, tr.30].
3.5.2. Về trường ca Thu Bồn, ở mức độ khái quái hơn, Thanh Thảo trong "Đã
ngừng đập một cánh chim đại bàng..." đánh giá tổng thể phong cách trường ca Thu
Bồn như sau: "Tiếp nối truyền thống của những trường ca, những khan của các dân tộc
Tây Nguyên, trường ca Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn là một giọng thơ riêng, một
tiếng thơ riêng, quyết liệt, hào sảng, ngây thơ, dữ đội. Nó có đủ những phẩm chất
11


tưởng chừng đối nghịch, những đối cực của một thi pháp trường ca truyền thống cộng
với cá tính nghệ thuật riêng của Thu Bồn" [51, tr.549].
Từ những khái lược trên về lịch sử vấn đề, chúng ta thấy rằng các tác giả đi trước
nghiên cứu và đánh giá Thu Bồn chủ yếu là trên bình diện phong cách nghệ thuật một
cách tổng thể thơ ca của Thu Bồn (gộp cả trường ca và thơ ngắn). Một số bài viết có
đề cập đến trường ca thì cũng chỉ đi sâu phân tích giọng điệu, kết cấu, ngôn ngữ của
trường ca đầu tiên Bài ca chim Chơrao hoặc có cái nhìn tổng thể về sự vận động kết
cấu trong trường ca Thu Bồn. Chính vì vậy, chưa có một công trình nghiên cứu về toàn
bộ sự nghiệp trường ca của Thu Bồn.
Lấy đối tượng nghiên cứu là toàn bộ trường ca của Thu Bồn, qua phân tích và
tổng hợp rút ra các đặc điểm nổi bật của trường ca Thu Bồn trong cái nhìn đối sánh với
một số tác giả cùng thời để chắt lọc ra phong cách trường ca của Thu Bồn là một vấn
đề cần thiết nhằm khẳng định một cách thuyết phục nhất vị trí số một của Thu Bồn đối
với thể loại trường ca. Cũng là một hướng nghiên cứu cần thiết để đánh giá đúng vai
trò cá nhân của một tác giả trong việc định hình một thể loại văn học.

4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp hệ thống:
Chúóng tôi xem trường ca Thu Bồn là một hệ thống các thành tố tư tưởng và

nghệ thuật. Do đó, chúng tôi sẽ khảo sát các thành tố nổi trội, có tính đặc trưng của
trường ca Thu Bồn, và chỉ ra mối quan hệ bên trong giữa các thành tố đó.

4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Chúng tôi phân tích các câu thơ, các hình ảnh nổi bật của các trường ca đó những
nội dung nổi bật trong tác phẩm hoặc để khám phá những khía cạnh cụ thể của từng
vấn đề, từng luận điểm. Cuối cùng đi đến khái quát đặc điểm nghệ thuật và nội dung
trường ca Thu Bồn.

4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Chúng tôi so sánh trường ca Thu Bồn với trường ca của các nhà thơ khác để làm
nổi rõ những điểm tương đồng và dị biệt của trường ca Thu Bồn. Chúng tôi đặc biệt
quan tâm đến những đặc điểm riêng của trường ca Thu Bồn để lấy đó làm căn cứ đánh
giá những đóng góp của Thu Bồn trong trường ca hiện đại Việt Nam.
12


4.4. Phương pháp xã hội học:
Nhà nghiên cứu Đào Thị Bình đã tổng kết "Trường ca hiện đại ra đời và phát
triển trong hoàn cảnh xã hội có những biến cố lịch sử trọng đại, lớn lao" (tạp chí Giáo
dục số 26/2002).
Do đó, đứng trên quan điểm Macxit, chúng tôi đối chiếu những trường ca Thu
Bồn với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt mà chúng ra đời, nhằm thấy được sự phản ảnh của
thời đại vào thế giới tư tưởng nghệ thuật của trường ca Thu Bồn.

5. Đóng góp của luận văn:
Trong thời gian qua, có đoạn trường ca của Thu Bồn được đưa vào giảng dạy ở
các bậc học, nhưng như trên đã nói, mới ở dạng trích thơ. Giáo viên và học sinh xem
xét ở mức độ khái quát, quan niệm những trích đoạn này như một bài thơ dài, chưa tìm
hiểu phân tích một cách chi tiết, nên chưa thấy được những tư tưởng và cảm xúc chân

thành đồ sộ trong trường ca của Thu Bồn. Đó là sự chất chứa cả một dung lượng thông
tin lớn và chất tráng ca của một dân tộc anh hùng trong thời đại bão táp cách mạng.
Chính vì thế, trong luận văn này, chúng tôi đã đi tìm hiểu khá kỹ lưỡng, nghiên
cứu một cách có hệ thống về một số vấn đề như thời đại, hình tượng nhân vật và
những yếu tố nghệ thuật trong trường ca của Thu Bồn. Để thấy được Thu Bồn chính là
thủ lĩnh viết trường ca tác động và đóng góp quan trọng với các nhà thơ cũng như các
bạn đọc xa gần, thêm được một số vấn đề cho việc nghiên cứu và công tác giảng dạy
trường ca của Thu Bồn trong nhà trường hiện nay.

6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, luận văn này gồm có bốn chương:
Chương 1: HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN
1.1. Thời đại, nhà thơ
1.2. Hình tượng nhân vật trong trường ca Thu Bồn
1.2.1. Hình tượng người chiến sĩ
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ
Chương 2: CẢM HỨNG SỬ THI VÀ TÍNH CẢM HỨNG, TRỮ TÌNH TRONG
TRƯỜNG CA THU BỒN
2.1. Cảm hứng sử thi trong trường ca Thu Bồn
13


2.2. Cảm hứng trữ tình trong trường ca Thu Bồn
Chương 3: KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA
THU BỒN
3.1. Không gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn
3.2. Thời gian nghệ thuật trong trường ca Thu Bồn
Chương 4: NGÔN TỪ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN
4.1. Ngôn từ trong trường ca Thu Bồn
4.2. Giọng điệu trong trường ca Thu Bồn


14


CHƯƠNG 1. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG
TRƯỜNG CA THU BỒN
1.1. Thời đại - nhà thơ
1.1.1. Thời đại
Cuộc xâm lăng của Đế Quốc Mỹ là một thử thách khốc liệt và khủng khiếp chưa
từng có đối với dân tộc Việt Nam. Đó là một thử thách mà dân tộc Việt Nam ta buộc
phải chiến thắng, bởi nếu thất bại sinh mệnh dân tộc có thể không còn. Đối thủ của
chúng ta là một siêu cường về kinh tế, kỹ thuật và quân sự, trong khi dân tộc chúng ta
nhỏ bé, nghèo khổ, đất chật người đông, vũ khí thô sơ. Nhưng một dân tộc có truyền
thống văn hoá, tinh thần lâu đời, có truyền thống quật cường bất khuất, nghìn năm lịch
sử chống giặc ngoại xâm thì không thể chịu khuất phục một cách dễ dàng. Trong
những năm kháng chiến chống Mỹ, người ta chứng kiến một không khí sống và chiến
đấu hào hùng, luôn dâng trào và đầy ắp trong tâm hồn mỗi con người yêu nước, và do
đó, không thể nào khác được, dâng trào trong trái tim mỗi nhà thơ. Cảm hứng về cái
thiêng liêng, cái anh hùng trở thành một cảm hứng chủ đạo trong văn học cách mạng.
Đó là cơ sở xã hội - lịch sử của sự ra đời của hàng loạt tác phẩm trường ca đặc sắc,
trong đó, đại diện tiêu biểu nhất là những trường ca của Thu Bồn.

1.1.2. Nhà thơ
Nhà thơ Thu Bồn vừa qua đời năm 2003. Ông để lại một gia tài văn học hết sức
đồ sộ về thơ: Bài ca chim Chơrao, Tre xanh, Mặt đất không quên, Quê hương mặt trời
vàng, Badan khát, Campuchia hy vọng, Người vắt sữa bầu trời, 100 bài thơ tình nhờ
em đặt tên, tôi nhớ mưa nguồn, trường ca tuyển tập... còn về văn xuôi có: Đánh đu
cùng dâu bể, Dưới đám mây màu cánh vạc, Hòn đảo chân Ren, Dòng sông tuổi thơ,
Đỉnh núi, Mắt bồ câu và rừng phi tiễn, Vùng pháo sáng, cửa ngõ miền tây,...
Thu Bồn tên thật là Hà Đức Trọng, sinh ngày 11 - 12 - 1935 tại Điện Thắng Điện Bàn - Quảng Nam. Mười hai tuổi tham gia thiếu sinh quân làm liên lạc. Ông có

một tuổi thơ hồn nhiên, gắn bó với kỷ niệm của quê hương. Năm 1945-1946, Thu Bồn
lúc đó mới 9-10 tuổi, là cậu bé khác tính anh trai, sôi nổi, bạo dạn, tham gia mọi tổ
15


chức trẻ con trong làng: hội giữ trâu, hội học trò, hội đánh nhau. Đi đâu, Thu Bồn cũng
có cái ná cao su thắt lưng quần, và trèo xoài hái trộm không có ai bằng. Thu Bồn cũng
thường ra chơi ở Mả Dứa, nơi khô ráo, sạch sẽ. Nơi đây đất thổ, người làm đồng
thường nghỉ khi từ đồng về, cả trâu bò cũng được nhẩn nha nhai lại, liu ríu mắt nhắm...
êm đềm và say đắm bao nhiêu câu hát dân gian. Hát kiến tạo, bài chòi, chọc ghẹo cũng
thường xuyên diễn ra ở đây , hầu như suốt trong năm, nhất là vào những ngày đạp xe
nước, xẽ trân ngày mùa...
Thu Bồn là một người con có hiếu trong gia đình, thương em. Ông thương mẹ
lắm, cứ mỗi lần gặp mẹ lại ôm mẹ khóc. Bên cạnh đó ông là một nhà thơ, là người
chiến sĩ chiến đấu hết mình cho Tổ quốc, viết cạn hồn thơ cho người đọc mai sau.
Thu Bồn yêu quê hương, yêu tha thiết nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Anh đã
từng khát vọng trở về "Hôn mảnh đất quê hương, hẹp như thể một con đường qua lại,
biển nhiều hơn là nước, một giọt tận trời cao, một giọt tận đất sâu". Trở về trên mảnh
đất ấy để làm cuộc chiến tranh giải phóng hằng mơ ước... (trích "Lá cỏ, đời xanh như
thể chẳng vì ai" - Nguyễn Trí Trung trong "Gói nhân tình" - Hoàng Minh Nhân biên
soạn - Nhà xuất bản Văn học).
Cũng chính vì thế, những tác phẩm của Thu Bồn đạt giá trị rất cao, tập trường ca
"Bài ca chim Chơrao" đã được Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tặng
giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu. Rồi niềm vui lại đến với Thu Bồn như lúa
được mùa: năm 1973, ông được nhận Giải thưởng quốc tế của Hội Nhà văn Á-Phi Giải thưởng Lotus cùng với những nhà văn Á-Phi được tặng giải Lotus như Tổng
thống Ănggola Nét tô, Katep Laxin (Angiêri), Gia Hia (Ấn Độ). Thu Bồn dược giải
thưởng người đọc thơ hay trong đêm thơ Á-Phi.
Rồi Thu Bồn có dịp sang Ấn Độ, ông tâm sự: "Mang vinh quang còn ấm tình
người tôi đến Ấn Độ. Thật không có gì tả nổi tấm lòng của những người dân Ấn. Các
nhà văn và các em thiếu nhi ra tận sân bay đón, choàng vòng hoa vạn thọ vào cổ chúng

tôi tượng trưng cho lòng mến khách…" (Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao và trái tim tôi
- Gói nhân tình - Hoàng Minh Nhân biên soạn).
Thu Bồn viết hơn hai mươi đầu sách, cả thơ và văn xuôi, "Thu Bồn sống và viết
gắn với hành trình mưu cầu độc lập, tự đo, khát khao hạnh phúc của nhân dân, đất
nước. Riêng mảng thơ, Thu Bồn là nhà thơ của những câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ,
16


mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết nhỏ qua cách tổ chức câu chữ của anh luôn gây bùng nổ
cảm xúc, hiệu quả "lay lan" thường liên tưởng ở người đọc..." (Phùng Tấn Đông - Thu
Bồn qua sông Thu Bồn - Gói nhân tình - Hoàng Minh Nhân biện soạn).
Thu Bồn viết không ngừng nghỉ, tâm hồn bay đi hết nơi này nơi khác. Cứ nghĩ
rằng anh sẽ dừng nghỉ ở suối Lồ Ồ, nhưng không anh lại đi, lại trăn trở và lại sáng tạo
còn mãnh liệt hơn. Trong "Lá cỏ đời xanh như thể chẳng vì ai" trích "Gói nhân tình",
nhà văn Nguyễn Chí Trung có viết: "Như mây lang thang, Thu Bồn bay đi khắp núi
khắp làng. Cứ ngỡ rằng nhịp cầu cong và con đường thẳng, một đời đi đi mãi chẳng về
đâu. Nhưng cuối cùng Thu Bồn ghé lại suối Lồ Ồ. Tên con suối nghe xa như tiếng
thác, ở gần thành thị mà tưởng đâu như ở tận trên rừng. Anh bằng lòng dừng lại ở bến
này, ở con đò này. Phải chăng do anh chợt hiểu "Thế là hạ đã qua trong giây lát, giọt
thơ đã thánh thót thu vàng, chỉ còn là khát vọng mặt trời bóng xế". Không, anh đưa tay
quờ quạng. Ủa, "sửa soạn trở về lại hóa ra đi". Và anh lại đi, lại viết, cồn cào và mãnh
liệt:
"Phải ra đi vào những bài ca dang dở/ Với cây bút vượt qua cửa mở/ Sử sách
đoạn này ghi hết dưới bàn chân".

1.2. Hình tượng nhân vật trong trường ca Thu Bồn:
Thực tế cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân, qua tâm hồn tài hoa và cảm hứng
anh hùng nồng cháy của nhà thơ, đã kết tinh thành hình tượng văn học sống động.
Một tác phẩm ra đời không thể thiếu những hình tượng. Và đằng sau những hình
ảnh cả một quá trình tìm tòi và khám phá không ngừng của người nghệ sĩ. Thu Bồn

với vai trò là một người nghệ sĩ thực thụ đã rất thành công khi tạo nên những hình
tượng tiêu biểu về người chiến sĩ cách mạng và người phụ nữ anh hùng.
Đến với trường ca Thu Bồn cùng lúc ta có thể cảm nhận được nhiều giá trị. Đó
có thể là giá trị hiện thực thể hiện qua các đoạn tự sự, tường thuật những sự kiện, diễn
ra trong những tháng năm con người sống đầy cam go và thử thách; đó cũng có thể là
cảm xúc trữ tình mãnh liệt, xót xa từ chính những yếu tố thật đến nao lòng; và rõ hơn
cả có lẽ là chất anh hùng của chính những đối tượng nhân vật được miêu tả. Đó là hình
ảnh anh bộ đội cụ Hồ kiên trung bất khuất xả thân vì nền tự do, độc lập của dân tộc; đó
là hình ảnh những người mẹ, người vợ, người chị, người em hy sinh tuổi xuân, chịu
17


nhiều thương đau vất vả, tảo tần mà trung hậu đảm đang gan dạ. Tất cả những điều đó
hội ngộ trong những bản trường ca của ông khiến người đọc không khỏi ngạc nhiên
xen lẫn niềm yêu thương, kính trọng đến bồi hồi xúc động.

1.2.1. Hình tượng người chiến sĩ
Lịch sử dân tộc ghi dấu những chiến công hào hùng của nhân dân ta chống giặc
ngoại xâm. Cuộc kháng chiến với khẩu hiệu: "Toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực
cánh sinh" tự bản thân nó đã sản sinh ra những con người anh hùng.
Dưới ngòi bút của Thu Bồn - người cầm viết và cũng chính là người cầm súng,
hình tượng người chiến sĩ lại càng hiện lên sống động chân thật, những cảm xúc vàng
được thử lửa rực sáng, những nghĩ suy được phát khởi ở thời điểm khi "Dân tộc ta
mang trái tim chiến đấu" (Bài ca chim Chơrao).
Không ngẫu nhiên Thu Bồn lại chọn thể loại trường ca để sáng tạo. Còn thể loại
nào phù hợp hơn chăng để phản ánh hết cái hoành tráng, cái mãnh liệt hào hùng của
một thời vang dội khói lửa? Chất liệu anh thu thập được trả bằng mồ hôi công sức,
bằng máu, bằng sự anh dũng nhiệt tình của một trái tim người lính nên rất dễ hiểu khi
hình tượng người chiến sĩ của Thu Bồn lại gần gũi và, dễ thẩm thấu vào lòng người
đọc như thế. Có lẽ do nó khởi mạch không đơn thuần từ ngòi bút mà đã ngấm qua tim

tác giả như một dòng máu.
Hình tượng các anh được xây dựng rất chân thật. Các anh đến với cách mạng từ
lòng nhân dân, từ khắp mọi vùng miền của đất nước. Khác quê hương khiến mỗi người
lính mang trên mình một phong thái riêng nhưng lại gặp nhau ở điểm chung duy nhất
đó là lí tưởng và nhiệt tình cách mạng sục sôi.
Đến với bản trường ca "Bài ca chim Chơrao" ta bắt gặp hai người lính trẻ, hai
người lính có hai cái tên giản dị Hùng và Rin. Mỗi người có một xuất thân khác nhau
nhưng lại sát cánh trên cùng một chiến trường Tây Nguyên ác liệt.
Rin là người con đến từ chính mảnh đất Tây Nguyên "nắng tắm đẫm từng tấc đất
bazan" đã được Thu Bồn miêu tả qua những hình tượng thơ rất đẹp:
"Đêm ánh lửa hồng làm vui nóc nhỏ / Con dòng đòi ăn liến thoắng tối ngày /
Con chó vàng cụp đuôi sủa cọp / Lũ trai làng phóng giáo như bay..."
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
18


Cuộc sống thanh bình của lũ làng Tây Nguyên dưới ánh lửa đêm bập bùng hết
sức sống động. Những hình ảnh đẹp quê hương với "những con đường đi không dốc
rắn bò", "nai nhảy từng bầy trên đám cỏ non" đã ăn sâu vào khối óc của người lính trẻ
Tây Nguyên. Khi cuộc sống thanh bình trong tiềm thức của mỗi người đã trở thành
điều bình thường, thì chiến tranh đến với bộ mặt tàn phá, hủy diệt ác quỷ của nó đã trở
thành điều bất thường. Thời gian chiến tranh không kéo dài nhưng dư âm của nó thì
còn chấn động đến mãi mãi. Chiến tranh, ví như những trận bão, những cơn lũ của lịch
sử đi qua và quét sạch mọi cảm giác yên bình, gieo bất hạnh cho sự sống.
Rin đã cảm nhận nỗi đau, tai họa mà chiến tranh đổ ụp lên cuộc sống buôn làng.
Mang trong mình dòng máu Tây Nguyên, ngọn lửa căm thù giặc sục sôi và khát vọng
hòa bình, người con vùng cao nguyên đã đến với cách mạng thật tự nhiên như khi đói
ta cần cơm, khi khát ta cần nước:
"Lũ chúng nó một loài rắn độc
Làm dân ta khổ sở bao đời

Muốn tự do phải làm cách mạng"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Khác với người con miền ngược, người "dân tộc anh em" miền xuôi là Hùng.
Nếu Rin với quê hương có những đêm lửa bên chum rượu cần, bên điệu múa cồng
múa chiêng náo nhiệt mang âm hưởng miền núi thì Hùng lại đến từ "phía biển xanh,
nơi có chân trời sóng vỗ", có "Ngôi tháp chàm rêu phong cổ kính / Bầy dơi nghe động
bay vù / Con sư tử đá nằm lim dim ngủ / Rừng dừa xa thấp thoáng sương mờ" (Thu
Bồn - Bài ca chim Chơ rao)
Trong những năm tháng khói lửa chiến tranh ác liệt, hình như người lính nào
cũng ở trong tâm trạng đó: nhớ da diết những hình ảnh tươi đẹp của làng quê. Nhưng
chúng ta thấy rằng nỗi nhớ thương đó không làm người lính ủy mị, buồn đau mà nó
như là những gì thân thương nhất, luôn dõi theo những bước đường anh bước, luôn
hiện diện trong tâm tư các anh, như thôi thúc các anh chiến đấu hết mình để bảo vệ
quê hương.
Hai con người, hai dân tộc Kinh - Thượng, hai phong thái sống của hai miền quê
xuôi ngược lại hội tụ về đây trên cùng chiến trường sát cánh bên nhau chiến đấu.
19


Nguyễn Đình Thi thì diễn tả nỗi nhớ rất bình dị, nỗi nhớ mùa thu nhưng cũng
không kém phần lãng mạn: nhớ hương cốm, những con phố dài, lá rơi thềm nắng:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới / Tôi nhớ
những ngày thu đã qua / Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội"
(Nguyễn Đình Thi - Đất nước)
Hai người lính Kinh - Thượng trong "Bài ca chim Chơrao" rất giống hai người
lính trong "Đồng chí": "Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày
lên sỏi đá / Anh với tôi đôi người xa lạ / Từ phương trời chẳng hẹn cũng quen nhau"
(Chính Hữu - Đồng chí)
Cũng giống như Chính Hữu, những người lính trong trường ca của Thu Bồn
thường từ chiến trường nhớ về quê hương - hậu phương đằng sau tuyến lửa. Còn trong

"Mặt trời trong lòng đất" thì những người lính, người du kích nhớ về chính mảnh đất
mà mình đang đứng, đang nằm, ít ngày trước đó còn là quê hương thanh bình, bây giờ
vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến. Nên nỗi nhớ ở đây là sự hồi tưởng:
"Thuở ấy / bầu trời treo giữa làng như quả bóng / quả bóng bay trên cỏ trên cây
/ bông lúa uốn vòm trời cong xuống / để sân phơi thóc lẫn sao trời"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Điệp từ "em nhớ" được lặp lại nhiều lần, em không chỉ nhớ quê hương yên ấm,
tươi vui, quê hương Củ Chi những ngày giặc tới: "Củ Chi ơi ghi nhận tháng năm này"
mà anh, em còn nhớ cả những con người gần gũi, ruột thịt đã kiên trung ngã xuống:
"Em hãy nhớ chú Mười; Em hãy nhớ / cô du kích mười tám tuổi đời; Em đừng quên
anh Tư / Em hãy nhớ chị Ba / Em hãy nhớ những người du kích..." (Trần Mạnh Hảo Mặt trời trong lòng đất).
Nỗi nhớ không thể nào quên như hằn sâu mãi mãi vào tâm trí những con người ở
lại, Trần Mạnh Hảo như dự báo một sức mạnh bền bỉ, kiên cường, quật khởi của
những con người ở vùng đất này.
Không chỉ khai thác hình tượng người lính ở chiến trường Tây Nguyên, Thu Bồn
còn vượt biên giới đến với những người lính chiến sĩ tình nguyện quân Việt Nam trên
đất Campuchia bị dày xéo dưới chế độ diệt chủng Pônpốt - Iengsari

20


Trong những phút giây bình yên ngắn ngủi, ngồi bên nhau thắm đượm tình người
giữa anh lính Việt - Người dân xứ Angko, quê hương với những hình ảnh đẹp đã trở
thành đề tài, câu chuyện hấp dẫn của cả người nghe lẫn người kể trong trường ca
"Campuchia hy vọng": "Anh nói với tôi về Trường Sa, Hoàng Sa / Những cánh én
mỏng mềm hơn gợn nước / Sông Hồng đỏ rực / Sông Thương bên đục bên trong /
Hoàng Liên Sơn núi non chất ngất..."
Đọc những câu thơ viết bằng chính tâm huyết, trái tim của tác giả, ta như mường
tượng thấy đâu đây khuôn mặt của những anh lính trẻ đang say sưa hát, say sưa kể và
bất chợt trầm ngâm trong nỗi nhớ quê, nhớ nhà da diết.

Trong trường ca "Oran 76 ngọn", ta bắt gặp "đội trinh sát Việt Nam, có chín
người chiến sĩ" những ngày chiến đấu trên chiến trường Campuchia vì tình bè bạn, vì
hòa bình chung của bán đảo Đông Dương, trong trái tim người trinh sát trẻ bất chợt
nhớ về quê hương, một nỗi nhớ đau đáu khi các anh đang trèo lên cây cố định tìm
phương hướng trong bạt ngàn rừng núi, chỉ hình ảnh vài cột khói thôi cũng khiến
người chiến sĩ nao lòng: "...Vài cột khói dựng lên lặng lẽ / Lòng anh bỗng nhớ về quê
mẹ / Sông Hồng một dải êm ru"
Hình ảnh quê hương đẹp như bức tranh thủy mặc đã hằn sâu trong nỗi nhớ của
anh và về với anh trong những giờ phút chiến đấu gian khổ ác liệt.
Các anh về đây không chỉ chung một chiến trường, một lí tưởng chiến đấu vì quê
hương, mà những người đồng chí còn chung những bầu tâm sự. Trong trường ca của
mình, bên cạnh những dòng thơ diễn tả khí khái hào hùng của người lính, ta còn nhận
thấy Thu Bồn đã đi sâu khai thác nội tâm của những người lính trẻ, những tình cảm
đời thường mà hết sức thiêng liêng.
Các anh ra đi chiến đấu khi tuổi đời còn rất trẻ, hình tượng đẹp đẽ của các anh
chân thật hơn lên bởi tấm lòng yêu thương lo lắng cho mẹ; những cảm xúc nhân bản
tâm tình của tuổi chớm yêu; thương nước thương dân, biết hi sinh tình cảm riêng tư để
kiên cường đánh giặc trong tư thế đường hoàng, đĩnh đạc và rất lạc quan.
Những câu thơ với những tình cảm rất thật trong trường ca "Bài ca chim
Chơrao", tác giả đã khắc họa hình tượng các anh tâm sự nhỏ to cùng mẹ:
"mẹ ơi, con vẫn ở giữa lòng đất nước
trời nắng thiêu nghe rìu mẹ chém cây..."
21


Những đêm tối ngục tù đày đọa, các anh lại nhớ những lời ru tha thiết của mẹ lúc
trưa hè. Lời ru đưa ấu thơ anh vào giấc ngủ có vị ngọt ca dao, thần thoại, cổ tích ngàn
xưa; có vị ngọt của tiếng đàn bầu để rồi mãi mãi cùng bước chân của anh ra trận như
sức mạnh tăng nhiệt tình chiến đấu: "Anh bỗng nhớ tiếng ru bài hát cũ / Cái con chim
xanh ăn trái xoài xanh / Mẹ đã ru những trưa nồng anh ngủ / Con chim xanh ăn trái

xoài xanh."

(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)

Lòng mẹ, tình yêu thương của mẹ "bao la như biển Thái Bình" đã cho các anh
sức mạnh Đamsan thời đại, là tướng lĩnh không có tù và, chiêng ché, nhưng bước các
anh đi đạp rừng băng suối, tràn xuống biển khơi.
Nỗi nhớ nhà thương mẹ đã làm bật ra những giọt nước mắt ở những người chiến
sĩ tưởng không biết khóc bao giờ, ở những con người chỉ biết bình thản cười trước đòn
roi tra tấn tàn bạo của kẻ thù khi các anh nghe tin bản làng, ngôi nhà thân yêu bị lũ
giặc đốt trúng:
"...Y Rin khóc! lần đầu tiên Rin khóc
Nước mắt rơi, từng giọt nước mắt rơi…"
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Hình ảnh thơ của Thu Bồn khiến ta không khỏi liên tưởng đến câu ca dao xưa
"Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau". Chất dân ca, âm hưởng dân gian đã được
anh khéo léo đưa vào những vần thơ sâu lắng của mình để làm nên chất lãng mạn, ngọt
ngào của tình yêu, sắc son chung thủy, khát khao yêu thương của nhịp đập trái tim. Giá
như không có chiến tranh !! Giá như không có "những cơn lũ lịch sử", giá như lòng
tham bạo tàn của con người là giới hạn, giá như "người yêu người sống để yêu nhau"
(Tố Hữu), thì cảnh chia li, đau thương, tang tóc đã không có chỗ trú chân trên trái đất,
trên mảnh đất của những con người yêu chuộng hoà bình.
Trong hồi ức của Hùng, một người lính cụ thể hay của bất kì người chiến sĩ nào,
ẩn đằng sau đó ta cảm thấy như có cả một khối tình lớn lao của tác giả. Có lẽ, chính
anh lính Thu Bồn cũng đã yêu, yêu rất nhiều và thấu hiểu nỗi nhớ cồn cào, day dứt về
người thương phương xa, nên những dòng thơ càng chất chứa nỗi lòng đến nhường ấy.
Cái nỗi nhớ đã đi vào câu ca dao ví von:
"Nhớ gì như nhớ người yêu..."
22



Khai thác tâm hổn người lính ở khía cạnh tình yêu, ta không chỉ bắt gặp ở trường
ca Thu Bồn thời kháng chiến hào hùng của dân tộc mà còn như âm vang trong sáng tác
của nhiều nhà thơ khác. Đó là tâm hồn mộng mơ của người lính qua bài "Tây Tiến"
của Quang Dũng:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm..."
Đó là tâm hồn rạo rực, nóng bỏng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình
Thi:
"Những đêm dài hành quần nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu..."
Tình yêu - thứ tình cảm độc đáo đã như luồng gió thổi sức mạnh, niềm tin, thổi
lòng nhiệt tình can đảm, quyết chiến đấu đem lại hòa bình trả cho quê hương, trả cho
nụ cười của người yêu dấu:
"Y Rin nắm tay người con gái
Truyền thêm sức mạnh niềm tin..."
(Thu Bồn - Bài ca chim Chơrao)
Đến với cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc từ mọi vùng miền, mang trong
mình nhiệt tình cách mạng, sự yêu thương lo lắng của mẹ, hy vọng của em, niềm tin
của dân tộc, anh - người chiến sĩ anh hùng - hình tượng các anh hiện lên rực sáng
trong những chịu đựng, những hy sinh gian khổ, hiểm nguy vì sự sống còn của đất
nước.
Trong trường ca "Mặt trời trong lòng đất", Trần Mạnh Hảo cũng đi miêu tả một
hiện thực nhỡn tiền của mảnh đất Củ Chi ác liệt, không còn chỗ cho con người bám
lấy nhưng chính trong hoàn cảnh ấy mới thấy được sức sống và sự yêu đời của họ: "Kẻ
thù xóa mặt đất rồi / Thì trong địa đạo con người tìm nhau / Trái tim bám trụ đất sâu /
Kẻ thù nào thấy em đâu trong hầm"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Chúng ta có thể hình dung được cuộc sống của những người du kích, người lính
sống trong lòng địa đạo thế nào? Một điều chắc chắn rằng sẽ vô cùng bí bách và thiếu

thốn. Nhưng cũng như người lính trong trường ca của Thu Bồn, họ không đầu hàng
23


hoàn cảnh, vẫn cất lên bài ca yêu đời, không nghĩ đến cuộc sống thực tại của mình mà
lo những điều lớn lao hơn: "Con ta lớn lên sẽ không còn gì gieo vãi / không còn gì ăn
được dưới trời cao / mặt đất sẽ kinh hoàng biết mấy / hạt giống ở đâu con sẽ thét gào"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất) và họ đã làm được điều kì diệu:
"Trăm hạt giống đến náu nhờ địa đạo
con hái quả sau này con hãy nhớ
có một thời hạt giống dưới hầm sâu"
(Trần Mạnh Hảo - Mặt trời trong lòng đất)
Còn ngòi bút Thu Bồn đã xoáy sâu mô tả hiện thực những chi tiết tưởng chừng
nhỏ nhặt trong cuộc sống chiến đấu, trong sinh hoạt đời thường của người chiến sĩ mà
gây xúc động sâu xa, cơn sốt rét rừng đến rồi đi, đày đọa thân hình gầy gò của người
chiến sĩ. Rừng với tán lá xanh che chở anh trong mỗi bước hành quân, nhưng những
căn bệnh mà rừng đem lại cũng dần lấy đi sức lực, tuổi trẻ thanh xuân của anh: "Chúng
tôi cõng nhau đi, cơn sốt rét dập vùi / chúng tôi ôm trong lòng cái đói / rừng toàn gỗ
không cho cây trái"(Thu Bồn - Oran 76 ngọn)
Những khó khăn nhọc nhằn trên con đường làm nhiệm vụ đã trở thành thường
trực, nó luôn đặt người lính vào vị thế không chỉ chiến đấu với kẻ thù mà còn phải
chiến đấu để giành sự sống, sự tồn tại cho chính bản thân và đồng đội: "mùa khô cạn
đường rừng vất vả / họ tìm rong rêu trên từng phiến đá / để áp làn môi nứt nẻ cháy
khô / ..sỏi đá cắm bàn chân rách nát.."(Thu Bồn – Oran 76 ngọn)
Cái khát, cái đói, sự hành hạ của cơn sốt rét rừng không ngăn nổi bước đi tìm
chính nghĩa, tìm độc lập của anh, bởi trong lòng anh - người chiến sĩ, còn có một cái
khát, một cái khát lớn hơn mọi cái khát vật chất đó là khát tự do, khát hòa bình đã thôi
thúc, đó là động lực cho anh sức mạnh chiến đấu phi thường.
Chỉ những người đã từng ra trận, đã từng sống cuộc sống của người lính, đã từng
trải mọi nỗi khó khăn, hiểm nguy trong chiến đấu, đã từng hy sinh máu, mồ hôi của

mình trên mỗi tấc đất quê hương như Thu Bồn mới có thể tạo lập những hình tượng
thơ độc đáo trong trường ca như thế. Người đọc xúc động khi đọc những vần thơ về
đôi "bàn chân trắng nước" của những người chiến sĩ tình nguyện Campuchia: "...Anh

24


hát cho tôi nghe về những bàn chân / bạn biết không / có những bàn chân khi ngã
xuống, hóa những đôi bàn chân trắng
(Thu Bồn - Campuchia hy vọng)
Đôi bàn chân người tình nguyện quân trắng nước - chỉ hình tượng đơn giản thế
thôi mà ẩn đằng sau là cả một khối tình, của một tấm lòng nhiệt huyết hy sinh thầm
lặng mà rất đỗi lớn lao. Vì tình anh em, vì biên giới, vì những người đồng loại đang
quằn quại dưới chế độ diệt chủng, các anh đã không tiếc tuổi xuân, sức lực, đạp lũ
băng ngàn, đi xuyên mùa mưa miền Tây nam bộ để đến cứu những người bạn
Campuchia. Để rồi khi các anh ngã xuống, bàn chân ấy đã trở thành hình tượng ám
ảnh, ghi dấu tội ác chiến tranh: "bàn chân đó trắng hơn sự thật / nước nhạt nhoà / lũ
kẹt bàn chân…"
Thế gian này khó có thứ quý báu nào có thể so sánh, bù đắp và trả được tuổi
xuân sức lực mà chiến tranh đã bòn rút từ các anh. Sự hi sinh lớn lao của các anh khó
có giấy bút nào ghi hết, lột tả được hết. Trường ca Thu Bồn không chỉ xoáy sâu, lột tả
sự hi sinh về mặt thể xác của các anh, mà anh còn rất thành công khi diễn tả sự hi sinh
về mặt tinh thần của người chiến sĩ - những hi sinh mà chỉ người trong cuộc mới hiểu,
những hi sinh mà hòa bình hôm nay nợ ơn các anh suốt đời.
Nhận trên mình nhiệm vụ trinh sát, các anh đã phải hi sinh quá khứ hi sinh cả
những tình cảm riêng tư, những người cảm tử quân đã phải từ bỏ gốc gác, từ bỏ tình
yêu của trái tim trẻ để lên đường với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ: "Họ lục hết áo
quần / Bỏ ra hết những tờ chứng chỉ / Kể cả thư người yêu vừa mới nhận / Từ nay họ
không còn lận đận / Công việc của đời riêng..."
(Thu Bồn - Oran 76 ngọn)

Và cụ thể hơn, Phiên - anh trinh sát trẻ nhất - mới mười tám tuổi trong "đội trinh
sát Việt Nam" tình nguyện sang chiến trường Campuchia đã dằn vặt day dứt nỗi lòng
yêu thương của mình để trả lại "cuốn sổ tay ghi những câu thơ" mà "người con gái
thường mặc áo màu hoa tím", "thường hát về miền Đông, đôi mắt mở tròn" đã "tặng
anh làm kỉ niệm", bởi anh biết còn vướng bận tình cảm riêng tư, nhiệm vụ cấp trên
giao sẽ khó có thể hoàn thành:

25


×