Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

trường ca Thu Bồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.95 KB, 8 trang )

Hữu Thỉnh với thể loại trường ca
Hoàng Điệp
Khoa Ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên
Hữu Thỉnh là một nhà thơ sớm khẳng định được mình qua các giải thưởng văn
học. Đầu tiên phải kể đến là giải Ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1973 với bài Mùa
xuân đi đón, tiếp đó là giải A cuộc thi thơ 1975-1976 bằng tác phẩm Chuyến đò
đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất. Năm 1991, tác giả lại tiếp tục nhận
giải Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà trường, thầy cô do Bộ ĐH&THCN cùng
TWĐTNCSHCM tổ chức với bài Thưa thầy. Năm 1994, Hữu Thỉnh được Bộ
quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc với tác phẩm Trường ca biển, đặc biệt ông
là một trong những người được hai lần trao giải thưởng chính thức của Hội Nhà
văn Việt Nam với trường ca Đường tới thành phố (1980) và tập thơ Thư mùa
đông (giải A năm 1995). Và cũng với tập thơ Thư mùa đông, Hữu Thỉnh lại đoạt
giải thơ ASEAN năm 1999. Tất cả những thành công đó, một lần nữa khẳng định
con đường sáng tạo nghệ thuật mà Hữu Thỉnh đã chọn.
Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng nhận ra ở ông
là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi.
Nhắc đến Hữu Thỉnh là người ta nhắc đến những bản tình ca và những bản
trường ca... Ngoài những bài thơ ngắn, những bài thơ trữ tình, Hữu Thỉnh là một
trong số rất ít nhà thơ viết về thể loại trường ca và đạt được những thành công
nhất định.
Nguồn cảm hứng của một dân tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống
thực tế ở chiến trường đã tạo tiền đề cho thể loại trường ca phát triển. Những
trường ca đầu tiên được ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Từ đêm mười
chín (Khương Hữu Dụng), Những thanh gươm báu (Nguyễn Bính), Trường ca
sông Gianh (Xuân Hoàng), Bài ca chim chơ-rao (Thu Bồn)... Nhưng đến kháng
chiến chống Mỹ, trường ca phát triển hơn hẳn về số lượng và nâng cao về chất
lượng: Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Những người đi tới biển
(Thanh Thảo), Đất nước hình tia chớp (Trần Mạnh Hảo) và Đường tới thành
phố, Sức bền của đất (Hữu Thỉnh)... Có lẽ hiện tượng này cũng là một tất yếu
của văn học, để đáp ứng được với yêu cầu của lịch sử, với thời đại hào hùng của


dân tộc. Các tác giả đã phát hiện ra trong thơ-trường ca có sức ôm chứa lớn về
nhiều vấn đề, nhiều chủ đề tư tưởng, về cả độ rộng của không gian và độ dài của
thời gian... có khả năng khái quát hiện thực rộng lớn.
Hữu Thỉnh là một trong những người có đóng góp nhiều và chiếm một vị
trí quan trọng đối với thể loại trường ca. Ở thể loại này Hữu Thỉnh đã đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận. Trường ca của ông không những nhiều
về số lượng mà còn đạt giá trị về chất lượng. Hữu Thỉnh đã thành công trong
việc khái quát tổng hợp về một giai đoạn lịch sử, về nhiều mặt của đời sống,
về thế giới khách quan rộng lớn và chiều sâu tâm lý con người..., vì vậy mà
trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của
ông. Chính những bản trường ca này đã khẳng định tư duy khái quát, đồng
thời cũng nói lên được tầm vóc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở cái tôi cá
nhân mà còn được thể hiện trong cái chung của cộng đồng, của cả một dân
tộc.
Khi mới bắt đầu thử sức ở thể loại trường ca với Sức bền của đất, Hữu
Thỉnh đã được thừa nhận là người có sở trường trong thể loại này. Cảm xúc dạt
dào, phong phú vốn là thế mạnh trong thơ ông. Không đơn giản chỉ dừng lại ở
mạch tình cảm, mà chất trí tuệ mới là sợi dây xuyên suốt tạo nên linh hồn trong
trường ca của ông. Hoà chung với không khí của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
Hữu Thỉnh luôn hướng về những vấn đề lớn của dân tộc, của thời đại. Ông khao
khát mong chờ những câu thơ của mình chứa đựng, phản ánh và lý giải được
những điều đó.
Trong trường ca Sức bền của đất, Hữu Thỉnh đã dành những chương, những
đoạn để miêu tả, ngợi ca những hy sinh gian khổ mà mỗi người dân đã dũng cảm
gánh chịu, cùng nhau vượt qua để bảo vệ đất nước. Bên cạnh những cái lớn lao
của lịch sử là những cảm nhận sâu sắc của ông về con người, về cuộc sống, về sự
gắn bó máu thịt giữa tiền tuyến và hậu phương:
Chiến dịch mở ra khi thời vụ bắt đầu
Mang cái rét giêng hai đi bám giặc
Mang chất thép định hình trên bàn cát

Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa
Ta chao chân trên những mảnh bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
Đạp cứ điểm
Lần theo từng dấu dép
Ta nhận ra màu bùn của những cánh đồng chiêm.
(Sức bền của đất)
Là người lính trẻ, vì thế trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người đầu tiên Hữu
Thỉnh nhớ tới là mẹ. Hình ảnh người Mẹ và Tổ quốc là hai vấn đề lớn và xuyên
suốt trong cuộc đời làm thơ của chính tác giả. Hữu Thỉnh đã đi khắp nơi trên đất
nước, đã sống những năm chiến tranh gian khổ... nhưng điều thấm thía và tâm
niệm sâu sắc nhất là được trở về với mẹ :
Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau.
(Sức bền của đất)
Hữu Thỉnh viết về mẹ bằng những ngôn ngữ bình dị, bằng những hình ảnh
gần gũi, bằng những công việc bình thường nhưng cũng bởi vì thế mà thơ ông
sâu sắc, thân thiết, gắn bó hơn với mỗi chúng ta:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông?
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước?
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu.
(Sức bền của đất)
Trường ca Sức bền của đất được đọng lại trong tâm trí của người đọc bởi
những tâm sự, suy nghĩ, những trải nghiệm sâu sắc của chính tác giả. Hữu Thỉnh
đã viết về cuộc sống, cuộc chiến đấu, viết về quê hương, viết về mẹ... bằng một

chất liệu rất riêng, giản dị, gần gũi trong cuộc sống thường nhật.
Vừa là cái nhìn toàn diện, vừa là những thử nghiệm tìm tòi, trường ca của
các nhà thơ trẻ nói chung và của Hữu Thỉnh nói riêng đã kết hợp được nhiều hình
thức phát ngôn do nhập nhiều vai nhân vật trữ tình (khi là con của mẹ, là em của
chị, là những người lính, là đất đai, cỏ cây, là trời, là biển...), nhiều giọng điệu
(tâm sự, độc thoại, kể, bình, khái quát, miêu tả...), nhiều cảm hứng (hào hùng,
lãng mạn, hiện thực...), đồng thời sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đa dạng, và
nhiều kiểu câu xen kẽ linh hoạt...
Trường ca Đường tới thành phố ra đời, thực sự đã khẳng định vị trí và tài
năng của chính tác giả trong sự nghiệp sáng tác. Hữu Thỉnh đã khái quát hoá toàn
bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc. Những quan niệm, suy
nghĩ, những trải nghiệm trong cuộc sống được nâng cao hơn và đẩy sâu thêm đã
trở thành một nét phong cách rất riêng trong sáng tác của Hữu Thỉnh...
Trường ca Đường tới thành phố - dài hơn 1500 câu, được Hữu Thỉnh mở ra
và đưa người đọc đến với một câu hỏi lớn: Không biết bằng cách nào lửa đã
nhóm lên? Và để rồi sau đó là một câu trả lời dài dặc, là sự lý giải, là sự cắt
nghĩa về một con đường được giải phóng hoàn toàn sau hai mươi năm dài đất
nước bị chia cắt. “Đây quả là một cuộc hành trình vĩ đại nhưng cực kỳ gian nan.
Song ngòi bút của Hữu Thỉnh thật tỉnh táo, khoẻ khoắn, không một chút cường
điệu dễ dãi khi viết về bước đường gian nan ấy. Người chiến sĩ là hình ảnh trung
tâm và xuyên suốt trường ca. Sự từng trải của người viết đã giúp anh dựng chân
dung người chiến sĩ chân thực và sống. Những trang viết của Hữu Thỉnh do đó có
sức chinh phục”
(1)
. Vừa cố gắng phác hoạ, vừa cố gắng dựng lại chặng đường dẫn
đến chiến thắng của đất nước bằng những hình ảnh tiêu biểu chứa đầy cảm xúc
và ưu tư, vì thế trường ca này thực sự đánh dấu sự chín muồi của một giai đoạn
thơ Hữu Thỉnh. Trường ca gồm 5 chương, mỗi chương có nhiều khúc, “mối liên
hệ giữa các chương rất linh hoạt, có thể thay đổi vị trí cho nhau, hoặc tồn tại độc
lập mà vẫn không ảnh hưởng đến cấu trúc của tác phẩm. Không có cốt truyện,

trường ca diễn biến theo mạch trữ tình”
(2)
. Bao trùm lên toàn bộ bản trường ca
này là tâm trạng của một người chiến sĩ hành quân trên suốt chặng đường của đất
nước, từ đỉnh núi Trường Sơn lửa đạn vượt qua mọi khó khăn ác liệt để tiến vào
giải phóng Sài Gòn.
Thành công của Hữu Thỉnh chính là cách thể hiện vừa sâu vừa tinh, vừa khái
quát vừa chi tiết những tình cảm, những suy ngẫm của người lính trong cuộc
chiến đấu chống kẻ thù, sức sống trong thơ ông chính là sức sống của một người
lính viết về người lính:
Anh còn lại sau những ngày thay quân
Sau những lần hổ vồ
Sau những lần voi đuổi
Sau bữa canh nấm độc cào gan
Giặc đổ quân vào hậu cứ sư đoàn
Hất anh qua biên giới
Thèm một chỗ ngồi thư thả bóc măng
(Đường tới thành phố)
“Thèm một chỗ ngồi thư thả bóc măng” - một chi tiết mang bao ý nghĩa, nó vừa
nói lên được cái gian nan, đồng thời cũng nói lên được khát vọng cháy lòng của
người lính giành lại tự do cho mảnh đất quê hương.
Hướng về quê hương, Hữu Thỉnh hướng về với mẹ, hình ảnh mẹ lam lũ tảo
tần, thức khuya dậy sớm:
Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng
Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió
(Đường tới thành phố)
“Nếu mẹ biết ta còn đông đủ” thì “giọt đèn ấy bớt đi nhiều khuya khoắt”.
Và “Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc”:
Mẹ nén đau
Giấu tờ báo tử

Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ.
(Đường tới thành phố)
Bên cạnh người mẹ, hình ảnh người chị - những người phụ nữ có chồng đi
chiến đấu - cũng được Hữu Thỉnh miêu tả với một tấm lòng trân trọng và niềm
cảm thông sâu sắc. Đấy là hình ảnh “chị nuôi anh dưới đất. Năm năm trời anh
nhìn chị trong đêm” để đến nỗi chị gặp anh thường xuyên mà “không hay anh
ốm- mập,... không hay anh đen trắng ra sao”. Anh dưới hầm thì như thế, còn
bóng dáng chị trên mặt đất thì sao:
Chị goá bụa trong hồ sơ tự khai
Chị cười cợt với thằng chỉ điểm
... Cứ hau háu rình chộp chị mang đi.
Chị cố làm cho thật lẳng lơ
Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị
Mỗi năm một lần cúng kỵ
Khấn anh xong mang xôi trái xuống hầm
(Đường tới thành phố)
Hình ảnh “khắc khoải hai mươi năm đời chị”, với những năm tháng ngập
chìm trong “nỗi buồn như thông điệp xé đôi. Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở
lại”:
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền...
(Đường tới thành phố)
Nếu không phải là người trong cuộc, khó có thể có được những câu thơ sắc
nét đến như thế.
Những câu chữ rất riêng, rất độc đáo, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc đó
vẫn còn được Hữu Thỉnh gửi gắm qua trường ca Biển. Đó là một bản trường
ca gần 1000 câu lại một lần nữa được Hữu Thỉnh dồn sức thổi vào trong đó

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×