Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn bảo ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.78 KB, 136 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Bùi Đỗ Kim Thuần

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN BẢO NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Bùi Đỗ Kim Thuần

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN BẢO NINH
Chuyên ngành

: Lý luận văn học

Mã số

: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập tại trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ, động viên, chia sẻ của rất nhiều người.
Trước tiên, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Phùng Quý Nhâm, giảng
viên trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Ngữ văn của trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội và trường Đại học khoa học xã
hội và nhân văn TP. Hồ Chí Minh đã giảng dạy tận tình trong suốt khóa học.
Xin cảm ơn phòng Sau đại học đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu. Và lời
cảm ơn cuối xin gửi đến gia đình, bạn bè đã bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian vừa qua.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2013
Người viết luận văn

Bùi Đỗ Kim Thuần

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................15
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................15
5. Những đóng góp của luận văn .....................................................................................16
6. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................................17

CHƯƠNG 1: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN BẢO NINH .................................................................................. 18
1.1. Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự ............................................................18
1.1.1. Khái niệm trần thuật .............................................................................................18
1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật ............................................................................19
1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật ..............................................................................23
1.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh................................................25
1.2.1. Điểm nhìn bên trong (điểm nhìn chủ quan) ..........................................................26
1.2.2. Điểm nhìn bên ngoài (điểm nhìn khách quan)......................................................35
1.2.3. Sự dịch chuyển và kết hợp các điểm nhìn trần thuật ............................................39

CHƯƠNG 2 : KẾT CẤU VÀ TÌNH HUỐNG TRUYỆN TRONG TRUYỆN
NGẮN BẢO NINH .................................................................................................... 50
2.1. Kết cấu trong truyện ngắn Bảo Ninh .......................................................................50
2.1.1. Kết cấu trong tác phẩm tự sự ................................................................................50
2.1.2. Kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh ....................................................54
2.2. Tình huống truyện trong truyện ngắn Bảo Ninh ....................................................66
2.2.1. Tình huống truyện trong tác phẩm tự sự ...............................................................66
2.2.2. Tình huống truyện trong truyện ngắn Bảo Ninh ...................................................68

CHƯƠNG 3 : NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN BẢO
NINH ........................................................................................................................... 81
3.1. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Bảo Ninh ...................................................................81

3.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm tự sự..........................................81
3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh...............................................84
3.2. Giọng điệu trong truyện ngắn Bảo Ninh ...............................................................100
2


3.2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật trong tác phẩm tự sự ......................................100
3.2.2. Giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh ...........................................103

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 123
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 128

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi pháp học là một bộ phận không thể thiếu và có vai trò lớn đối với việc nghiên cứu
tác phẩm văn chương. Các lý thuyết cơ bản của thi pháp học liên quan đến thể loại tự sự
không chỉ đặt nền tảng quan trọng cho việc khám phá chiều sâu văn bản mà còn giúp chúng
ta cảm nhận được sâu sắc những giá trị nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm từ phương diện nghệ
thuật là một hiện tượng đang được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay quan tâm.
Nghệ thuật là một phương thức biểu đạt chủ yếu để khám phá, phản ánh đời sống, tạo tính
hấp dẫn cho tác phẩm và góp phần hình thành phong cách mỗi nhà văn. Khám phá nghệ
thuật, người đọc sẽ thấy được những đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật tổ chức
kết cấu, tình huống truyện, ngôn ngữ,…của mỗi nhà văn. Nghiên cứu văn chương nói chung
và truyện ngắn nói riêng cần đặt nghệ thuật lên vị trí quan tâm hàng đầu.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định thế kỷ XX là thời đại “lên ngôi của truyện ngắn”.
Truyện ngắn là một thể loại đặc biệt, súc tích, dễ đọc, gần gũi với đời sống hằng ngày, là

trung tâm của đời sống văn học hiện đại. Nhiều nhà văn đã đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp
sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện ngắn xuất sắc của mình. Về phương diện nội
dung, nó được xem là một lát cắt ngang của cuộc sống. Với dung lượng nhỏ, thể loại này là
sự kết tinh cao nhất của ngôn từ. Bởi nhà văn khi viết vừa phải đáp ứng được yêu cầu về
dung lượng mà vẫn phải tái hiện cuộc sống một cách chân thực, khách quan đồng thời biểu
hiện được những suy nghĩ chủ quan của mình. Đối sánh với các thể loại khác, truyện ngắn
có nhiều ưu thế trong việc phản ánh sự phong phú, sinh động đời sống khách quan. Một
truyện ngắn thành công không thể thiếu sự nỗ lực, cố gắng của nhà văn trong việc tổ chức,
xây dựng nghệ thuật tác phẩm. Có nhiều hướng khác nhau để tiếp cận thể loại này và khai
thác từ góc độ nghệ thuật là một hướng đi hợp lý để khám phá cách tổ chức tác phẩm và
cách cảm, cách nghĩ, quan điểm của nhà văn về cuộc sống, từ đó đánh giá được những đóng
góp to lớn của nhà văn trong sự phát triển của thể loại này.
Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 đạt được nhiều thành tựu nổi bật với sự đóng
góp của hàng loạt cây bút như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê,
Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Tư…Trong những tên tuổi đó, Bảo
Ninh là một gương mặt đã để lại dấu ấn trên hành trình đổi mới văn học với nhiều thể
nghiệm văn chương táo bạo, mới mẻ. Ông thuộc thế hệ nhà văn thành danh khi chiến tranh
4


chống Mỹ kết thúc. Nhắc đến Bảo Ninh người ta thường nhớ đến một nhà văn viết tiểu
thuyết hơn là một nhà văn viết truyện ngắn. Dường như mọi sự chú ý đối với tác giả phần
nhiều dành cho tiểu thuyết. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nhận, đánh giá nhà văn ở thể loại tiểu
thuyết thì chưa đủ và có phần thiếu sót. Bởi vì, ở thể loại truyện ngắn, Bảo Ninh cũng khẳng
định, chứng tỏ mình là một cây bút sắc sảo, tinh tế không kém gì. Nhiều ý kiến đều thừa
nhận nhà văn đã có nhiều đóng góp mới mẻ trong cách nhìn về đề tài chiến tranh trong văn
học hậu chiến và những cách tân trong nghệ thuật truyện ngắn. Tác phẩm của ông ẩn chứa
nhiều ý nghĩa sâu xa, thể hiện cái nhìn về hiện thực cuộc sống. Bảo Ninh – nhà văn “viết về
chiến tranh như viết về tình yêu” luôn cất giữ cho riêng mình những kỷ niệm từ chiến
trường gian khổ nhưng oanh liệt. Nhà văn từng nhận mình là một người cầm bút gắn gần cả

cuộc đời vào một nỗi buồn mang tên “chiến tranh”. Dường như, trong tâm hồn của ông,
chiến tranh là nỗi nhớ da diết, là nỗi buồn nguyên khối. Viết về cuộc sống sau chiến tranh
đã đi qua với Bảo Ninh cũng như các nhà văn khác là niềm hạnh phúc, say mê, là món nợ
văn chương cần phải trả đối với cuộc đời. Truyện ngắn Bảo Ninh với một chất giọng man
mác buồn, đầy ắp những triết lý, suy tư, những trăn trở về cuộc sống và con người. Đọc tác
phẩm của ông, chúng ta hiểu con người đau khổ, trăn trở, nhận thức như thế nào về quá khứ,
về chiến tranh, về những gì được mất trong cuộc đời. Nghiên cứu về truyện ngắn của Bảo
Ninh đang thu hút sự quan tâm của nhiều người cầm bút bởi những đặc trưng về thể loại và
nội dung phản ánh. Nghệ thuật là một phương diện cơ bản, góp phần tạo nên những giá trị
thẩm mỹ đặc sắc cho truyện ngắn của ông. Việc nghiên cứu những đặc điểm nghệ thuật
trong truyện ngắn của Bảo Ninh từ góc độ thi pháp học vẫn chưa có công trình nào chi tiết,
quan tâm đúng mực.
Do vậy, với mong muốn “nhìn” ra những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn của
Bảo Ninh, chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh”. Chúng tôi
muốn thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này để khám phá, khẳng định những cách
tân nghệ thuật trong truyện ngắn, đồng thời để thấy rõ phong cách nghệ thuật của nhà văn
và đóng góp thêm ý kiến đánh giá của mình về phương diện nghệ thuật vào quá trình đánh
giá toàn bộ sự nghiệp văn học của Bảo Ninh. Việc chọn và nghiên cứu đề tài này cũng là dịp
để chúng tôi học tập, rèn luyện, trau dồi kĩ năng nghiên cứu cả về thao tác và tư duy trong
phân tích tác phẩm văn học, từ đó góp phần phục vụ cho công việc giảng dạy sau này.

2. Lịch sử vấn đề
5


2.1. Khái quát vấn đề lịch sử nghiên cứu
Bảo Ninh là cây bút làm nên một phần diện mạo vừa độc đáo, vừa đa dạng cho văn học
trong thời kỳ đổi mới. Ông tên thật là Hoàng Ấu Phương, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1952 tại
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Ông ở Hà Nội từ 1954. Năm 1969, Bảo Ninh nhập ngũ, chiến đấu ở mặt trận B3 Tây

Nguyên. Tháng 9 năm 1975, ông giải ngũ. Từ 1976-1981 học đại học ở Hà Nội, sau đó làm
việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Từ 1984-1986 học khóa 3 Trường viết văn Nguyễn Du.
Sau đó công tác tại báo Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam và Văn nghệ Trẻ. Nhà văn đã được
nhận Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 với tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1997.
Sự xuất hiện của Bảo Ninh không ồn ào dữ dội nhưng ngày càng chinh phục được trái
tim độc giả. Ông viết về sự tàn khốc của chiến tranh, sự trái ngang của hiện thực, những bi
kịch số phận, những đau đớn của tâm hồn với một tấm lòng trân trọng và yêu thương con
người. Ngay từ khi mới ra đời, những tác phẩm của Bảo Ninh không phải là kiệt tác gây
chấn động trên văn đàn văn học nhưng nó lại có sức hấp dẫn riêng. Người đọc từ từ bị cuốn
hút theo dòng chảy của mạch truyện bởi những câu văn rất chân thực đến cảm động lòng
người.
Như Bảo Ninh đã nói với Suzanne Goldenberg của tờ Guardina (Anh): “Tôi biết nhiều
câu chuyện đương thời ở Việt Nam, nhưng tôi không viết. Mỗi nhà văn có chủ đề của mình”
(Guardina, 19/11/2008) [62; tr.6]. Bảo Ninh chỉ viết về quá khứ chiến trường và cái quá khứ
xa hơn của nó ở Hà Nội mà nhà văn vẫn gọi là “thành phố quê hương thứ hai của tôi”.
Chiến tranh và hậu chiến tranh là đề tài bao trùm trong sáng tác của ông. Tác giả có ý thức
sâu sắc trong việc thay đổi cách viết, cách nhìn mới, cách cảm thụ và lý giải mới về đề tài
quen thuộc này vốn đã có rất nhiều cây bút thành danh như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn
Kháng, Lê Minh Khuê…Nhà văn khai thác đề tài chiến tranh theo tư duy mới, thực sự đem
lại thành quả to lớn đối với văn học nước nhà. Ông viết về chiến tranh, về người lính trong
hoài niệm, suy ngẫm của người trong cuộc khi bước ra cuộc chiến. Văn học trước 1975
chưa có điều kiện khai thác sâu sắc những khó khăn, phức tạp của đời sống, những tổn thất,
mất mát trong chiến tranh. Thời gian tạo cho Bảo Ninh có cơ hội nhìn chiến tranh như một
hiện tượng xã hội và cho phép nhà văn kiểm chứng những hậu quả xã hội của nó. Khác với
những tác phẩm trước đó mang tính sử thi, miêu tả chiến tranh từ góc độ cộng đồng, Bảo
Ninh miêu tả chiến tranh từ góc độ khác, đó là góc độ cá nhân, thân phận con người.
6



Bằng chính vốn sống, vốn ký ức phong phú và quý giá về chiến tranh, về hiện thực
cuộc sống, nhà văn đã cho ra đời những tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Cho đến thời
điểm này, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Bảo Ninh chưa để lại một khối lượng tác
phẩm quá đồ sộ như nhiều nhà văn tên tuổi khác. Tuy là số ít nhưng những tác phẩm của
ông rất đáng trân trọng và đáng đọc. Sáng tác của Bảo Ninh tập trung ở hai thể loại truyện
ngắn và tiểu thuyết. Ông được đông đảo mọi người biết đến với tiểu thuyết duy nhất, đặc
sắc nhất và đạt nhiều thành công nhất là Nỗi buồn chiến tranh. Tiểu thuyết được xuất bản
lần đầu tiên năm 1987 với nhan đề Thân phận của tình yêu do nhà xuất bản Hội Nhà văn
lựa chọn và được giải thưởng của Hội Nhà văn năm 1991. Tác phẩm được dịch sang tiếng
Anh bởi Frank Palmos và Phan Thanh Hảo, xuất bản năm 1994 với tựa đề The sorrow of
war. Một số nhà phê bình đánh giá đây là một trong những tiểu thuyết cảm động nhất về
chiến tranh. Tác phẩm là câu chuyện buồn của thân phận, của tình yêu gắn với chiến tranh.
Năm 2005, tác phẩm này được tái bản với nhan đề ban đầu là Thân phận của tình yêu; năm
2006 tái bản với nhan đề đã trở thành nổi tiếng Nỗi buồn chiến tranh. Và gần đây nhất, tác
phẩm được giải Nikkei Asia Prizes của Nhật Bản (giải thưởng dành cho những người châu
Á có cống hiến xuất sắc) và giải sách hay trong nước năm 2011. Cho đến nay, cuốn tiểu
thuyết được dịch ra hơn 15 thứ tiếng và có mặt ở một số trường đại học trên thế giới.
Nhưng có lẽ làm nên tên tuổi của Bảo Ninh không thể không nhắc đến các truyện ngắn
của ông. Ngoài tiểu thuyết, Bảo Ninh còn viết hàng loạt truyện ngắn để đưa đến cái nhìn đa
dạng, đầy đủ và toàn diện về chiến tranh, hậu chiến tranh. Ở thể loại truyện ngắn, nhà văn
chứng tỏ được tài năng của mình. Các tác phẩm được đăng trên báo sau đó được các nhà
xuất bản tập hợp in thành sách. Trên cơ sở tìm hiểu, chúng tôi thống kê những tập truyện
ngắn đã xuất bản như sau: Trại bảy chú lùn (in lần đầu 1987, tái bản năm 2011, Nxb Văn
học); Truyện ngắn Bảo Ninh (2002, Nxb Công an nhân dân); Hà Nội lúc không giờ (2003,
Nxb Văn hóa thông tin); Lan man trong lúc kẹt xe (2005, Nxb Hội Nhà văn); Chuyện xưa
kết đi, được chưa? (in lần đầu năm 2006, tái bản năm 2009, Nxb Văn học); Bảo Ninh-Tác
phẩm chọn lọc (2011, Nxb Phụ nữ). Những tập truyện ngắn trên thống kê đầy đủ những tác
phẩm trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Bảo Ninh cho đến thời điểm này. Các nhà
xuất bản tập hợp khác nhau nên các tuyển tập không trùng khít nhau về số lượng, và có
truyện ngắn vừa có ở tuyển tập này đồng thời có ở tuyển tập kia. Ngoài truyện ngắn, tiểu

thuyết, Bảo Ninh còn viết bài trên báo bàn về sự đổi mới của văn học. Qua những trang viết

7


chân thật của Bảo Ninh, chúng ta hiểu nhiều hơn về một nhà văn luôn mang “hồi niệm chiến
tranh” đến suốt cuộc đời.
Bên cạnh tiểu thuyết thì truyện ngắn cũng là một mảng sáng tác quan trọng trong sự
nghiệp của Bảo Ninh thu hút được sự chú ý của dư luận. Những bài viết nhận định về truyện
ngắn Bảo Ninh chưa được tập hợp thành sách. Sau đây là những nhận xét, đánh giá có liên
quan gián tiếp đến đề tài cụ thể là về nhà văn Bảo Ninh và truyện ngắn của ông nói chung.
Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 đánh giá cao Bảo Ninh là:
“Một cây bút ấn tượng với bạn đọc” [87; tr.32]. Phan Cự Đệ trong Văn học Việt Nam thế
kỷ XX khẳng định: “Bảo Ninh là một trong những nhà văn có duyên với truyện ngắn” [19;
tr.337]. Tác giả Đoàn Ánh Dương trong bài viết “Bảo Ninh – nhìn từ thân phận truyện
ngắn” có đưa ra một nhận xét khá chính xác, sắc sảo: “Chủ âm trong sáng tác của Bảo Ninh
là các hồi tưởng về quá vãng. Chấn thương chiến tranh đã làm Bảo Ninh phải viết về nó
như trả một món nợ. Đúng hơn là chấn thương đã cầm cố Bảo Ninh trong tư cách một nhà
văn buộc ông phải vắt kiệt mình trong tất cả hồi ức về quá khứ” [16]. Với Bảo Ninh, chiến
tranh là chấn thương luôn cầm cố trong lòng. Bởi thế trở về sau chiến tranh, nhà văn luôn
ám ảnh những gì mà cuộc chiến mang lại và ông trở thành kẻ ăn mày ký ức: “ký ức là chất
liệu chủ đạo trong sáng tác của Bảo Ninh, còn Bảo Ninh là kẻ “ăn mày ký ức” ấy” [16].
Tác giả còn nhận xét về đặc điểm truyện ngắn Bảo Ninh như: “Văn chương Bảo Ninh có
tính chất như một vùng đệm của hai dạng thái văn chương: hiện thực (với đặc trưng phản
ánh là chủ đạo) và hậu hiện thực (với đặc trưng khám phá là chủ đạo)” [16].
Nhận xét của Nguyễn Chí Hoan trong Bảo Ninh – Tác phẩm chọn lọc đề cập đến Bảo
Ninh với: “Một lối văn chương độc đạo của nỗi u sầu như vốn thế toát lên từ các ký ức thời
chiến mà không gợi gì hờn oán hay ngạo nghễ hay nuối tiếc phân vân” [62; tr.5]. Và tác giả
cũng có cùng suy nghĩ với Đoàn Ánh Dương khi bàn về chủ đề chiến tranh trong truyện
ngắn Bảo Ninh. Đó là một sự lặp lại chủ đề về những buồn đau, những éo le thời chiến: “Tất

cả những truyện anh viết đều dưới những thôi thúc của ký ức – mà sự lặp lại một chủ đề
những buồn đau và những éo le thời chiến là một căn bệnh minh bạch” [62; tr.11]. Nguyễn
Chí Hoan còn khẳng định tính giản dị của truyện ngắn Bảo Ninh “toát lên một cách không
thể nhầm lẫn từ giọng điệu, kết cấu chuyện kể, ngôn từ và chất xúc cảm trong đó” [62; tr.7].
Với Mai Quốc Liên khi “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh” đã nhìn thấy được ý nghĩa cao
nhất qua những câu chuyện mà nhà văn gửi gắm. Truyện ngắn Bảo Ninh “đã đưa người đọc
đi qua biết bao cảnh đời, tình người cảm động, xót xa, cay đắng nữa - những cảnh đời hết
8


sức bình dị…Những ký ức về cuộc chiến. Những éo le, những đau khổ, những vết thương
không phương hàn gắn của những cuộc đời đi qua chiến tranh. Một cách mô tả, một cái
nhìn đã bình tĩnh hơn sau nhiều năm tháng. Một nỗi buồn, một nỗi xót xa thấm đượm những
trang sách. Những số phận rất khác nhau nhưng đều giống nhau ở sự mất mát trong chiến
tranh. Có điều là nỗi buồn ở đây không tuyệt vọng mà có hiệu ứng thanh lọc con người, làm
cho nó “người” hơn một chút. Đó có lẽ là ý nghĩa cao nhất của những trang truyện” [51].
Trong những năm gần đây, truyện ngắn Bảo Ninh được một số người chọn làm đối
tượng nghiên cứu cho các luận văn, luận án của mình. Có thể kể đến nhiều luận văn ở khu
vực phía Bắc như: Đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh (Lưu Thị
Thanh Trà, 2006); Nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh (Lê Thị Lan Anh, 2007); Đặc sắc
truyện ngắn Bảo Ninh (Nguyễn Thị Lệ Nhật, 2010); Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn
Bảo Ninh (Nguyễn Thị Hóa, 2010); Câu trần thuật trực tiếp trong truyện ngắn Bảo Ninh
(Đinh Thị Bình Hà, 2010); Truyện ngắn Bảo Ninh dưới góc nhìn thể loại (Nguyễn
Phương Nam, 2013). Những luận văn trên ít nhiều đề cập đến các vấn đề có liên quan đến
truyện ngắn Bảo Ninh ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Nhưng dường như chú
trọng về nội dung hơn là nghệ thuật. Về nội dung, các tác giả phát hiện thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Bảo Ninh sống động, phong phú, hầu hết là nhân vật người lính, người phụ nữ
trong và sau chiến tranh. Nhà vănviết về đề tài chiến tranh và người lính với một sinh khí mới
hấp dẫn hơn. Qua đó thể hiện một cái nhìn toàn diện hơn về con người và cuộc sống. Bên cạnh
đó nhiều luận văn còn tập trung khám phá ở phương diện nghệ thuật, phát hiện nét độc đáo

của Bảo Ninh trong việc thể hiện nhân vật qua sử dụng ngôn ngữ. Một đặc điểm dễ nhận
thấy trong ngôn ngữ xây dựng nhân vật của Bảo Ninh là thứ ngôn ngữ giàu chất triết lý,
đem lại cho tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ quát, bên cạnh đó còn sử dụng ngôn ngữ đối
thoại, độc thoại nội tâm để thể hiện nhân vật. Các tác giả khẳng định thành công trong
truyện ngắn Bảo Ninh được thể hiện cụ thể ở một số phương diện như: nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật, nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật, cốt truyện, ngôn ngữ, nhịp điệu
trần thuật.... Tất cả những phương diện này đó góp phần khẳng định khát vọng đổi mới của
nhà văn trong tiến trình phát triển của văn học đương đại. Đáng chú ý nhất là luận văn Đặc
điểm nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh của Nguyễn Thị Hóa. Bởi đó cũng là tên đề tài
luận văn mà chúng tôi đã chọn. Trên cơ sở tìm hiểu luận văn của Nguyễn Thị Hóa, chúng
tôi nhận thấy tác giả khai thác cả nội dung và nghệ thuật nhưng tập trung bàn nhiều về nội
dung. Về nghệ thuật, tác giả chú trọng khám phá hai khía cạnh nghệ thuật nổi bật là cốt
9


truyện và nghệ thuật thể hiện nhân vật trong truyện ngắn Bảo Ninh. Đây là những gợi ý
quan trọng giúp chúng tôi khám phá nghệ thuật với những khía cạnh mới và tìm ra hướng đi
mới để không trùng lặp.
Như vậy, Bảo Ninh là một hiện tượng văn học rất đáng được giới nghiên cứu quan tâm
không chỉ ở thể loại tiểu thuyết mà cả ở truyện ngắn. Điểm lại quá trình, chúng tôi thấy tập
trung nhiều nhất là nghiên cứu truyện ngắn của ông dưới góc độ: đề tài, nội dung, nhân vật,
quan niệm nghệ thuật về con người....Riêng vấn đề nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh được
một số nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm như: Phùng Văn Tửu, Mai Quốc Liên, Nguyễn
Chí Hoan, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Đoàn Ánh Dương…Những bài viết, bài nghiên cứu
của các tác giả trên đã phần nào đề cập đến nhiều phương diện nghệ thuật giúp chúng tôi có
cái nhìn cơ bản, khái quát về nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh. Trong một số tài liệu mà
chúng tôi khảo sát liên quan trực tiếp đến các phương diện nghệ thuật, có thể tập hợp thành
những ý kiến, nhận xét tiêu biểu dưới đây.
2.2. Những nhận xét về nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh
+ Những nhận xét, đánh giá về điểm nhìn trần thuật

Vấn đề điểm nhìn trần thuật gắn liền với người kể chuyện đã được một số nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm như: Phùng Văn Tửu, Mai Quốc Liên, Nguyễn Chí
Hoan,…Các bài viết ít nhiều đề cập đến khía cạnh ngôi kể và điểm nhìn. Nhưng vấn đề
điểm nhìn mới chỉ tập trung ở cái nhìn bao quát, chủ yếu đi sâu vào phương diện người kể
chuyện. Chúng tôi thấy còn thiếu cái nhìn tỉ mỉ, cụ thể, hệ thống, đầy đủ và toàn diện.
Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên khi đọc truyện ngắn Bảo Ninh đã khẳng định khả năng
quan sát nhạy bén và kỹ thuật trần thuật đầy chất thẩm mỹ của Bảo Ninh khi lựa chọn điểm
nhìn trần thuật trong bài viết “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh”: “Khi chọn điểm nhìn của nhân
vật, từ cõi siêu tôi dường như cái ngân hàng kí ức chiến tranh của Bảo Ninh đã chuyển sang
ở thùy não phải và trở thành một phần trong đời sống tâm linh của ông. Cõi nhớ mênh
mông, ông tiếp cận nó từ tầng sâu nhất của hoạt động tâm lý, ông đã gọi tên được những
xung động vi tế và huyền bí trong vũ trụ tâm lý con người. Những điều này được kết hợp
khá hoàn hảo với khiếu quan sát nhạy bén và kỹ thuật trần thuật, phục dựng, mô tả đầy chất
thẩm mỹ. Chiến tranh - cảm hứng chủ đạo xuyên suốt hành trình sáng tạo của Bảo Ninh”
[51].
Phùng Văn Tửu trong công trình nghiên cứu Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ
thuật được in thành sách và xuất bản năm 2010 chỉ ra: “Chủ thể xưng “tôi” trong Hà Nội
10


lúc không giờ dường như vẫn trùng với Bảo Ninh – ta nhìn vào năm sinh của tác giả - khi
ấy là “một thằng bé mới mười ba tuổi đầu như “tôi” [94; tr.233]. Và tác giả cũng khẳng
định: “Người kể chuyện xưng “tôi” hiện diện song hành với tác giả ở nhiều truyện về đề tài
chiến tranh. Bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu ký ức về thời tham gia bộ đội chiến đấu ở mặt
trận B3 Tây Nguyên cho đến ngày giải ngũ năm 1975 in đậm ở tập “Lan man trong lúc kẹt
xe” [94; tr.233-234]. Bên cạnh đó, Phùng Văn Tửu còn phát hiện nét độc đáo trong cách sử
dụng phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất trong truyện ngắn Hà Nội lúc không giờ mà không
phải ai cũng dễ dàng nhận ra: “Truyện ngắn Hà Nội lúc không giờ của Bảo Ninh chủ yếu sử
dụng phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất, nhưng cũng lại có một phần thay chủ thể tự sự
“tôi” bằng người trần thuật đứng ngoài cuộc” [94; tr.244].

Nguyễn Chí Hoan trong cuốn Bảo Ninh – Tác phẩm chọn lọc cũng có những cảm
nhận gần giống với Phùng Văn Tửu khi bàn về nhân vật kể chuyện xưng “tôi”, đó là:
“Giọng kể và nhân vật kể chuyện xưng “Tôi” quả là giống nhau xuyên qua nhiều truyện;
nhưng, xa lạ với một cái “Tôi” nằm vào chỗ trung tâm và kể về mình, đây hoàn toàn là ký
ức, sự thôi thúc của ký ức gắn với trải nghiệm về một lịch sử vượt ngoài khuôn khổ cá nhân
mà không phải là một lịch sử con người cá nhân của hình thức tự truyện” [62; tr.7-8].
+ Những nhận xét, đánh giá về kết cấu
Xem xét truyện ngắn Bảo Ninh từ nhiều phương diện nghệ thuật khác nhau, các nhà
nghiên cứu đã lên tiếng khẳng định và ủng hộ những cách tân trong nghệ thuật của nhà văn.
Các nhà nghiên cứu đã không quên đề cập đến vấn đề kết cấu, được xem là yếu tố chính làm
nên sự độc đáo cho truyện ngắn Bảo Ninh. Sau đây là một số bài viết có đề cập đến kết cấu.
Nhận xét về kết cấu trần thuật của chuyện kể, Nguyễn Chí Hoan trong lời giới thiệu
Bảo Ninh – Tác phẩm chọn lọc đã cho thấy cách lựa chọn kết cấu đơn giản của Bảo Ninh
nhưng đem lại hiệu quả thẩm mỹ cao: “Bảo Ninh… đã lựa chọn giải pháp đơn giản truyền
thống về kết cấu và trần thuật của chuyện kể, dồn tối đa sức mạnh vào những mô tả chính
xác một cách khoa học như văn chương có thể” [62; tr.6].
Mai Quốc Liên khi đề cập đến vấn đề kết cấu cũng có những cảm nhận và nhận xét
gần với ý kiến của Nguyễn Chí Hoan khi “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh”. Ông thấy rằng
truyện ngắn Bảo Ninh “không đặt trọng tâm trong sắp đặt kết cấu cầu kì rắc rối, hay sự làm
duyên câu chữ” mà là ở cảm xúc trong từng câu chữ “được ướp trong mùi hương say đắm
có tên kỉ niệm” [51]. Nhưng tác giả lại khá tâm đắt với cốt truyện của Bảo Ninh: “Những

11


cốt truyện của ông khá độc đắc, kết quả của một vốn sống phong phú. Tất cả những điều
này tạo nên cảm giác nghiêm cẩn, mực thước trong văn ông” [51].
Bàn về một phương diện liên quan đến kết cấu là cách mở đầu và kết thúc truyện.
Đoàn Ánh Dương qua bài viết “Bảo Ninh – nhìn từ thân phận truyện ngắn” đã đưa ra những
ý kiến bàn về cách đặt tên truyện và cách kết thúc truyện của Bảo Ninh. Tác giả cho rằng:

“Cách đặt tên truyện và cái kết của Bảo Ninh gợi ý được nhiều điều. Hầu hết các tên truyện
(kiểu Sách cấm, Cái búng, Quay lưng,…) thậm chí trước nữa, như Ngàn năm mây trắng,
Rửa tay gác kiếm, Khắc dấu mạn thuyền,…đều không nhằm “vắt kiệt nghĩa” của chủ đề mà
hướng gợi người đọc vào những suy tư khác. Cái kết trong truyện ngắn Bảo Ninh cũng vậy.
Rất thường khi chúng tồn tại như một kiểu trữ tình ngoại đề. Bạn đọc sẽ dễ dàng tìm thấy
những cái kết như thế” [16]. Sau đó, tác giả còn dẫn chứng những truyện ngắn tiêu biểu có
kiểu kết thúc như vậy như Hữu khuynh, Đêm trừ tịch, Cái búng…
+ Những nhận xét, đánh giá về tình huống truyện
Một đặc điểm nữa về nghệ thuật đáng được chú ý trong truyện ngắn Bảo Ninh là tình
huống truyện. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá và khẳng định sự thành công của nhà văn
trong việc xây dựng những kiểu tình huống truyện đặc sắc.
Đi vào tìm hiểu, nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh, Bùi Việt Thắng trong
cuốn sách Bình luận truyện ngắn chỉ ra truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền “là kiểu tình
huống tượng trưng” [82; tr.49].
Nếu Bùi Việt Thắng mới chỉ quan tâm đến truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền với
kiểu tình huống tượng trưng thì Nhị Linh trong bài viết “Làm thế nào để sống” đã chú trọng
bàn về nhiều truyện ngắn khác với kiểu tình huống nhỏ bé tưởng chừng vô nghĩa nhưng làm
thay đổi cuộc đời cả một con người: “Rồi các tình huống nhỏ bé tưởng chừng vô nghĩa
nhưng làm thay đổi cuộc đời cả một con người (như trong “Mối ngờ”, “Thách đấu”), nơi
sự hèn nhát lấn lướt lòng can đảm và dư vị ngậm ngùi là điều còn lại sau khi theo dõi mỗi
thân phận” [52].
Nguyễn Chí Hoan khi bàn về tình huống trong sáng tác của Bảo Ninh nhận xét các
truyện ngắn của ông “chỉ đề cập những giây phút ngời sáng và quặng đau những tình huống
thời chiến và chiến trường, chỉ nói về nỗi buồn gắn với những số phận bị buộc vào và xoay
quanh cái trục thời đại ấy” [62; tr.6]. Ngoài ra tác giả còn cho rằng những tình huống bi
kịch ấy dù trực tiếp hay gián tiếp đều do chiến tranh gây ra chứ “không phải chuyện bom rơi
đạn lạc, mà là những trớ trêu của các thứ tình huống không thể ngờ, với cái logic lạnh lùng
của tình huống” [37; tr.119].
12



Mai Quốc Liên cũng rất quan tâm đến vấn đề tình huống truyện. Qua những trang viết
trong bài “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh”, ông cho rằng truyện ngắn của Bảo Ninh có cốt
truyện “kỳ” với những tình huống rất ly kỳ, éo le, định mệnh: “Truyện ngắn Bảo Ninh đặt
nhân vật vào trong cơn giông bão của cuộc chiến, không thiếu những“màn ly kỳ” [51]. Tác
giả đưa ra dẫn chứng truyện ngắn Thời tiết của ký ức để làm rõ vấn đề đang bàn luận: “Câu
chuyện trong “Thời tiết của ký ức”, mối tình trong chia ly, chia cắt, tù ngục... của ông Phúc
và Quỳnh, là một ngẫu nhiên đau đớn của số phận, của định mệnh..., rất ly kỳ” [51]. Điều
đặc biệt là tác giả còn đưa ra nhận xét tinh tế, thẳng thắn khen cái được và chê cái thiếu sót
về mặt dựng truyện của Bảo Ninh: “Đứng về mặt dựng truyện mà nói thì không phải truyện
nào cũng như truyện nào, và có truyện rất hay, có truyện còn sơ sài, có những chủ đề thấm
thía, nhưng cũng có những chủ đề cần nghĩ thêm” [51].
+ Những nhận xét, đánh giá về ngôn ngữ và giọng điệu
Ngôn ngữ và giọng điệu là những yếu tố nghệ thuật tạo nên thành công của tác phẩm.
Xoay quanh vấn đề nghiên cứu về ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Bảo Ninh, cho
đến nay đã có một số bài viết đề cập tới. Chúng tôi tập trung vào các ý kiến nổi bật trong
giới hạn của đề tài. Những nhận xét, đánh giá của các tác giả đều chỉ ra được những sắc thái
giọng khác nhau. Vấn đề này chưa được tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện trên cơ sở lý
thuyết thi pháp học.
Tiếp tục nhìn nhận về những giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn, Nguyễn Chí Hoan
cũng trong lời giới thiệu Bảo Ninh – Tác phẩm chọn lọc đưa ra nhận xét về ngôn ngữ trong
truyện ngắn Bảo Ninh như sau: “những mô tả toát lên vẻ đẹp thi ca trên cả hai mặt ngôn
ngữ và cảm xúc, những mô tả có thể gọi là trọn vẹn theo thi pháp của hội họa phương Đông
– chi tiết làm nổi lên khoảng trống, sức sinh động của hình ảnh thành sức gợi, đôi lúc dựng
lên không-thời gian sử thi chỉ qua vài dòng” [62; tr.6].
Còn Mai Quốc Liên khi viết “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh” cho rằng Bảo Ninh không
làm thơ, nhưng văn anh “ẩn chứa một chất thơ đích thực, một chất thơ được gạn lọc từ
những thân phận người và chan hòa vào trong một thiên nhiên buồn, thường là một ngày
tàn thu mưa lạnh” [51]. Tác giả cảm nhận được chất thơ trong văn của cây bút Bảo Ninh, rất
tự nhiên làm người đọc ấm áp, xao lòng.

Nhà văn Đặng Anh Đào bày tỏ quan điểm thích truyện ngắn Bảo Ninh hơn tiểu thuyết:
“Cá nhân tôi thích truyện ngắn của Bảo Ninh hơn tiểu thuyết của anh” [17]. Bởi một lý do
rất thuyết phục đó là vì: “anh có một giọng văn “trắng”, thoạt nghe tưởng như vô cảm” và
13


“Bàng bạc trong tiểu thuyết và truyện của Bảo Ninh là nỗi buồn mang ý nghĩa sâu sắc về
khoảng cách thế hệ, về vấn đề cha và con… Điều đó chứng tỏ anh vẫn thấy được vẻ đẹp thời
đã qua và lưu luyến với nó” [17]. Tác giả khẳng định truyện ngắn Bảo Ninh mang giọng
điệu buồn nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
2.3. Nhận định chung
Trong quá trình tìm hiểu, thống kê những bài viết, những tài liệu nghiên cứu, chúng tôi
nhận thấy vấn đề về nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh đã được các nhà nghiên cứu,
phê bình bàn đến nhưng chỉ là một phần nhỏ trong những bài nghiên cứu tổng hợp nên chưa
có điều kiện đi sâu lý giải và làm nổi bật đặc điểm và giá trị nghệ thuật của từng truyện ngắn
mà nhà văn gửi gắm. Hầu hết chủ yếu là những luận văn ít ỏi, những bài viết lẻ tẻ, chưa
được tập hợp thành sách. Truyện ngắn của nhà văn cũng chưa được chọn làm đối tượng cho
những công trình nghiên cứu khoa học tổng hợp có quy mô lớn. Chúng tôi cũng nhận ra
rằng Bảo Ninh là một hiện tượng văn học có nhiều ý kiến trái chiều, có sự khen chê nhất
định trong sáng tác của ông kể cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhưng chính điều đó làm
chúng tôi thấy hứng thú và muốn tìm hiểu, khám phá.
Nhìn chung, những ý kiến, nhận xét về các phương diện khác nhau của nghệ thuật chỉ
mới dừng lại ở mức đánh giá khái quát chưa có sự lý giải một cách triệt để và hệ thống.
Nhiều bài nghiên cứu đều đi sâu vào vấn đề tác giả, tiểu thuyết và đề tài truyện ngắn nói.
Còn vấn đề về nghệ thuật thì chỉ là một vài ý kiến lẻ tẻ, rải rác về các phương diện nghệ
thuật như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, tình huống truyện, kết cấu, ngôn ngữ,
giọng điệu…Hầu hết những ý kiến, nhận xét về nghệ thuật đều có nhiều điểm tương đồng
nhau. Các tác giả đã chỉ ra rằng trong truyện ngắn Bảo Ninh chủ yếu được trần thuật từ
điểm nhìn bên trong với chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất. Và dường như trong bóng dáng
của các nhân vật mà ông xây dựng có bóng dáng của chính nhà văn. Bàn về kết cấu, tình

huống truyện, hầu hết các nhận xét, đánh giá đều có ý kiến gần giống nhau. Ngoài ra ở
phương diện ngôn ngữ và giọng điệu cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm và lý giải.
Tuy nhiên, những ý kiến trên là những gợi ý quý giá giúp chúng tôi có thêm cơ sở lý
luận để giải mã giá trị tác phẩm của nhà văn và giúp cho việc xác định hướng tiếp cận mới
đó là hướng tiếp cận dưới góc độ thi pháp học. Với góc độ khám phá riêng biệt, luận văn
này muốn tổng hợp từ những nhận định trên để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về một số vấn
đề căn bản và cần thiết khi bàn về nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh. Chúng tôi sẽ tiếp thu
những ý kiến, quan điểm đã có đồng thời đưa ra những ý kiến, cảm nhận riêng của mình
14


mong muốn góp thêm tiếng nói khẳng định tài năng nghệ thuật của Bảo Ninh trong nền văn
học đương đại Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài luận văn, chúng tôi khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Bảo Ninh
từ những nguồn tài liệu sau đây:
+ Tập truyện ngắn Chuyện xưa kết đi, được chưa?, được nhà xuất bản Văn học ấn
hành năm 2009. Gồm 14 truyện ngắn.
+ Tập truyện ngắn Trại “Bảy chú lùn”, do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2011.
Gồm 5 truyện ngắn.
+ Bảo Ninh-Tác phẩm chọn lọc, ấn phẩm do nhà xuất bản Phụ nữ mới phát hành năm
2011. Gồm 33 truyện ngắn. Trong đó có 11 truyện ngắn có trong tập truyện ngắn Chuyện
xưa kết đi, được chưa? và 1 truyện ngắn có trong tập truyện ngắn Trại “Bảy chú lùn”.
Như vậy, tổng số truyện ngắn chúng tôi khảo sát và nghiên cứu là 40 truyện ngắn.
Ngoài ra, ở từng phương diện nghệ thuật, chúng tôi còn đối sánh với truyện ngắn của các
nhà văn như Lê Minh Khuê và Hồ Anh Thái. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng
tham khảo tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của chính nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Luận văn tìm hiểu những nét độc đáo, sáng tạo một cách sâu sắc về “Đặc điểm nghệ
thuật truyện ngắn Bảo Ninh”.
+ Trong phần nội dung của luận văn, ở mỗi chương, chúng tôi nghiên cứu những vấn
đề lý luận có liên quan đến nghệ thuật trong tác phẩm tự sự nói chung.
+ Dựa trên cơ sở lý luận liên quan đến đề tài, chúng tôi khảo sát, nghiên cứu và phân
tích truyện ngắn Bảo Ninh từ một số phương diện nghệ thuật sau: điểm nhìn trần thuật, kết
cấu, tình huống truyện, ngôn ngữ và giọng điệu.

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp hệ thống
Để có thể xác lập những luận điểm, những nhận định có sức thuyết phục, luận văn chú
ý tới phương pháp hệ thống, một trong những phương pháp cơ bản trong nghiên cứu thi
pháp học. Ở đây là hệ thống hóa các phương diện nghệ thuật tiêu biểu, nổi bật mà Bảo Ninh
đã sử dụng trong mối liên hệ với phương diện nội dung. Sử dụng phương pháp này, chúng
15


tôi tiến hành tìm hiểu truyện ngắn Bảo Ninh như những chỉnh thể nghệ thuật thống nhất
giữa yếu tố nội dung và nghệ thuật. Để từ đó có cái nhìn hệ thống về phương diện nghệ
thuật trong truyện ngắn của nhà văn.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung. Chúng
tôi vận dụng phương pháp này để phân tích, tổng hợp từ cấp độ câu văn, đoạn văn có tính
chất tiêu biểu, điển hình để minh họa cho các luận điểm tổng hợp trong luận văn. Chúng tôi
tiến hành khảo sát từng tác phẩm, tập trung chú ý các yếu tố chính có liên quan đến các
phương diện của nghệ thuật. Kết hợp với phương pháp tổng hợp, chúng tôi rút ra những
nhận xét chung, khái quát, tiêu biểu về nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn. Trong quá
trình thực hiện chúng tôi sử dụng chủ yếu phương pháp này.
4.3. Phương pháp so sánh
Nhằm phát hiện, khẳng định những nét đặc sắc, đổi mới, riêng biệt của nghệ thuật

truyện ngắn Bảo Ninh chúng tôi tiến hành so sánh với sáng tác của một số nhà văn như Lê
Minh Khuê, Hồ Anh Thái...ở những vấn đề liên quan. Phương pháp này khá quan trọng và
được chúng tôi chú ý sử dụng với tần suất cao trong luận văn.
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Vận dụng cách tiếp cận từ phương pháp hình thức, chúng tôi phân tích các khía cạnh
hình thức nghệ thuật của tác phẩm như: điểm nhìn trần thuật, kết cấu, tình huống truyện,
ngôn ngữ, giọng điệu…để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của tác phẩm mà nhà văn gửi gắm.
Ngoài ra, chúng tôi vận dụng kết hợp với phương pháp thống kê, phương pháp phân
loại để đưa ra được những cứ liệu chính xác, cụ thể làm tăng thêm sức thuyết phục cho vấn
đề nghiên cứu. Việc tập hợp thống kê và phân loại các tác phẩm theo điểm nhìn trần thuật,
kết cấu, tình huống truyện…nhằm đáp ứng mục đích yêu cầu của từng chương, từng mục
trong luận văn, giúp cho sự nhận xét, đánh giá vấn đề có cơ sở khoa học hơn.
Bên cạnh việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, chúng tôi còn vận dụng lý
thuyết chuyên ngành Lý luận văn học, Phương pháp luận nghiên cứu văn học để làm rõ hơn
ý nghĩa nghệ thuật của cấu trúc văn bản cũng như một số phạm trù cơ bản liên quan đến
nghệ thuật. Tất cả những phương pháp trên sẽ được chúng tôi vận dụng linh hoạt trong quá
trình nghiên cứu.

5. Những đóng góp của luận văn
16


Luận văn bước đầu khảo sát, lý giải, phân tích tổng hợp, so sánh những yếu tố nghệ
thuật làm nên tính hấp dẫn, lôi cuốn, đặc sắc trong truyện ngắn Bảo Ninh như điểm nhìn
trần thuật, kết cấu, tình huống truyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Qua đó, phong cách truyện
ngắn của Bảo Ninh được định hình rõ nét. Hơn nữa, chúng tôi còn chỉ ra những điểm tương
đồng và khác biệt trong cách khai thác, vận dụng các phương diện nghệ thuật giữa Bảo Ninh
với Lê Minh Khuê và Hồ Anh Thái. Trên cơ sở đó, một lần nữa, chúng tôi khẳng định
những sáng tạo độc đáo và những đóng góp của Bảo Ninh trên phương diện nghệ thuật
truyện ngắn.


6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần thủ tục, mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được trình bày trong 3 chương như sau:
Chương 1: Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh. Chương
2: Kết cấu và tình huống truyện trong truyện ngắn Bảo Ninh.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Bảo Ninh.
Luận văn này sở dĩ có cấu trúc ba chương như trên bởi mục đích của chúng tôi là
nhằm giải quyết vấn đề: tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh một
cách sâu sắc. Nhiệm vụ của chương 1 là trình bày những đặc sắc trong việc tổ chức điểm
nhìn trần thuật ở các phương diện: điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, sự dịch
chuyển và kết hợp các điểm nhìn trần thuật. Với chương 2, chúng tôi đi sâu khám phá hai
phương diện nghệ thuật đặc sắc làm nên thành công cho truyện ngắn của Bảo Ninh là kết
cấu và tình huống truyện. Chương 3 nhằm lý giải vấn đề: Bảo Ninh đã vận dụng, tổ chức
ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo như thế nào? và những nét mới lạ trong giọng điệu nghệ thuật
tạo nên phong cách riêng của nhà văn ra sao? Như thế, chúng tôi sẽ khảo sát, lý giải những
đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh nhằm thấy rõ phong cách nghệ thuật viết truyện
của nhà văn.

17


CHƯƠNG 1: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRẦN
THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN BẢO NINH
1.1. Điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự
1.1.1. Khái niệm trần thuật
Khái niệm trần thuật được nhắc đến nhiều trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi
nghệ thuật. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, với sự xuất hiện của ngành Tự sự học
thì trần thuật - một trong những khía cạnh của Tự sự học được các nhà nghiên cứu quan
tâm, chú ý nhiều hơn.

Nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học thống nhất quan niệm trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, là
“phương diện cơ bản của phương thức tự sự , là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh,
miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần
thuật nhất định” [25; tr.364]; và trần thuật “thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong
loại hình nghệ thuật này” [25; tr.365]. Theo các tác giả thì trần thuật được hiểu là việc kể,
miêu tả, bàn luận…về các sự kiện, nhân vật dưới cái nhìn của một người kể chuyện nhất
định. Như thế, nhận định đã lý giải trần thuật như một yếu tố quan trọng tạo nên hình thức
của tác phẩm - một phương thức biểu đạt thông dụng mà văn học lựa chọn để phản ánh đời
sống.
Và không thể có trần thuật nếu không có người kể chuyện. Tz. Todorov đã tuyên bố
như sau: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng
tượng…Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [73; tr.116-117]. G.N. Pospelov
cũng khẳng định trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ: “Trần thuật tự sự bao giờ
cũng được tiến hành từ phía một người nào đó” [68; tr.88]. Đồng thời, Tz. Todorov cũng
chỉ ra rằng trần thuật chỉ bao gồm thành phần lời của tác giả, của người kể chuyện chứ
không bao gồm các lời nói trực tiếp của các nhân vật. Ông có viết như sau: “Người kể
chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng
thời trong mình cả nhân vật và người kể” [73; tr.116-117].
Cùng với những quan niệm trên, các tác giả trong cuốn Lý luận văn học (do Trần
Đình Sử chủ biên) đã xác định nhiệm vụ cụ thể của trần thuật là “cho người đọc biết ai, xuất
hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống nào…” [75; tr.100]. Có thể thấy, sức lôi
18


cuốn, hấp dẫn của tác phẩm tùy thuộc rất nhiều vào nghệ thuật trần thuật của mỗi nhà văn.
Để tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn cho tác phẩm thì nhiệm vụ của trần thuật là dẫn dắt người
đọc khám phá nhân vật, sự kiện xuất hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống
nào…
Trần thuật có nội hàm rất rộng và sống động. Trần thuật phải xử lí mối quan hệ giữa

chuỗi lời kể với chuỗi sự kiện và nhân vật. Như vậy có hai nhân tố quy định trần thuật:
người kể và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm
nhìn trần thuật. Từ chuỗi ngôn từ ta có thể kể đến các yếu tố: lược thuật, dựng cảnh, hồi
thuật, dự báo, gây đợi chờ, phân tích bình luận, giọng điệu. Thành phần trần thuật đầu tiên
là lời thuật, chức năng của nó là kể việc. Ngoài ra, trần thuật còn có cả việc miêu tả đối
tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời đánh giá, lời trữ tình ngoại đề, lời
ghi chú của tác giả.
Trần thuật gắn liền với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm. Bố cục và kết cấu
được hình thành với sự triển khai, đan cài, phối hợp, luân phiên, tương tác các “điểm nhìn”
(cũng gọi là “lập trường” hoặc “quan điểm”). Tính chất của trần thuật tùy thuộc vào tương
quan giữa tác giả và người trần thuật hoặc người kể chuyện; tùy thuộc vào sự đánh giá của
tác giả đối với các sự kiện được miêu tả.
Như vậy, quan niệm về trần thuật nhìn chung về cơ bản là thống nhất. Điều đó nói
rằng “trần thuật” nhìn từ góc độ khái niệm, là một thuật ngữ tương đối xác định về mặt nội
dung và tính chất. Từ những quan niệm đó, chúng ta có thể hiểu: Trần thuật là giới thiệu,
khái quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh… theo cái nhìn của một người
kể chuyện nhất định. Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật tức là chúng ta phát hiện “kỹ thuật” kể
của nhà văn. Trần thuật đóng vai trò không nhỏ trong việc soi sáng nội dung tư tưởng của
tác phẩm và thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn.
1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật
Nhà văn không thể trần thuật các sự kiện về đời sống nếu không xác định, lựa chọn
cho mình một điểm nhìn hợp lý đối với các sự vật hiện tượng: nhìn từ góc độ nào, xa hoặc
gần, từ bên trong ra hay từ bên ngoài vào... Bởi lẽ, điểm nhìn là một trong những yếu tố
quan trọng hàng đầu của sáng tạo nghệ thuật: “Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm
nhìn” [25; tr.113]. Có nghĩa là, không thể hiểu được sâu sắc tác phẩm nghệ thuật nếu ta
không tìm hiểu điểm nhìn trần thuật.
19


Thuật ngữ “điểm nhìn” hay gọi đầy đủ hơn là “điểm nhìn nghệ thuật” [73; tr.86] đã

trở nên quen thuộc trong nghiên cứu văn học và thi pháp học. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều nhà
nghiên cứu lỗi lạc đã sử dụng rất nhiều những thuật ngữ khác nhau để cùng nói về khái
niệm này. Chẳng hạn, với Henry James là “trung tâm của nhận thức” (centre of
consciousness) (1915); Percy Lubbock là “điểm nhìn” (point of view) (1928); Allen Tate là
“vị trí quan sát” (post of observation) (1940); Jean Pouillon là “tầm nhìn” (vision) (1946);
Cleanth Brooks và Robert Penn Warren là “tiêu điểm truyện kể” (focus of narrative) (1948);
Tzevan Todorov là “thể” (aspect) (1966); G. Genette là “tiêu cự, tiêu điểm” (focalization)
(1980), K. Wales là “phối cảnh” (perspective)...Khi Henry James trong Nghệ thuật văn
xuôi (1884) xác lập điểm nhìn chính là “mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành
vi mang tính bản thể hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” [74;
tr.135] thì đã đánh dấu một bước phát triển đáng kể trong nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện.
Có thể nhận ra việc nghiên cứu điểm nhìn có hệ thống, phức tạp và tinh vi. Đáng chú ý là
các công trình của P. Lubbock, G. Genette, B. Uspenski, W. Booth, R. scholes và R.
Kellogg, Iu. Lotman, S. Lanser. Một nhà nghiên cứu đã có những đóng góp khá công phu về
điểm nhìn cần phải kể đến đó là G. Genette. Ông gọi điểm nhìn là “tiêu điểm” (focalization).
Tiêu điểm theo quan niệm của G. Genette chính là vị trí của người trần thuật trong mối quan
hệ với câu chuyện mà anh ta kể lại. Theo R. Scholes và R. Kellogg vấn đề điểm nhìn được
xem xét như là “một trong những yếu tố quan trọng tạo dựng cấu trúc tác phẩm và xác lập
mô hình truyện kể” [74; tr.137-138]. W. Booth nhận định khái quát điểm nhìn là “vị trí của
người kể trong mối quan hệ với câu chuyện của anh ta” [74; tr.136]. W. Booth đã chú ý đến
vị trí, chỗ đứng, khoảng cách và theo ông “khoảng cách là một trong những yếu tố quan
trọng nhằm xác lập điểm nhìn” [74; tr.137]. G.N. Pospelov góp phần khẳng định thêm vai
trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự điều
quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm
nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [68; tr.90]. Còn với Iu.
Lotman thì điểm nhìn còn nhằm “cung cấp cho văn bản sự định hướng nhất định về chủ thể
của nó” [55; tr.43]. Điểm nhìn không chỉ cung cấp một phương diện giúp người đọc nhìn
sâu vào cấu tạo nghệ thuật của tác phẩm mà còn giúp nhận ra phong cách đặc trưng của nhà
văn.
Lý thuyết điểm nhìn được áp dụng trong nghiên cứu văn học khá phổ biến từ Tây sang

Đông. Ở Việt Nam, việc sử dụng lý thuyết Tự sự học nói chung và điểm nhìn nghệ thuật nói
20


riêng ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Trên cơ sở tìm hiểu một số tài liệu
nghiên cứu văn học, chúng tôi nhận thấy nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến điểm nhìn
như một yếu tố quan trọng hàng đầu của nghệ thuật tự sự. Khái niệm điểm nhìn được nghiên
cứu toàn diện và sâu sắc hơn khi nó gắn với ngôi kể (hay ngôi trần thuật) của người kể
chuyện.
Nhóm tác giả trong cuốn Lí luận văn học cho rằng: “Điểm nhìn thể hiện vị trí người
kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện” [75;
tr.104]. Như vậy, điểm nhìn liên quan chặt chẽ đến chỗ đứng, vị trí của nhà văn khi quan
sát, miêu tả, đánh giá, phản ánh hiện thực. Cùng một tình huống tương tự, nhưng nếu như
chỗ đứng của nhà văn theo xu hướng hướng ngoại sẽ khác với nhà văn theo xu hướng
hướng nội.
Cao Kim Lan xác định điểm nhìn chính là “một “mánh khóe” thuộc về kĩ thuật, một
phương tiện để chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất: sức quyến rũ của truyện
kể” [74; tr.135]. Với Cao Kim Lan thì kĩ thuật sử dụng điểm nhìn của người sáng tạo cũng
chỉ là hướng tới mục đích mê hoặc độc giả khám phá sức hấp dẫn của truyện. Còn Nguyễn
Thái Hoà trong Những vấn đề thi pháp của truyện thì khẳng định điểm nhìn là một yếu tố
thuộc về hình thức nghệ thuật chứ không bao hàm các quan điểm chính trị, xã hội của nhà
văn: “điểm nhìn không phải là lập trường chính trị xã hội mà là toạ độ thời gian được lựa
chọn cho hoạt động kể chuyện, phát triển nội dung, sắp xếp bố cục, hư cấu thành truyện”
[35; tr.122].
Bàn về mối liên hệ giữa điểm nhìn với kết cấu văn bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Hạnh và Huỳnh Như Phương có đưa ra nhận xét: “Sự trần thuật câu chuyện bao giờ cũng
được tiến hành từ một điểm nhìn nào đó. Kết cấu văn bản có liên quan mật thiết đến điểm
nhìn đó, nó liên kết ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ trực tiếp của các nhân vật trong
một mối thống nhất hỗ tương. Miêu tả mối quan hệ hỗ tương đó sẽ góp phần làm sáng tỏ kết
cấu ngôn từ của sự trần thuật” [26; tr.201]. Điều đó khẳng định rằng, điểm nhìn là yếu tố

quan trọng chi phối việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Chính L.I. Timofiev cũng từng đánh giá
hình tượng người kể chuyện “có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng tác
phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều
xuất phát từ cá nhân người kể” [74; tr.204]. Điểm nhìn cho phép người kể chuyện soi sáng
diễn biến câu chuyện, mối quan hệ giữa các nhân vật trong những phối cảnh được xem là
hợp lý nhất. Song điểm nhìn “là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật chứ không phải
21


là bản thân cấu trúc đó” [73; tr.94]. Bởi lẽ, cấu trúc nghệ thuật của một tác phẩm là những
quan hệ của các yếu tố nghệ thuật không đổi được lựa chọn để đưa vào tác phẩm. Và điểm
nhìn nghệ thuật chiếu cái nhìn vào các yếu tố đó, thêm bớt, nhấn mạnh nhằm đáp ứng yêu
cầu của người tiếp nhận. Việc tạo dựng, xác lập mô hình cấu trúc tác phẩm phụ thuộc vào
yếu tố quan trọng này.
Một điều dễ nhận thấy là hầu hết những nghiên cứu về điểm nhìn đều chú trọng vào
người kể chuyện và phân loại thành nhiều kiểu người kể chuyện, chẳng hạn như kiểu người
kể chuyện “ngôi thứ nhất” hoặc “ngôi thứ ba”, người kể chuyện toàn tri hoặc toàn tri một
phần hoặc có giới hạn, người kể chuyện theo điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài, người kể
chuyện kịch hóa hoặc phi kịch hóa, người kể chuyện là các nhân vật trong truyện hoặc là
không. P. Lubbock là một trong những người đầu tiên chỉ ra mối lên quan giữa người kể
chuyện và điểm nhìn. Ông viết: “Tôi cho rằng toàn bộ vấn đề rắc rối về phương pháp trong
nghệ thuật sáng tác phụ thuộc vào vấn đề “điểm nhìn” – vấn đề thái độ của người kể
chuyện với việc trần thuật” [73; tr.118]. Điểm nhìn cùng với ngôi kể và lời kể là các yếu tố
quan trọng giúp nhận diện người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Điểm nhìn trần thuật gắn
bó mật thiết với ngôi kể, nhưng rộng hơn ngôi kể. Việc gắn kết vấn đề điểm nhìn với vấn đề
người kể chuyện là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, người kể chuyện là một hình thức thể hiện
quan điểm của tác giả trong tác phẩm. Nhà nghiên cứu M. Bakhtin nhấn mạnh về mối quan
hệ này như sau: “vấn đề người kể chuyện và “điểm nhìn” của anh ta cần phải được xem xét
trong mối quan hệ mật thiết với vấn đề tác giả, bởi “ta đoán định âm sắc tác giả qua đối
tượng của câu chuyện kể, cũng như qua chính câu chuyện và hình tượng người kể chuyện

bộc lộ trong quá trình kể” [73; tr.119]. Song quan điểm của tác giả chỉ có thể được thể hiện
qua điểm nhìn của người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều tồn tại độc lập. Như thế,
điểm nhìn và người kể chuyện trở thành hai phương diện không thể tách rời. Truyện bao giờ
cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể chuyện nào đó. Thêm vào đó,
điểm nhìn trở thành cơ sở để phân biệt người kể chuyện và tác giả. Người kể chuyện có thể
mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể và không có
vai trò đáng kể trong việc tổ chức truyện.
Theo Hoàng Ngọc Hiến: “Việc tác giả chọn quan điểm từ đó câu chuyện được kể cũng
giống như nhà thơ chọn tiết điệu, thể thơ tự do hay thơ không vần, sự lựa chọn này sẽ góp
phần vào hiệu quả tổng thể mà câu chuyện sẽ có” [29; tr.34-35]. Vì thế, việc chọn điểm
nhìn và tổ chức điểm nhìn để trần thuật trong tác phẩm tự sự có vai trò quyết định quan
22


trọng đến sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Việc tổ chức điểm nhìn trần thuật bao
giờ cũng mang tính sáng tạo cao độ. Cách vận dụng sáng tạo, linh hoạt các điểm nhìn trần
thuật góp phần tạo nên sự phong phú, lôi cuốn cho tác phẩm văn học. Nhà văn phải lựa chọn
cho mình một chỗ đứng hay vị trí thích hợp để xác lập cho người kể một điểm nhìn trần
thuật để từ đó câu chuyện được bắt đầu. Ngoài ra, điểm nhìn trần thuật là yếu tố đầu tiên
đưa người đọc đi vào thế giới của tác phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách của nhà văn.
Thuật ngữ “điểm nhìn” được các nhà nghiên cứu gọi với những cách khác nhau, và dù
gọi với thuật ngữ nào cũng đều chỉ vị trí, chỗ đứng của người kể chuyện trong tác phẩm.
Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất cách gọi là điểm nhìn.
Như vậy, từ những quan niệm trên có thể hiểu một cách đơn giản nhất: Điểm nhìn trần
thuật là vị trí mà người trần thuật dựa vào để quan sát, đánh giá các sự kiện, tình tiết trong
tác phẩm, bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện tâm lý, văn
hóa, chính trị và xã hội. Điểm nhìn quy định và chi phối các thành tố khác của nghệ thuật
trần thuật như: đối tượng trần thuật, thời gian trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…Thông qua
điểm nhìn, người đọc có thể xác định tư tưởng, thế giới quan của nhà văn: “Có thể nói rằng,
chính điểm nhìn trần thuật của nhà văn trong tác phẩm là một phương tiện thể hiện đắc lực

tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của tác giả. Sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật của nhà văn
quyết định một phần lớn giọng điệu, sắc thái thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật của tác phẩm” [95;
tr.128]. Điều đó có nghĩa là điểm nhìn trần thuật bao giờ cũng là sự cụ thể hóa các quan
niệm của nhà văn trong những tình huống nhất định; giúp cho độc giả có cái nhìn đúng đắn
và đánh giá khách quan chủ đề, tư tưởng tác phẩm.
1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật
Có nhiều cách để phân loại điểm nhìn trần thuật. Trên thực tế, mỗi nhà nghiên cứu có
một cách phân loại riêng dựa vào những tiêu chí phân loại khác nhau. Nhìn chung bất cứ sự
phân loại nào cũng là cách tiếp cận nghệ thuật, bộc lộ khả năng cảm thụ văn học. Sau đây là
một vài cách phân loại của một số nhà lý luận, phê bình văn học tiêu biểu:
Nhà tự sự học nổi tiếng G. Genette dùng thuật ngữ “tiêu điểm” thay cho “điểm
nhìn”. Ông chia tiêu điểm trần thuật thành ba loại:
+ Phi tiêu điểm (hay vô tiêu điểm): nhân vật trần thuật đứng bên ngoài, nhưng có vai
trò như thượng đế biết hết mọi chuyện nhân sinh, quá khứ, hiện tại, tương lai.

23


×