Tải bản đầy đủ (.pdf) (217 trang)

đặc điểm tục ngữ khmer đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 217 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

Dư Thị Si Tha

ĐẶC ĐIỂM TỤC NGỮ KHMER
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

Dư Thị Si Tha

ĐẶC ĐIỂM TỤC NGỮ KHMER
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới cô giáo, TS. Nguyễn Thị Ngọc
Điệp, khoa Ngữ Văn Trường ĐHSP Tp.HCM. Cô rất có trách nhiệm trong vai trò người
hướng dẫn, cô rất nhiệt tình và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi trân trọng cảm ơn
các thầy cô Thư viện và phòng Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các vị Achar, các vị chức sắc tôn giáo ở một số chùa
trong tỉnh Cà Mau, cùng cán bộ viên chức, các vị hưu trí, bà con nông dân, các em học sinh
ở hai tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu; đặc biệt
trong chuyến sưu tầm điền dã.
Cuối cùng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình và
bạn bè, những người luôn bên tôi, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 10 năm 2013
Tác giả
Dư Thị Si Tha

1


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐHKH XH NV: Đại học khoa học xã hội nhân văn
Nxb: Nhà xuất bản
VHDG: Văn học dân gian
Tp. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
ĐHQG: Đại học Quốc Gia

2



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
QUY ƯỚC VIẾT TẮT ................................................................................................ 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................6
3. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................7
4. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................8
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn ....................................................................................................9

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC VÀ TỤC NGỮ KHMER ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG ...................................................................................... 11
1.1. Khái quát về dân tộc Khmer ở ĐBSCL ...................................................................11
1.1.1. Sự hình thành tộc người ........................................................................................11
1.1.2. Đặc điểm cư trú, sản xuất và hình thái xã hội ......................................................12

1.1.3. Tín ngưỡng, tôn giáo.............................................................................................13
1.1.4. Lễ hội ....................................................................................................................16
1.1.5. Phong tục – tập quán .............................................................................................18
1.1.6. Văn học dân gian ..................................................................................................20
1.2. Giới thiệu chung về tục ngữ Khmer ĐBSCL ..........................................................23
1.2.1. Khái niệm tục ngữ .................................................................................................23
1.2.2. Tục ngữ Khmer ĐBSCL .......................................................................................24

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TỤC NGỮ KHMER ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG ................................................................................................... 37
2.1. Những nội dung tiêu biểu của tục ngữ Khmer .......................................................37
2.1.1. Đúc kết kinh nghiệm về sản xuất, các hiện tượng tự nhiên (45/920, tỉ lệ: 4,89 %)
.........................................................................................................................................37
2.1.2. Thể hiện các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ, xã hội của người Khmer
ĐBSCL ............................................................................................................................39
2.1.3. Thể hiện sự gắn bó của người Khmer với chùa chiền (9/920, tỉ lệ: 0,97%) .........46
2.1.4. Quan niệm của người Khmer về các khía cạnh của cuộc sống ............................48
2.1.5. Những kinh nghiệm trong ứng xử của người Khmer ...........................................52
3


2.2. Nhận xét về nội dung của tục ngữ Khmer ĐBSCL ................................................56

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TỤC NGỮ KHMER ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG ...................................................................................... 62
3.1. Khái quát về chữ viết tiếng Khmer ĐBSCL ...........................................................63
3.2. Vần trong tục ngữ Khmer.........................................................................................64
3.2.1. Khái niệm về vần ..................................................................................................64
3.2.2. Đặc điểm của vần trong tục ngữ Khmer ...............................................................65
3.2.3. Các kiểu hiệp vần trong tục ngữ Khmer ...............................................................66
3.3. Nhịp trong tục ngữ Khmer ĐBSCL .........................................................................74
3.4. Những cách tu từ trong tục ngữ Khmer ĐBSCL ...................................................76
3.4.1. Điệp từ ngữ (235/920, tỉ lệ: 25,54%). ...................................................................76
3.4.2. Nói quá (11/920, tỉ lệ: 1,19%) ..............................................................................79
3.4.3. So sánh (88/920, tỉ lệ: 9,56%)...............................................................................80
3.4.4. Ẩn dụ (96/920, tỉ lệ: 10,43%) ...............................................................................83
3.4.5. Hoán dụ (6/920, tỉ lệ: 0,65%) ...............................................................................87
3.5. Kết cấu của tục ngữ Khmer ĐBSCL .......................................................................88
3.5.1. Kết cấu logic .........................................................................................................89

3.5.2. Kết cấu so sánh .....................................................................................................94

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 101
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 105

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đến với ĐBSCL, một vùng đất còn khá trẻ về thời gian khai phá, chúng ta sẽ thấy mối
tình đoàn kết, gắn bó của bốn dân tộc anh em: Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Có thể nói, đồng
bào Khmer là một trong những dân tộc lập cư rất sớm tại vùng đất này (từ thế kỷ XIII). Đây
là dân tộc có dân số trên một triệu người (Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số năm
1999) và có vị trí đặc biệt trong bức tranh tổng thể các dân tộc Việt Nam. Điểm nổi bật nhất
trong đóng góp của đồng bào Khmer trước hết phải kể đến vốn văn hóa vô cùng phong phú,
đa dạng. Có lẽ người Khmer là một trong những dân tộc có một số lượng lễ hội khá nhiều
trên đất nước Việt Nam. Ngoài các lễ hội chính như Chôl Chnăm Thmây (Lễ mừng năm
mới); Ok Ombok, lễ Sen Đôlta, đồng bào Khmer còn có một lọat các lễ hội khác như lễ hội
đua ghe ngo, lễ mừng tuổi, lễ đắp núi cát, lễ cầu an…Bên cạnh các lễ hội, đồng bào Khmer
còn có những loại hình sân khấu rất độc đáo: Dù kê và Rôbăm. Sự góp mặt của nền văn hóa
Khmer đã làm cho bức tranh văn hóa Việt Nam thêm đa dạng về loại hình và phong phú
hơn về sắc màu trong khu vườn nghệ thuật nhân loại.
VHDG Khmer cũng vô cùng đặc sắc. Dân tộc Khmer tuy có chữ rất sớm nhưng đại bộ
phận người dân lại thích sáng tác và lưu truyền những câu ca dao, tục ngữ, những câu truyện
cổ bằng con đường truyền miệng. VHDG “là một phần không thể thiếu được trong đời sống
tinh thần, trong lao động sản xuất, trong các họat động hội hè, cúng lễ ở các phum sóc.
Chúng đã, đang và sẽ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa, tâm linh của người
Khmer” [33,1]. Với sự phong phú và đa dạng về thể loại cũng như nội dung, VHDG Khmer

đã góp phần rất lớn vào kho tàng VHDG của cả nước nói chung. Tuy nhiên, có một thực
trạng đáng buồn là, đại đa số những tác phẩm VHDG của người Khmer nói chung, bộ phận
tục ngữ nói riêng chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo ở góc độ là một đối tượng độc
lập và cả góc độ là những thành tố trong mối liên hệ với VHDG. Bằng chứng là cho tới nay,
về tục ngữ chúng tôi chỉ ghi nhận được một công trình mang tính chất sưu tầm, đó là
“Thành ngữ và tục ngữ Khmer” của Sơn Phước Hoan vào năm 1998. Đối với một kho tàng
VHDG phong phú như thế, chúng tôi thiết nghĩ một vài công trình nghiên cứu thôi thì chưa
đủ. Vì thế khi chọn đề tài “Đặc điểm tục ngữ Khmer Đồng bằng sông Cửu Long”, chúng
tôi hi vọng sẽ bổ sung được phần khiếm khuyết đó khi nghiên cứu tục ngữ của dân tộc
mình.
5


Là người thuộc thế hệ đi sau, chúng tôi hiểu được tầm quan trọng của vốn văn hóa mà
các thế hệ người Khmer đã lưu truyền lại. Hơn nữa, chúng tôi rất tự hào là con dân của dân
tộc Khmer. Vì thế khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi còn mong rằng có thể góp phần giới
thiệu những cái hay cái đẹp mà các bậc tiền nhân để lại trong tục ngữ.

2. Lịch sử vấn đề
Ở nước ta mãi đến những năm 50 của thế kỉ XX mới xuất hiện những công trình nghiên
cứu về người Khmer cũng như bộ phận VHDG của họ.Tuy nhiên do một số nguyên nhân
nên việc sưu tầm và nghiên cứu các thể loại VHDG của người Khmer còn rất ít so với số
lượng phong phú vốn có của nó. Ở đây chúng tôi điểm qua một số công trình về tục ngữ
Khmer.
- Năm 1998, có công trình “Sưu tầm và biên soạn về thành ngữ và tục ngữ Khmer”, của
Sơn Phước Hoan do Nxb Giáo dục phát hành. Với cuốn sách này, tác giả đã kết hợp được
các tài liệu từ sưu tầm điền dã với các tài liệu đã công bố từ trước ở cả Việt Nam và
Campuchia. Trên cơ sở những tư liệu ấy, tác giả đã cung cấp một bản song ngữ đầu tiên về
thành ngữ, tục ngữ Khmer với số lượng phong phú, gồm có 629 câu. Trong sưu tập này, tác
giả đã xếp thành ngữ và tục ngữ theo ba chủ đề (1. Tục ngữ nói về lao động và quan hệ với

thiên nhiên; 2. Tục ngữ nói về quan hệ trong gia đình và họ hàng; 3. Tục ngữ nói về cách
ứng xử và kinh nghiệm sống). Tác giả nhận xét về mặt hình thức, tục ngữ Khmer thường
dùng các từ thuần tiếng Khmer gắn với ngôn ngữ nói hàng ngày. Bên cạnh đó, tác giả cũng
giới thiệu sơ lược (vài đơn vị tục ngữ) về nghĩa của tục ngữ (Mỗi câu tục ngữ thường có từ
hai nghĩa trở lên, nghĩa đen, nghĩa bóng; nghĩa gốc, nghĩa phái sinh…); sau cùng tác giả
giới thiệu vài nét khái lược về hiệp vần, ngắt nhịp; về đối ý, đối từ và các biện pháp tu từ
khác…
- Năm 2002, công trình “VHDG Sóc Trăng” do Chu Xuân Diên chủ biên, được Nxb Tp.
HCM phát hành. Đây là công trình của tập thể cán bộ và sinh viên Khoa Ngữ văn và Báo
chí trường ĐHKH XH-NV là kết quả của chuyến điền dã kéo dài ba năm tại Sóc Trăng
(1999-2000). Đây là một công trình có quy mô khi được tiến hành sưu tầm trên một diện
rộng (25 xã và 4 thị trấn). Trong tập sách này, các tác giả đã sưu tầm và biên sọan tục ngữ
Khmer theo ba chủ đề (1. Giới tự nhiên; 2. Con người, đời sống xã hội; 3.Con người, đời
sống tinh thần, nhân sinh quan), mỗi chủ đề phân thành các tiểu chủ đề, bao gồm: 575 câu
tục ngữ.
6


- Năm 2011, thầy và trò trường ĐHKH XH-NV lại tiến hành thêm một chuyến điền dã về
Bạc Liêu để điều tra, sưu tầm về vốn VHDG ở địa phương này. Với kết quả thu được,
trường ĐHKH XH-NV đã cho ra đời một công trình lớn thứ hai về VHDG ở ĐBSCL, đó là
cuốn “VHDG Bạc Liêu” do Chu Xuân Diên chủ biên. Các tác giả đã sưu tầm và biên soạn
tục ngữ Khmer theo hai chủ đề (1. Con người, đời sống xã hội; 2. Con người, đời sống tinh
thần, nhân sinh quan), gồm có 84 câu.
- Năm 2006, có công trình “Một số câu tục ngữ, ca dao tiếng Khmer – Việt có nội dung
gần giống nhau” của Trần Thanh Pôn (chủ biên) do Nxb Văn hóa dân tộc phát hành. Với
công trình này, tác giả đã sắp xếp tục ngữ theo trật tự chữ cái, chứ không xếp theo chủ đề,
gồm có 269 câu.Trước hết tác giả muốn giúp cho cán bộ viên chức của dân tộc Khmer có tư
liệu sử dụng trong công tác của mỗi người; đồng thời cũng giúp thêm cho những ai yêu
thích sử dụng tục ngữ ca dao Khmer – Việt trong giao tiếp. Bên cạnh đó, người đọc còn biết

được phong tục tập quán, quan hệ tình làng nghĩa xóm, ứng xử đối với người thân, bạn bè
và những kinh nghiệm khác trong cuộc sống.
Qua những công trình trên, chúng tôi nhận thấy phần lớn chỉ dừng lại ở mức độ sưu tầm
và giới thiệu tới độc giả những câu tục ngữ thông dụng. Còn thực sự đi sâu nghiên cứu về
tục ngữ Khmer thì các công trình trên chưa đáp ứng được. Song các văn bản tục ngữ đó
được xem là một kho tài liệu quý báu để chúng tôi thực hiện đề tài này.

3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: thống kê các câu tục ngữ người viết thu thập được từ sưu tầm
điền dã và các câu đã được công bố trên văn bản trước đây. Phương pháp này giúp cho
người nghiên cứu có đủ nguồn tài liệu để khảo sát, cũng như cho thấy giá trị thực tiễn, phổ
quát của đề tài.
- Phương pháp phân tích: tiến hành phân tích từng khía cạnh của nội dung. Tuy nhiên có
sự chọn lọc nội dung tiêu biểu, nổi bật của tục ngữ Khmer. Về đặc điểm nghệ thuật, chúng
tôi cũng có sàng lọc những yếu tố nghệ thuật đặc sắc mới tiến hành phân tích. Sau đó, rút ra
kết luận khái quát ở mỗi phần đã trình bày.
- Phương pháp khái quát tổng hợp: dựa trên cơ sở của phân tích để tổng hợp, khái quát về
đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật của tục ngữ. Phương pháp này nhằm giúp chúng tôi
có cái nhìn tổng thể về diện mạo của tục ngữ Khmer.

7


- Phương pháp so sánh: chúng tôi sẽ có sự so sánh trong khả năng có thể giữa tục ngữ của
người Việt và tục ngữ người Khmer về nội dung và nghệ thuật. Phương pháp này nhằm cho
thấy những nét tương đồng và dị biệt của hai nguồn tục ngữ trên.
- Phương pháp liên ngành: sử dụng những thành tựu nghiên cứu của văn hóa học, xã hội
học, dân tộc học,…trong việc phân tích, lý giải tục ngữ Khmer. Do vậy, phương pháp này
được xem như là một phương pháp hỗ trợ đắc lực cho việc nghiên cứu. Bởi vì văn hóa là cái
nôi sản sinh cũng như nuôi dưỡng như tục ngữ.

- Phương pháp điều tra, sưu tầm điền dã: chúng tôi trực tiếp đến từng hộ gia đình gặp gỡ,
trình bày về việc tìm hiểu và sưu tầm tục ngữ. Mục đích của phương pháp này nhằm thu
thập số lượng tục ngữ hiện nay người dân đang sử dụng (số lượng tục ngữ được sử dụng
nhiều hay ít? thường sử dụng trong những trường hợp nào?…), nắm thêm thông tin về đối
tượng sử dụng tục ngữ và thấy được vai trò, tầm quan trọng của tục ngữ trong đời sống.
Chúng tôi đã thực hiện công tác điền dã ở một số vùng của ĐBSCL như Sóc Trăng, Bạc
liêu, Cà Mau.

4. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Đặc điểm tục ngữ Khmer Đồng bằng sông Cửu Long”, luận văn đặt ra
những mục đích nghiên cứu sau:
1. Giới thiệu diện mạo tục ngữ Khmer (tình hình văn bản, thực tế tồn tại trong đời sống,
số lượng câu…)
2. Nghiên cứu chi tiết về đặc điểm nội dung và nghệ thuật tục ngữ Khmer ĐBSCL.
3. Trên cơ sở so sánh tục ngữ Khmer ĐBSCL và tục ngữ Việt, cố gắng chỉ ra những nét
tương đồng và khác biệt trong chừng mực và điều kiện cho phép.
4. Sưu tầm và giới thiệu các đơn vị tục ngữ Khmer (trong khả năng có thể).

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi khảo sát tục ngữ chủ yếu trên những nguồn tài liệu đã có sẵn.
Đó là những câu tục ngữ đã được sưu tầm và tuyển chọn trong các công trình sau:
- “Thành ngữ và tục ngữ Khmer” do Sơn Phước Hoan sưu tầm và biên sọan, Nxb Giáo
dục - 1998.
- VHDG Sóc Trăng của Chu Xuân Diên, Nxb Tp.HCM – 2002 và VHDG Bạc Liêu của
Chu Xuân Diên, Nxb ĐHQG Hà Nội – 2011.
8


- Ngoài ra, chúng tôi cũng kết hợp khảo sát nguồn tục ngữ Khmer sưu tầm điền dã được
ở Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, gồm có: 351 câu tục ngữ.

Do đặc trưng ngôn ngữ và chữ viết của Campuchia và người Khmer ở ĐBSCL giống
nhau nên trong quá trình nghiên cứu sẽ có sự giao thoa giữa hai phạm vi ấy. Nhưng chúng
tôi chỉ nghiên cứu tục ngữ của Khmer ở ĐBSCL, nếu trong quá trình khảo sát xuất hiện nét
giống nhau thì đó chính là những phần tương đồng giữa hai nguồn tục ngữ. Trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi cũng có tham khảo tài liệu của ông Lý Thái Ly, đó là: “Từ điển thành
ngữ, tục ngữ Khmer” do Lý Thái Ly biên sọan (tập 1), Nxb Campuchia, 2007.

6. Đóng góp của luận văn
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tục ngữ Khmer ĐBSCL về đặc điểm nội dung và
nghệ thuật, luận văn sẽ có những đóng góp sau:
- Nghiên cứu, phân tích về đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tục ngữ người Khmer
ĐBSCL, chúng tôi sẽ cố gắng góp thêm một ít công sức để có thể tiếp tục hoàn thiện diện
mạo VHDG Khmer ở vùng sông nước phương Nam.
- Bước đầu chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt giữa tục ngữ Khmer và tục ngữ Việt.
- Sưu tầm, giới thiệu hệ thống tục ngữ Khmer.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính gồm có các chương mục sau:
Chương 1: Khái quát về dân tộc và tục ngữ Khmer ĐBSCL
Trong chương 1, chúng tôi sẽ trình bày khái quát về dân tộc Khmer về sự hình thành tộc
người, đặc điểm cư trú. Chúng tôi tập trung trình bày về tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội; phong
tục tập quán và VHDG Khmer. Sau cùng chúng tôi giới thiệu khái quát về tục ngữ nói
chung và tục ngữ Khmer ĐBSCL nói riêng. Chương 1 là cơ sở, nền tảng cho các chương
sau.
Chương 2: Đặc điểm nội dung của tục ngữ Khmer ĐBSCL
Ở chương 2, chúng tôi trình bày những nội dung tiêu biểu của tục ngữ Khmer ĐBSCL về
kinh nghiệm về sản xuất, các hiện tượng trong tự nhiên. Trong chương này, chúng tôi trình
bày các mối quan hệ trong gia đình, dòng họ, xã hội và mối quan hệ với chùa chiền; đồng
thời các nội dung khác như quan niệm và kinh nghiệm khác trong cuộc sống.
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ Khmer ĐBSCL

9


Chúng tôi trình bày khái quát về chữ viết tiếng Khmer (cơ sở để khảo sát hiệp vần trong
tục ngữ). Tiếp theo, chúng tôi khảo sát các kiểu hiệp vần như vần liền và vần cách, vần tuyệt
và vần tương đối.Tiếp đến, chúng tôi trình bày các biện pháp tu từ (điệp từ ngữ, nói quá, so
sánh, ẩn dụ và hoán dụ). Sau cùng chúng tôi khảo sát kết cấu tục ngữ.

10


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC VÀ TỤC NGỮ KHMER
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.1. Khái quát về dân tộc Khmer ở ĐBSCL
1.1.1. Sự hình thành tộc người
Người Khmer ở ĐBSCL và người Khmer Campuchia là cùng một nguồn gốc chủng tộc,
nhưng do biến động của lịch sử, từ lâu họ đã là những tộc người của hai quốc gia. Có nhiều
tài liệu nói về nguồn gốc của tộc người Khmer ở ĐBSCL, trong đó, có hai nguồn tài liệu là
của tác giả Lê Hương với “Người Việt gốc Miên”, Nxb Sài Gòn - 1969 và Trường Lưu với
“Văn hóa người Khmer vùng ĐBSCL, Nxb Văn hóa dân tộc - 1993. Hai tác giả này cùng
ghi nhận rằng: người Khmer ở ĐBSCL đã trải qua các chặng đường lịch sử như sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Người Khmer ở ĐBSCL và người Khmer
Campuchia cùng chung sống trong cộng đồng vương quốc Phù Nam (từ thế kỷ I đến thế kỷ
thứ V).
- Giai đoạn thứ hai: Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ XVIII, người Khmer ĐBSCL và
người Khmer Campuchia cùng chung sống trong cộng đồng Chenla (Campuchia hoặc Chân
Lạp).
Có lẽ, cách phân chia như trên chỉ mang tính chất tương đối. Cuộc sống có nhiều biến
động thì bắt buộc con người phải tìm cách sinh tồn, nên sự di dân (lúc đầu tạm thời và lâu
dần chuyển sang cố định) từ quốc gia này sang quốc gia kia cũng là lẽ đương nhiên. Và đấy

chính là trường hợp của ĐBSCL.
Tây Nam Bộ hay còn gọi là ĐBSCL trước kia có các tên gọi như “Thủy chân lạp” (từ thế
kỷ I đến thế kỷ thứ VIII), “Miền Nam Việt Nam” (năm 1658 đến 1867), “Nam Kỳ” ( từ
1868 đến 1954) [31, 25], là vùng đất chịu nhiều đau thương tang tóc, là vùng đất chứng kiến
bao cuộc bể dâu, và cũng là miền cuối trời Nam hứng chịu nhiều mưa bom lửa đạn của
chiến tranh. Vậy nên, các thế hệ người Khmer ở đấy cũng nếm trải biết bao biến động, thăng
trầm của thời đại. Họ chịu nhiều đắng cay, khổ cực của cuộc sống. Điều dễ dàng nhận ra do
đâu mà họ vẫn lạc quan vẫn bám đất và phum sóc của mình, đó là nhờ họ có niềm tin vững
bền vào chân lý cuộc đời “ở hiền gặp lành” hoặc “hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai”. Mặt khác,
còn nhờ vào sức mạnh của Phật pháp đã giúp cho người Khmer ĐBSCL có thêm niềm tin,
nghị lực trong cuộc sống . Họ tiếp tục dâng cho đời những hoa thơm, quả ngọt.
11


Từ thế kỷ XIX đến nay, tuy sống ở mỗi quốc gia riêng biệt nhưng người Khmer ĐBSCL
và người Khmer Campuchia vẫn có sự giao lưu qua lại trên nhiều lĩnh vực trong đời sống.
Sự giao lưu đó diễn ra theo cả hai chiều: nông dân Khmer, sau khi định cư lại Campuchia,
đã đem vào môi trường mới một số kỹ thuật canh tác của ĐBSCL, cả hình thức ca kịch Dù
kê, vốn có nguồn gốc từ ĐBSCL. Ngược lại, Campuchia truyền về cho ĐBSCL điệu múa
cung đình, Lâm Thôn. Ngoài ra, các sách xuất bản tại Campuchia như sách tôn giáo, tiểu
thuyết lãng mạn, phim ảnh, ca khúc mới... cũng được truyền bá trong đời sống của người
Khmer ĐBSCL.
Trong cuốn “Vấn đề dân tộc ở ĐBSCL” do Mạc Đường chủ biên cũng ghi nhận rằng:
người Khmer ở ĐBSCL và người Khmer Campuchia cùng chung một chủng tộc. Từ thế kỷ
XV trở đi, đế chế Angkor sụp đổ người dân Campuchia rơi vào cảnh nghèo đói và bị đàn áp
nặng nề bởi bọn phong kiến Thái Lan. Vì vậy, những người Khmer yêu nước đứng lên
chống phong kiến Thái Lan đã xuôi theo dòng sông Cửu Long đến với ĐBSCL khai khẩn
đất hoang và định cư lâu dài. “Cho đến trước thế kỷ XVII, người Khmer là thành phần cư
dân duy nhất tồn tại ở ĐBSCL. Họ sống khu biệt và không có mối quan hệ hành chính với
bất cứ một quốc gia nào thời đó” [16, 30].

Như vậy, người Khmer ở ĐBSCL với người Khmer ở Campuchia là những người đồng
tộc có chung lịch sử, tiếng nói, tôn giáo. Nhưng do sống tách biệt lâu dài với người Khmer ở
Campuchia, người Khmer ở ĐBSCL có những đặc điểm riêng về cư trú, kinh tế, văn hóa, xã
hội.
Sống trong cùng lãnh thổ với người Việt nhưng người Khmer ĐBSCL có tập quán cư trú,
sản xuất riêng không lẫn với các dân tộc khác. Điều đó được thể hiện qua đặc điểm tâm lý
và quan điểm về môi trường thiên nhiên, xã hội của họ quy định.
1.1.2. Đặc điểm cư trú, sản xuất và hình thái xã hội
Về nơi cư trú, người Khmer thường chọn vùng đất cao để định cư, cất nhà. Người Khmer
không thể trụ được ở vùng đất thấp. Họ tìm những nơi cao ráo trên những giồng, gò nhằm
chống chọi với nắng, gió phương Nam. Về nhà ở, họ chọn hình thức cất nhà trên mặt sàn
được kê trên những đầu trụ cột, vừa tránh lũ của sông Mêkông chảy về, vừa tránh thú dữ ở
những vùng cây cối rậm rạp.
Người Khmer ĐBSCL sống chủ yếu bằng nghề ruộng rẫy, một số ít làm nghề thủ công,
buôn bán hoặc làm các ngành nghề khác như: công nhân, viên chức, giáo viên, nghệ sĩ.v.v.
12


ở các cơ quan, chính quyền, đoàn thể. Người Khmer lập cư rất sớm trên ĐBSCL. Từ xa xưa,
họ đã biết trồng lúa nước, chẳng hạn như: ở gần sông rạch, họ biết lợi dụng thủy triều để rửa
phèn cho ruộng; ở xa sông rạch, họ đắp bờ thành ô để giữ nước mưa khi cần thì tát nước vào
ô bằng gầu dai, gầu sòng.
Người Khmer ở ĐBSCL cư trú thành những cụm rời rạc, nhỏ là một ấp, lớn là vài xã xen
kẽ với các xã, ấp của người Việt và Hoa. Họ sống tập trung ở một số tỉnh như Trà Vinh, Sóc
Trăng, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Theo số liệu của Vụ địa
phương III - Ủy ban Dân tộc, năm 2009, “tổng số dân Khmer ở ĐBSCL là 1.162.695 người
gồm: Trà Vinh 304.848 người, Sóc Trăng: 373.595 người, Vĩnh Long: 21.820 người, Bạc
Liêu: 67.535 người, An Giang: 90.271 người, Kiên Giang: 214.979 người, Hậu Giang:
26.992 người, Cà Mau: 40.012 người, thành phố Cần Thơ: 22.646 người” [18, 8].
Về hình thái xã hội, người Khmer ở ĐBSCL có tập quán hợp nhau lại thành những tập

thể xóm nhỏ, mỗi tập thể định cư trên một địa điểm bám sát nơi trồng trọt và làm ruộng gọi
là “phum”. Đơn vị cao hơn phum, và bao gồm nhiều phum gọi là “Srok” (sóc). Trong quá
trình cùng cư trú với người Việt, đôi khi có sự đồng nhất qua lại, chẳng hạn: có lúc người ta
đồng nhất phum Khmer với ấp của người Việt, và sóc với xã; ngược lại, người Việt chung
sống với người Khmer lại Việt hóa từ Khmer “phum srok” thành “phum sóc”, để chỉ nơi cư
trú của người Khmer. Dù sống xen kẽ với tộc người khác, có quan hệ qua lại với người Việt
và người Hoa trong nhiều thế kỷ, nhưng nhờ khuôn khổ phum sóc, từng người Khmer đã
sinh ra, lớn lên, làm ăn, hoạt động trong khung văn hóa tộc người của mình.
Người Khmer có tập quán hợp tác lao động “yook đai” (vần công đổi công) và có nhiều
lễ nghi trong nông nghiệp, nhằm cầu nguyện cho mùa mưa mau tới, cho các vụ lúa bội thu.
1.1.3. Tín ngưỡng, tôn giáo
Lịch sử phát triển của chế độ phong kiến Khmer ở Campuchia diễn ra đồng thời với việc
du nhập các trào lưu văn hóa, tôn giáo Ấn Độ. Người Khmer Campuchia cũng như người
Khmer ở ĐBSCL đã tôn thờ các vị thần Bà La Môn trước khi theo Phật giáo như ngày nay.
Hiện nay, những ảnh hưởng của Bà La Môn vẫn còn tồn tại trong đời sống của người
Khmer: phong tục thờ cúng, cưới hỏi, tang ma,.. và trong các dịp lễ, tết.
Do cuộc sống xưa kia hoang vu tiềm ẩn nhiều thế lực siêu nhiên còn nhiều điều chưa thể
lý giải nên người Khmer tìm đến các lực lượng thần linh. Trong đời sống hằng ngày của họ,
các vị thần ấy có vai trò như là những đấng cứu tinh, có vị trí độc tôn và không thể thay thế.
13


Từ thời khai thiên lập địa đến nay, tín ngưỡng dân gian có vai trò rất quan trọng trong đời
sống cộng đồng Khmer ĐBSCL. Một trong những tín ngưỡng còn lưu lại là sự thờ cúng ông
Tà (Neak Tà). Người Khmer ở ĐBSCL thờ ông Tà như là một vị thần nhưng căn cứ vào
nhiều nguồn gốc hơn.
Trước hết ông Tà là vị thần của tạo vật mà người ta thấy nhiều ở các miếu thờ, chẳng
hạn: Neak Tà Tức (Thần Nước), Neak Tà Phnum (Thần Núi), Neak Tà Prey (Thần Rừng),
Neak Tà Srê (Thần Ruộng), Neak Tà Prek (Thần Sông), Neak Tà Đam Pô (ông Tà Cây đa),
Neak Tà Popus (ông Tà Bọt nước), Neak Tà Krepoum Chhuk (ông Tà Gương sen). Ngoài

ra, người Khmer còn có Neak Tà thuộc địa thế (trần thế) và Neak Tà thuộc sự tích địa
phương như: Neak Tà Bến đò, Neak Tà Bãi Xàu, Neak Tà Xóm, Neak Tà Chùa,... [1, 74].
Tiếp theo là sự thờ cúng Arak, cùng với việc thờ cúng ông Tà, người Khmer ở ĐBSCL
còn thờ một vị thần nữa gọi là Arak. Arak vừa là ma quỷ, vừa là vị thần hộ mệnh. Với ý
niệm là thần bảo hộ, người Khmer có Arak bảo hộ nhà (Arak Fteh), bảo hộ gia đình (Arak
Phtan), bảo hộ một khu đất (Arak Phum), bảo hộ ruộng rẫy (Arak Veal), hay trấn giữ rừng
(Arak Prei)... Mỗi dòng họ, mỗi phum thờ một Arak riêng, các Arak này phù hộ cho gia
đình, cho đồng ruộng, xóm làng của người Khmer chống lại ma quỷ quấy phá và giúp dân
làm ăn yên ổn.
Sau cùng là tín ngưỡng hồn lúa. Người Khmer quan niệm cây lúa cũng giống như người
phụ nữ: có thời con gái, có lúc đẻ con,… Hình tượng nữ thần lúa là một người đàn bà cưỡi
trên mình con cá chép, tay cầm nhánh lúa. Phần nhiều tên các giống lúa đều được gọi bắt
đầu bằng chữ nàng (neang) như nàng đen, nàng lép, nàng cho,… Đồng bào Khmer còn tin
lúa có mười chín hồn. Trước khi gặt, họ phải làm lễ cúng gọi hồn lúa về nhà. Sau khi gặt về,
lúa phải được đổ vào bồ lúa và đậy kỹ để hồn lúa khỏi bay đi nơi khác (điều này được phản
ánh rõ trong câu chuyện dân gian Khmer “Cá thác lác đi xin lúa”). Và theo tục lệ, bao giờ
họ cũng lưu lại bồ lúa một ít để hồn lúa không biến mất, mùa màng vụ sau thu hoạch sẽ có
hiệu quả.
Về phương diện tâm linh, trong tiềm thức người Khmer ĐBSCL luôn luôn tôn kính và
thờ phụng các vị thần có phép thuật phi thường để bảo vệ cũng như cứu độ lúc gặp khó khăn
hoạn nạn. Họ đã có một thời kỳ theo đạo Bà La Môn.
Ngày nay, tuy không còn thịnh hành, nhưng giá trị của các thần vẫn còn in dấu đậm nét ở
các chùa chiền, các vùng đồng bào Khmer cư trú. Các vị thần của đạo Bà La Môn ẩn tàng
trong tín ngưỡng dân gian và cụ thể là qua một số biểu hiện của thần, bị các tín ngưỡng
14


Neak Tà, Arak đồng hóa thành dạng tượng có chính danh: Tà Hóc, Yeay Khmao. Thần của
đạo Bà La Môn vẫn còn được sùng kính, thờ phụng trong xã hội người Khmer ĐBSCL,
gồm có ba vị chính: Prum (vị thần tạo ra thế gian), Xiva (thần tàn phá thế gian), Visnu (thần

cứu giúp thế gian).
Thời gian đầu, đạo Phật chưa trở thành quốc giáo, bởi vì vua quan và các tầng lớp quý
tộc đều theo đạo Bà La Môn. Tuy vậy Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển rộng khắp ở mọi
tầng lớp trong xã hội, kể cả người nghèo khó. Đến thế kỷ XII, lịch sử xã hội dân tộc Khmer
có nhiều biến động, chiến tranh loạn lạc diễn ra liên tiếp. Lúc bấy giờ, lương dân trở nên
ngao ngán (với sự phân chia đẳng cấp khắt khe và cách thức cúng kiếng phức tạp của đạo
Bà La Môn) với đạo pháp của tôn giáo cũ (đạo Bà La Môn). Bởi vì đạo Phật với đạo pháp
nhân văn, hòa bình, nên được lòng dân và phù hợp với bối cảnh lúc ấy. Có thể nói, “sự
thắng thế của Phật giáo còn được phản ánh qua cái chết của Kabil MaHa Prum vị thần bốn
mặt, biểu tượng của đạo Bà La Môn già nua đã tự cắt đầu, vì thua cuộc chàng thiếu niên
Thômabal biểu tượng của Phật giáo trẻ trung” [36, 59].
Ngôi chùa có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Khmer.
Bởi từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, rồi về già đến lúc chết, mọi buồn, vui của họ đều
gắn liền với chùa.
Chùa ở ĐBSCL có đặc điểm là trồng nhiều cây thốt nốt, cây dầu cao vút báo hiệu từ đằng
xa, có hàng rào bao bọc, mỗi chùa có một cổng chính và nhiều cổng phụ. Mỗi ngôi chùa là
một công trình kiến trúc độc đáo mang đậm nét giá trị văn hóa của người Khmer. Chùa đối
với họ mang một tình cảm sâu sắc, vì đó là nơi thờ Phật, nơi gửi cốt của tổ tiên, còn là nơi
gắn bó buổi đầu khai hoang lập ấp.
Đối với dân tộc Khmer, ngôi chùa không chỉ là trung tâm sinh hoạt Phật giáo mà còn là
trung tâm sinh hoạt văn hóa. Chùa là nơi rèn luyện đạo đức và nhân cách con người, cũng là
nơi trau dồi, uốn nắn cho thanh niên Khmer trở thành công dân tốt. Họ xem chùa là nơi
thiêng liêng, trang trọng, nơi tập trung những gì tinh túy nhất của dân tộc. Nhiều lễ hội gắn
với phong tục tập quán được tổ chức tại chùa. Thông qua các ngày lễ của dân tộc, “mọi
người đều cảm nhận như có một sợi dây vô hình ràng buộc giữa cá nhân với cộng đồng, dân
tộc, với nhà chùa và Phật giáo” [18, 106]. Cái sợi dây vô hình ấy được nhen lên từ các buổi
lễ ở chùa, nó thực hiện nhiệm vụ gắn kết tình cảm cộng động, phum sóc của các phật tử
Khmer với nhà chùa và kể cả Phật pháp. Con cháu của họ cứ nối tiếp nhau từ thế hệ này
sang thế hệ khác, họ luôn truyền cho nhau “cái sợi dây tình cảm” đối với đạo Phật. Đó cũng
15



là một trong những cơ duyên làm cho đạo Phật bén rễ sâu bền trong tâm hồn người Khmer
nhiều thế hệ.
Ngoài ra, chùa còn được xem là nơi hòa giải sự tranh chấp trong cộng đồng. Trong cuộc
sống, mọi việc khó khăn phần lớn được đưa ra bàn bạc ở chùa. Dân tộc Khmer còn coi ngôi
chùa là ngôi nhà chung của nhân dân trong phum sóc, xóm ấp. Mọi người Khmer dù xuất
gia hay không xuất gia đều là phật tử của chùa.
1.1.4. Lễ hội
Mỗi năm, người Khmer ĐBSCL tiến hành 08 lần lễ, trong ấy, chỉ có Vào năm mới (Tết)
là theo sự tích của Bà-La-Môn giáo, 07 lần còn lại đều là lễ Phật. Tất cả các cuộc lễ đều tổ
chức tại chùa, chương trình do vị Sư Cả trong chùa soạn thảo. Đồng bào quy tụ tại ngôi
chùa trong xóm để dự lễ và vui đùa. Tại ĐBSCL, có những lễ hội như sau: Meakabauchia Lễ Đức Phật cho biết 3 tháng nữa sẽ Nhập Niết Bàn, vào khoảng đầu tháng 2; Chôl Chnăm
Thmây - Lễ Vào năm mới (Tết), vào giữa tháng 4; Visakabauchia - Lễ Phật Đản (Nhập Niết
Bàn), vào tháng 5; Chôl Vô Sa - Lễ các sư sãi nhập hạ (ở trong chùa tu 3 tháng không ra
ngoài) vào đầu tháng 7; Phchum Ben hay Đôlta - Lễ xá tội vong nhân, vào giữa tháng 9;
Chanh Vô Sa - Lễ các sư sãi ra hạ (mãn thời kỳ nhập hạ), vào đầu tháng 10; Ok Ombok - Lễ
cúng trăng, vào cuối tháng 10; Ka Thanh - Lễ dâng y cà sa cho sư sãi, không cố định ngày,
từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11. Tất cả thời gian diễn ra lễ hội ở trên đều tính theo dương
lịch.
Trong các lần lễ trên, có 03 lần căn cứ theo 03 sự tích đặc biệt :
1. Lễ Vào năm mới, do một truyện cổ tích của đạo Bà-La-Môn du nhập từ Ấn Độ sang
Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia và trong giới người Khmer ở ĐBSCL. Chuyện kể về
hoàng tử Thomabal thông minh tài giỏi đã chiến thắng trong một cuộc đấu lý với Kabil
Maha Prum – vị thần chuyên xuống trần thuyết pháp cho người trần thế. Trước khi tự cắt
đầu, Kabil Maha Prum căn dặn bảy nàng con gái của mình hãy để đầu ông ta trên một cái
khay vàng và đặt tại hang thủy tinh Thamamialy nơi núi Kailas trong dãy núi Hi Mã Lạp
Sơn. Từ đó về sau, mỗi năm, đúng ngày thần tự sát, bảy cô gái xuống trần, vào hang bưng
mâm đầu lâu của cha đến núi Tudi, rồi đi vòng quanh chân núi ba lần theo hướng mặt trời.
Mỗi năm một cô bưng mâm đầu lâu một lần, nên tùy theo số mạng của cô tiên nữ bưng mà

ta biết được năm đó tốt hay xấu. Thay vì rước đầu lâu, người Khmer vào ngày đầu năm mới
rước Maha Sangkran (cuốn lịch) đi vòng quanh chính điện ba lần theo như huyền thoại trên.
16


2. Lễ Đôlta - Lễ xá tội vong nhân, do một điển tích của nhà Phật có phần khác hơn lễ Vu
Lan của người Việt. Chuyện kể như sau: Vào thời Đức Phật còn tại thế, ông có một người
đệ tử tên là Mục Kiền Liên có khả năng nhìn thấu sáu cõi. Trong một lần ngồi thiền, Mục
Kiền Liên gặp mẹ của mình đang sống cuộc đời đày ải khổ cực, đói khát ở âm phủ. Lúc trở
về trần gian nhờ sự chỉ bảo của Đức Phật, Mục Kiền Liên đã làm phước và đọc kinh hồi
hướng cho mẹ của ông ta. Sau đó, người mẹ ấy được siêu thoát. Xuất phát từ điển tích trên
nên hàng năm cứ vào ngày 29 tháng 08 (âm lịch) người Khmer tổ chức Lễ Đôlta nhằm để
báo hiếu cho ông bà, cha mẹ kể cả những người quá cố nói chung; đồng thời đọc kinh hồi
hướng giúp họ thoát khỏi cực hình ở chốn âm cung.
3. Lễ Ok Ombok - Lễ cúng trăng, do một điển tích của nhà Phật nói về mặt trăng. Truyện
kể về hành vi bố thí của con Thỏ (vốn là tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca). Vào một đêm
trăng rằm, Thỏ, Khỉ, Rái cá và Chó rừng cùng nhau nhịn ăn ngồi thiền (phần thức ăn của
mình để cho người ăn xin). Thỏ chỉ ăn cỏ nên không có gì để bố thí. Thỏ quyết định lấy thịt
mình để cho bất cứ người nào đến xin. Thần Sekara đã cải trang làm lão già ăn xin. Thần
cảm động trước tấm lòng hướng thiện của Thỏ nên Thần đã vẽ hình của Thỏ lên mặt trăng,
để thế gian luôn luôn nhớ đến sự hi sinh cao cả của Thỏ. Do truyền thuyết trên mà người
Khmer ĐBSCL cúng mặt trăng để nhớ đến nghĩa cử của Thỏ - chính là Đức Phật Thích Ca.
Các lễ nghi trong lễ hội của người Khmer đậm màu sắc Phật giáo. Người Khmer không
phân biệt phong tục và lễ hội, mà họ chỉ có hai danh từ “Bon” và “Pithi” để chỉ tất cả các lễ
nghi phong tục của mình. Họ dùng từ “Pithi” (phong tục) để gọi những lễ có tính chất dân
gian như đám cưới (Pithi Apea Pipea), Lễ Vào năm mới (Pithi Chôl Chnăm Thmây), Lễ
cúng ông bà (Pithi Sen Đôlta). Còn các lễ mang tính chất trang trọng của Phật giáo hay chịu
ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo thì người Khmer gọi bằng danh từ “Bon” như Lễ cúng
trăng (Bon som Pes pres khe), Lễ Phật Đản (Bon Visakh Bochia), Lễ nhập hạ (Bon Chôl Vô
Sa),… [36, 72].

Với người Khmer ĐBSCL thì hầu hết các lễ hội đều được diễn ra ở chùa theo nghi thức
của đạo Phật (Phật giáo Nam tông): tụng kinh cầu an, cầu phước, dâng cơm cho sư sãi trong
chùa. Còn những lễ được tiến hành ở nhà thì bao giờ cũng có sư Cả hoặc Achar đứng ra
điều hành lễ. Cho dù là lễ hội dân gian hay lễ hội mang màu sắc Phật giáo thì lễ vật được sử
dụng vẫn là những sản vật tự nhiên của phum sóc, và đồ thờ cúng luôn mang đặc trưng của
người Khmer.

17


Nhìn chung, các lễ hội dân gian và truyền thống của người Khmer còn in đậm dấu ấn về
cội nguồn tín ngưỡng dân gian bản địa (lễ cưới, tết Chôl Chnăm Thmây, Ok Ombok,…). Vì
thế, “sự pha trộn giữa các yếu tố tôn giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa khiến lễ hội
Khmer ở ĐBSCL vừa phong phú về hình thức biểu thị, lại vừa có cấu trúc ổn định và khá
chặt chẽ” [1, 90].
1.1.5. Phong tục – tập quán
Phong tục tập quán chính là những thói quen văn hóa của con người được hình thành
trong sự phát triển của một dân tộc, tập thể hay cộng đồng người trong cùng khu vực sinh
sống. Phong tục tập quán của người Khmer ở ĐBSCL là một phạm trù văn hóa phi vật thể
vốn đã được hình thành từ rất xa xưa. Ngày nay đã có sự giản lược cho phù hợp với thời đại
nhưng vẫn còn một số phong tục mang tính bản sắc dân tộc riêng biệt của người Khmer.
1.1.5.1. Đời sống tu trì của nam giới
Trong xã hội người Khmer tu hành chỉ dành cho giới nam. Đối với người con trai Khmer,
theo nguyên tắc Phật lý thì phải đến 12 tuổi mới được đi tu. Người con trai có thể vào chùa
tu từ một đêm cho đến nhiều năm và thậm chí tu suốt đời là hoàn toàn tự do. Theo quan
niệm của người Khmer, tu không phải để thành Phật, thành Tiên, mà tu để trở thành người
hiểu biết đạo lý, chữ nghĩa và người đức hạnh. Đi tu cũng được xem là tích phước cho cha
mẹ, cho gia đình, đi tu là cách thức báo hiếu của người con trai đối với bậc sinh thành.
Trong sách dạy làm người của Khmer có câu: “Neak min ban buos tuk chea tooss knong
samay”, nghĩa là người không được tu trong chùa là người có nhiều tội lỗi trong đời sống.

Câu nói ấy đã có sức mạnh quan trọng định hướng cho cuộc sống của người con trai Khmer
qua nhiều thế hệ. Trong xã hội ngày nay câu nói trên mang tính phiến diện nhưng xã hội
thời trước vẫn được cho là đúng đắn. Phần lớn người Khmer đều có quan niệm: người con
trai được coi là đủ tư cách, phẩm chất trong xã hội đều phải trải qua một thời gian tu học ở
chùa. Nếu có địa vị xã hội cao như thế nào đi nữa, thậm chí như ông vua, mà không qua thời
gian tu học ở chùa thì cũng bị dân chúng xem thường.
Xuất phát từ niềm tự hào về đạo Phật mà nhiều gia đình Phật tử Khmer muốn gửi con,
em trai của mình vào chùa để được trang bị tri thức, rèn giũa nhân cách, trau dồi đạo đức để
trở thành người công dân tốt cho xã hội. Việc đi tu đã trở thành một tập tục tốt đẹp của
người Khmer có từ thời xa xưa. Ngày nay số thanh niên vào chùa tu có giảm sút (do một số

18


nguyên nhân khác nhau), nhưng tập tục đi tu của người con trai vẫn là một nét đẹp truyền
thống, có ý nghĩa nhân văn trong cộng đồng và trong ý thức của người Khmer ĐBSCL.
1.1.5.2. Việc cưới xin
Mùa cưới của thanh niên nam nữ Khmer ĐBSCL thường tổ chức vào mùa khô, từ tháng
10 đến tháng 4 âm lịch. Tuyệt đối đám cưới không thể cử hành trong những tháng “Vassa”,
tức là từ 15/6 đến 15/9 âm lịch. Theo quy định của tập tục, đám cưới của người Khmer
ĐBSCL trải qua ba giai đoạn: giai đoạn trước lễ cưới, giai đoạn lễ cưới và giai đoạn sau lễ
cưới.
Giai đoạn trước lễ cưới, bao gồm ba lễ nhỏ: lễ Si-sla-dâk (ăn trầu cau) như lễ “dạm ngõ”
của người Việt, lễ Si-sla-kân- seng (gói trầu cau ăn hỏi) là lễ ăn hỏi, lễ Si-sla-banh
Cheabpeak (lễ xin cưới).
Các lễ nghi cưới chính thức được tổ chức bên nhà gái. Còn việc sắp xếp, thực hiện, điều
khiển mọi lễ nghi thì bên nhà trai đảm nhiệm. Nhà trai phải chọn ông Maha để điều khiển
nghi lễ. Bởi, ông Maha có vai trò rất quan trọng trong quá trình đám cưới diễn ra. Ông
Maha không chỉ là người am hiểu lễ nghi đám cưới mà còn phải là người vợ chồng đủ đôi,
nhiều con cháu. Đặc biệt, ông Maha phải biết múa đẹp, múa đúng theo quy định của tục

cưới.
Đám cưới của người Khmer dù được tổ chức lớn hay nhỏ đều diễn ra trong ba ngày:
Ngày nhập gia (bên nhà trai đem lễ vật qua bên nhà gái xin phép làm đám cưới. Ngày cưới
(lễ cưới chính thức). Ngày thứ ba (ngày lạy ông bà và họ hàng). Trong ngày thứ ba gồm các
lễ tiết như sau: Lễ “rắc hoa cau”, Lễ “Đơr-pô-pil” (rút gươm ra khỏi bao): tượng trưng cho
sức mạnh của chính nghĩa thắng gian tà, hạnh phúc chân thiện phải được sức mạnh của lưỡi
gươm bảo vệ, Lễ buộc chỉ cổ tay (chong đay): Trong lễ này, có kèm theo tặng phẩm, tiền
hoặc vật quý và những lời chúc phúc cho cô dâu chú rễ hạnh phúc trăm năm vững bền, Lễ
nhập phòng (Phsâm-đâm-nêk): Lễ này cũng từ huyền thoại Preah Thông – Neang Neak, Lễ
quét chiếu (Bôs Kântêl), Lễ chung mùng (Đêk Sâng Kât Chơng mung).
Ngày nay, trong đám cưới của người Khmer ĐBSCL, dù tổ chức theo kiểu nào đi nữa thì
họ vẫn giữ tục mời các vị sư sãi đến tụng kinh cầu phúc. Trong xã hội người Khmer, không
có cảnh thách cưới và gả bán con cái lấy nhiều tiền, cũng như vợ chồng không có sự ức hiếp
nhau. Nếu có cảnh huống trên xảy ra thì đó là những ngoại lệ.

19


1.1.5.3. Việc tang ma
Người Khmer ĐBSCL chịu ảnh hưởng sâu sắc lý thuyết của Đức Thích Ca Mâu Ni nên
họ quan niệm rằng chết chưa phải là chấm dứt cuộc sống, mà tiếp tục sống ở một thế giới
khác, không sống bằng thể xác, mà sống bằng linh hồn bất diệt.
Tập quán của người Khmer là hỏa táng thi hài người chết. Khi gia đình có người chết,
trước hết họ mời ông “Achar Yuki” là người thầy cúng thông thạo việc tang ma đến điều
khiển tang lễ. Trong quá trình diễn ra tang lễ, ngoài ông Achar Yuki còn có bốn ông Achar
nhỏ gọi là “Achar Phluk” phụ giúp trong tang lễ. Theo tập quán của người Khmer, tang lễ
được diễn ra qua các lễ tiết như sau: Trước tiên, là Lễ cầu siêu cầu phước; thứ hai, là Lễ bái
tam bảo, thọ ngũ giới; thứ ba, là Lễ đưa ma; thứ tư, là Lễ lăn đường; thứ năm, là Lễ tiễn
biệt. Hầu như ở mỗi lễ tiết đều có mời ông sư tụng kinh cầu phước cho người quá cố được
siêu thoát. Đặc biệt, nếu người chết được hỏa táng. Khi lửa thiêu xác bốc lên cao, con cháu

nào có lòng hiếu thảo muốn đi tu trả ơn người quá cố thì ngay lúc này cạo đầu đi tu.
Khi xác cháy hết, ông Achar Yuki đánh cồng ba tiếng báo hiệu cho con cháu ra chuẩn bị
nhặt xương. Con cháu nhặt xương đặt vào mâm có trải khăn trắng rồi đội mâm đem về nhà.
Sau đó, họ lại mời ông sư tụng kinh cầu siêu lần nữa để chấm dứt tang lễ.
Vai trò Achar trong đời sống tinh thần của người Khmer ĐBSCL: Achar là người có thời
gian tu học trong chùa. Achar cũng là thầy dạy chữ, dạy kinh kệ cho phật tử trong phum
sóc. Achar có vai trò quan trọng trong các buổi tổ chức ở chùa cũng như các lễ nhỏ tổ chức
ở nhà phật tử như lễ cầu an, cầu siêu.
1.1.6. Văn học dân gian
Có thể nói, dân tộc Khmer có một kho tàng VHDG rất phong phú và đa dạng, bao gồm
nhiều thể loại như: thần thoại (rương boran), truyền thuyết (rương prông), phật thoại (rương
sấc-sa-va), cổ tích (rương prêng), tục ngữ (sopheasât) ...
Về văn xuôi (thần thoại, truyền thuyết, phật thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười)
Kho tàng thần thoại của người Khmer có khối lượng lớn, “được thể hiện bằng cách
truyền khẩu và qua các tác phẩm điêu khắc, hội họa ở chùa, ở các công trình công cộng, cứ
mỗi một hình tượng là có một thần tích với ý nghĩa sâu xa” [3, 183].
Trong buổi bình minh của lịch sử, theo cơ sở tư duy của người xưa, người Khmer đã hư
cấu nhiều truyện kể để giải thích sự hình thành vũ trụ và giải thích các hiện tượng tự nhiên
như mưa, gió, mặt trời, mặt trăng, nhật thực, nguyệt thực. Tư duy của người nguyên thủy
20


luôn bị các thế lực thiên nhiên chế ngự nên những truyện thần thoại ra đời nhằm đáp ứng
cho sự lý giải về nguồn gốc của các hiện tượng ấy.
Các truyện nguồn gốc vũ trụ và muôn loài, gồm có: Sự tích mưa, gió, mặt trời, mặt trăng;
truyện Niêng Mê- kha- ta; truyện Ria- hu... Đó là những thần thoại thường có cốt truyện đơn
giản. Vậy nên phía sau sự giao tranh vì tình yêu trong thần thoại Niếc Ta Tứk và Niếc Ta
Phnum, và sâu xa trong lòng hiếu thảo có tính chất tôn vinh đạo đức truyền thống trong Sự
tích mưa, gió, mặt trời, và mặt trăng “là sự cố gắng vươn lên giải thích các hiện tượng lũ lụt,
mưa gió, mặt trời và mặt trăng” [36, 154].

Người Khmer còn có các truyền thuyết về địa phương như: Sự tích chiếc thuyền vỡ (ở
Vũng Thơm - Hậu Giang), Sự tích Bô – Piêl diệt cá sấu ở vàm sông Long Xuyên, truyền
thuyết về Tà Hóc – Dây Chác (ở Hiếu Tử, Tiểu Cần, Cửu Long), và các truyền thuyết tồn tại
dưới dạng giải thích địa danh dân gian như: sự tích Prắc Trà Peng (Trà Vinh), sự tích Giồng
Lức (Đa Lộc, Châu Thành, Cửu Long), sự tích vùng Cos Sala (Trà Cú).v.v...
Trong cổ tích Khmer, những xung đột được triển khai trên một phạm vi rộng lớn. Đó là
những xung đột diễn ra chung quanh chiếc ngai vàng, liên quan chặt chẽ đến cuộc sống
cung đình. Những truyện tiêu biểu cho đề tài này là Truyện Hoàng tử Săng – sêl – chây,
Hoàng tử Nhơ – doang – sâng, Sự tích địa danh Bãi Xàu. Có khi sự xung đột diễn ra trong
hiện thực của cuộc sống xã hội cũ. Đó là sự xung đột giữa một bên là chủ sóc, quan lại, vua
chúa tham lam độc ác và một bên là người dân lương thiện, nghèo khó như trong các truyện
Sự tích hoa sen và bướm, Lâm Sen. Và trong một số truyện mâu thuẫn chỉ xảy ra trong
phạm vi gia đình: Truyện Hai cây khế, Cối xay thần phản ánh mâu thuẫn giữa hai anh em,
truyện Niêng Mo – rơ năs Meda, Niêng Còn – tuốc – Niêng Chông Ang Kam phản ánh mâu
thuẫn giữa mẹ ghẻ và con chồng.
Nếu cổ tích là tấm gương phản ánh một cách trung thực cuộc sống con người, phong tục
tập quán xã hội Khmer thì truyện ngụ ngôn và truyện cười Khmer lại phản ánh trí tuệ và
tinh thần đấu tranh vì công lý. Người Khmer gọi truyện ngụ ngôn là Rương Ca - tê - lok có
nghĩa là những truyện kể về những bài học ở đời. Qua một số truyện kể về Cá sấu, Con
bướm, Con rùa,... dân gian đã đúc kết thành những câu tục ngữ hay thành ngữ có ý nghĩa
giáo dục mọi người như câu “Sấu quên bưng” (nội dung phê phán kẻ vong ân bội nghĩa),
“Thành bướm đừng quên sâu” (nội dung nhắc nhở đừng quên nguồn cội), “Đừng xuôi theo
gió, đừng trôi theo dòng” (khuyên người ở đời làm việc gì phải có chủ kiến, phải lượng khả

21


năng). Người Khmer còn có tập hợp truyện Thỏ xử kiện. Trong tập hợp truyện này, thỏ trở
thành biểu tượng cho trí khôn, lòng hào hiệp và sự chiến thắng của công lý và lẽ phải
Truyện À lêu, Thơ - mênh Chây và Chấc - sờ - mốc là bộ ba tiêu biểu của truyện cười

Khmer. Truyện À lêu kể về con đường công danh đạt đến chức phò mã của một anh chàng
láu cá, À lêu. Nếu phò mã À lêu là một tên láu cá lừa gạt cả cha mẹ, bà ngoại, chú bác lẫn
bà con láng giềng, và cả ân nhân của mình. Hắn chính là tên cờ bạc bịp bợm, và các quan lại
thượng thư bộ hình, quan đầu tỉnh, ngoi lên được địa vị ấy là nhờ may, nhờ có tiền, nhờ đút
lót và mưu của tên ăn trộm.
Thơ - mênh Chây là hiện thân của trí tuệ, đạo đức và ý chí của nhân dân đối lập với sự
ngu dốt, sự độc đoán của bọn phong kiến đương thời. Thơ- mênh Chây là một con người rất
yêu quê hương đất nước, hiếu thảo với cha mẹ, chung thủy với vợ, coi thường mọi thứ công
danh phú quý, từ chối mọi ân huệ vua ban một cách thẳng thắn. Nói cách khác, Thơ- mênh
Chây là hình tượng tiêu biểu của người nông dân Khmer thông minh, cần cù. Người nông
dân Khmer đã bắt gặp hình bóng của mình ở con người tài ba này. Chàng đã trở thành biểu
tượng thân thương của mọi người dân Khmer từ trẻ tới già.
Truyện Chấc - sờ - mốc hướng sự phê phán vào thói viển vông, tự ru mình vào trong
những ước vọng hão huyền. Truyện đã đưa ra một kết luận mỉa mai có tính chất triết lý:
“Muốn tránh dơ thì cưỡi voi
Muốn tránh việc kiện cáo thì lên đọt thốt nốt.”
Cả chàng Chấc - sờ - mốc đã leo lên đọt thốt nốt, và anh chàng cưỡi voi kia đều bị chết,
bị chết rất buồn cười. Bài học đưa ra ở đây là: dám đương đầu với cuộc sống, chứ không
phải xa lánh cuộc sống.
Nhìn chung, truyện dân gian Khmer với nhiều thể loại khác nhau đã phản ánh được hầu
hết các khía cạnh đa dạng trong cuộc sống của người dân Khmer từ thời kỳ xa xưa và cho
đến tận ngày nay. Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội, người dân Khmer đã bộc lộ
quan điểm thẩm mĩ của mình trong các hành vi ứng xử, giao tiếp được thể hiện qua các câu
chuyện cổ tích hay ngụ ngôn, truyện cười,…
Về văn vần (ca dao- dân ca, tục ngữ)
Ca dao - dân ca Khmer có rất nhiều thể loại: hát quăng chài (chriêng bong som nanh), hát
chặt gỗ (Chriêng kăb chhơ), hát bửa củi (Chriêng púoks), hát giã gạo (Chriêng bok srâu),
hát cấy lúa (Chriêng stung srâu), hát nuôi tằm (Chriêng chenh chăm neang), hát quay tơ
(Chriêng rôveays sânt), hát dệt vải (Chriêng đâm banh),… Ca khúc dân gian phổ biến nhất
22



trong cộng đồng người Khmer phải kể đến trước hết là những ca khúc hát đám cưới truyền
thống của họ. Có gần 30 bài ca với những lời hát khác nhau tương ứng với gần 30 nghi lễ
trong lễ cưới của người Khmer, nào là hát “mở cổng”, hát “mở rào”, “quét chiếu”, “cắt hoa
cau”, “dở lồng bàn”, “đào thuốc”, “nhuộm răng’, “cắt tóc”, “đánh cá sấu”, “lạy mặt trời’,…
Mặc dù những bài hát này được gắn liền với từng lễ thức, nhưng nội dung cầu khấn trong
các bài hát ấy lại rất ít, thay vào đó, là những nội dung về tình yêu lứa đôi, về hạnh phúc gia
đình được hòa quyện cùng những cảnh sắc lãng mạn của thiên nhiên [1, 83].
Bên cạnh đó, dân ca sinh hoạt của người Khmer còn có hát ru, hát đối đáp nam nữ.
Những bài dân ca sinh hoạt ấy hết sức phong phú, chứa đựng vẻ độc đáo riêng của đời sống
tinh thần. Các khúc ca dân gian của người Khmer còn có đề tài gắn liền với những câu
chuyện lịch sử thời xa xưa. Đó là những khúc ca mang sắc thái hào hùng của người dân
Khmer trong thời kỳ khai hoang mở đất, xây dựng phum sóc.
Dân tộc Khmer có một kho tàng tục ngữ rất phong phú đề cập đến tất cả các khía cạnh
của cuộc sống xã hội và gia đình, những kinh nghiệm lao động và triết lí ở đời... Hình ảnh
trong tục ngữ đều là những hình ảnh phổ biến trong môi trường tự nhiên và xã hội của người
Khmer. Do đó ta thấy tục ngữ của người Khmer không những đã đưa ra một kho kinh
nghiệm được tích lũy trong suốt quá trình phát triển của cộng đồng (người Khmer ở
ĐBSCL) mà tục ngữ còn phác họa nên một bức tranh về đời sống sinh hoạt với những
phong tục tập quán của con người. Bên cạnh đó, tục ngữ Khmer còn được xem như là
những chân lý, chuẩn mực đạo đức được người dân rút ra từ thực tiễn về mối quan hệ gia
đình, xã hội hay kinh nghiệm sống của nhiều thế hệ truyền lại.
Tóm lại, kho tàng VHDG của người Khmer ở ĐBSCL rất phong phú và đa dạng. Nó
phản ánh nhiều lĩnh vực cũng như tâm tư, tình cảm của đồng bào Khmer. Có thể nói, đây là
một kho tàng văn hóa vô giá tồn tại bền vững trong nhân dân lao động từ xưa đến nay.

1.2. Giới thiệu chung về tục ngữ Khmer ĐBSCL
1.2.1. Khái niệm tục ngữ
Chu Xuân Diên trong Từ điển văn học đã định nghĩa tục ngữ: “Là những câu nói ngắn

gọn, có nhịp điệu, có hình thức bền vững, được dùng trong lời nói hàng ngày, thường có
nhiều nghĩa, hình thành bằng cách liên tưởng loại suy” [9, 473].
Bùi Mạnh Nhị trong “Bài giảng cho sinh viên khoa Văn các trường Đại học”, mục “tục
ngữ”, có định nghĩa: “Tục ngữ (tục: thói quen có lâu đời, được mọi người công nhận; ngữ:
23


×