Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

con người thân phận và tình yêu trong ca từ trịnh công sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 166 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hoàng Đình Đức

CON NGƯỜI THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU
TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hoàng Đình Đức

CON NGƯỜI THÂN PHẬN VÀ TÌNH YÊU
TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
Chuyên ngành
Mã số

: Lí luận văn học
: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. Dương Hữu Biên



Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những
nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu nào.
Tác giả luận văn:

HOÀNG ĐÌNH ĐỨC

1


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của quý thầy cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy Dương Hữu Biên, người đã tận tình
hướng dẫn và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời tri ân
nhất đối với những điều mà thầy đã dành cho tôi.
Tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những người đã động viên,
hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận
văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị và các bạn trong lớp đã giúp đỡ tôi
rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2013
Học viên thực hiện


Hoàng Đình Đức

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ................................................. 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 8
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 11
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................................... 12
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................................... 13

CHƯƠNG 1: CON NGƯỜI THÂN PHẬN TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG
SƠN ............................................................................................................................. 14
1.1. Một số khái niệm của đề tài ...................................................................................... 14
1.1.1. Về vấn đề Con người thân phận và Thân phận con người ....................................14
1.1.2. Về khái niệm tình yêu nam nữ ..............................................................................19
1.1.3. Về khái niệm ca từ ................................................................................................22
1.2. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người thân phận ..................................... 23
1.3. Cội nguồn của quan niệm về con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn 31
1.4. Thế giới con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn .................................. 36
1.4.1. Hình tượng người mẹ ............................................................................................36
1.4.2. Hình tượng người yêu - người vợ mất chồng........................................................40

1.4.3. Hình tượng người già và trẻ em trong chiến tranh ................................................45
1.4.4. Hình tượng con người tập thể, quê hương, đồng bào, đồng loại...........................49
1.4.5. Con người cá nhân - cái tôi cô đơn bơ vơ, lạc lõng với cảm thức tha hương .......51

CHƯƠNG 2: TÌNH YÊU NAM NỮ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ...... 55
2.1. Quan niệm và cội nguồn quan niệm tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn........ 55
2.1.1. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu nam nữ ............................................55
2.1.2. Cội nguồn quan niệm về tình yêu nam nữ của Trịnh Công Sơn ...........................60
2.2. Chủ thể và đối tượng của tình yêu nam nữ ............................................................. 62
2.2.1. Chủ thể trong tình yêu - hình tượng nhân vật tôi ..................................................62
2.2.2. Đối tượng trong tình yêu - hình tượng em ............................................................64
3


2.3. Những dạng thức, cung bậc biểu hiện và cảm xúc trong tình yêu Nam nữ ......... 67
2.3.1. Tình yêu mang đến những cảm xúc say sưa, ngất ngây và niềm hạnh phúc ........67
2.3.2. Sự cô đơn trong tình yêu .......................................................................................70
2.3.3. Nỗi ám ảnh, nhớ nhung và gắn bó với một bóng hình người nữ ..........................74
2.3.4. Nỗi day dứt, ăn năn, nuối tiếc của hình tượng tôi .................................................77
2.3.5. Nỗi ám ảnh về những cuộc chia ly, tan vỡ và phụ rẫy trong tình yêu ..................79
2.3.6. Sự đồng cảm, vị tha, bao dung, độ lượng trong tình yêu ......................................83

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CON NGƯỜI THÂN PHẬN VÀ
TÌNH YÊU NAM - NỮ TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN ........................... 87
3.1. Nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu trong ca từ Trịnh Công
Sơn ...................................................................................................................................... 87
3.1.1. Về việc khai thác và sử dụng hệ thống từ ngữ ......................................................87
3.1.2. Về việc khai thác và sử dụng các phương thức diễn đạt .......................................93
3.2. Hiệu quả của nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu ................ 105
3.3. Những đóng góp của Trịnh Công Sơn trên phương diện ngôn từ đối với sự phát

triển của tiếng Việt .......................................................................................................... 107

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 115
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118

4


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

Kí hiệu thời gian
< > ( năm): khoảng năm, ví dụ: < > 1975: khoảng năm 1975
<= (năm): (năm) hoặc trước (năm), ví dụ: <=1960: 1960 hoặc trước 1960
>= (năm): (năm) hoặc sau (năm), ví dụ: >= 1972: 1972 hoặc sau 1972
<: trước năm, ví dụ < 1972: trước năm 1972
Các chữ viết tắt
(MI): Michiko Yoshii
(BÝ): Bửu Ý
Kí hiệu khác
(?): chưa rõ, cần thêm thông tin.

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền văn nghệ Tiền chiến nước ta đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên mọi thể loại.
Riêng về âm nhạc, một số ca khúc không chỉ là những bài hát đơn thuần, mà còn mang cả
tính thơ nữa. Ta có thể gặp những sáng tác kiểu này ở các tác giả Từ Linh - Đoàn Chuẩn,

Văn Cao, Đặng Thế Phong. Vào những năm 1960, ở miền Nam xuất hiện một nhạc sĩ mà
theo một số nhà nghiên cứu, ông không chỉ là nhạc sĩ mà còn là thi sĩ, đó là Trịnh Công
Sơn. Có lẽ Văn Cao là người đầu tiên gọi Trịnh Công Sơn là thi sĩ: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn
là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái
nào chính, cái nào là phụ.” [16; tr.68]. Nguyễn Trọng Tạo trong một bài báo đã viết:
Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ chứ chưa mấy ai gọi anh là nhà
thơ, dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi anh là “người thơ ca”
hay “người hát thơ”, nghĩa là, anh là người tác hợp giữa thơ và nhạc. Nhưng với tư
cách là một nhà thơ, tôi đã khảo sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định
rằng, anh chính là một nhà thơ đích thực [18; tr.418].
Trên góc độ chuyên môn, nhà nghiên cứu âm nhạc Dương Viết Á cho rằng, chỉ xét
riêng về phần ca từ trong âm nhạc, nhiều nhạc sĩ cần được gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên
được tuyển chọn vào các tập thơ của thế kỉ XX như: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh
Công Sơn. Nhìn ra ngoài biên giới, tên tuổi Trịnh Công Sơn đã vượt khỏi phạm vi nhỏ hẹp
của đất nước và đến với thế giới, nhất là các nước Nhật Bản, Pháp, Mỹ và được ghi trong bộ
bách khoa Les Million của nước Pháp với những dòng như sau: “Nhiều thi nhân Việt Nam
ngày nay đã tìm hơi thở hùng ca của tổ tiên ngày trước để hát nỗi đau của mình. Trịnh Công
Sơn nổi bật giữa những tài năng trẻ đó. Bài hát của anh tràn ngập thành phố và thôn quê.
Trịnh Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân mà đạn bom không bao giờ dập tắt được” [16;
tr.149 ].
Từ những nhận định trên, có thể nói các bài hát của Trịnh Công Sơn, chỉ xét riêng về
ca từ, ta có thể thấy chúng là những bài thơ đích thực, thậm chí có thể phân loại thành các
thể thơ khác nhau.
Trịnh Công Sơn đã viết khoảng 600 tác phẩm, về chủ đề thân phận con người Việt
Nam trong cuộc chiến chống ngoại xâm, khát vọng hòa hợp dân tộc, tình yêu quê hương,
tình yêu đôi lứa... Hầu hết trong số đó là những tác phẩm có giá trị. Kể từ khi ông qua đời
6


cho đến nay, rải rác đây đó đã có một số công trình bắt đầu đi nghiên cứu về phần ca từ

trong âm nhạc của ông. Có những người viết luận văn, luận án, có những người viết thành
sách dài hàng mấy trăm trang, đó là chưa kể một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí.
Song phải thừa nhận một thực tế, gia tài âm nhạc Trịnh Công Sơn là di sản tinh thần vô giá
và đồ sộ, mà các công trình nghiên cứu hiện nay mới chỉ đang bước đầu bóc tách những lớp
trầm tích đầu tiên.
Do vậy, có thể nói, ca từ Trịnh Công Sơn vẫn còn là một khu rừng đầy bí ẩn, cần được
tiếp tục đi sâu nghiên cứu ở những góc độ, phương diện khác nhau. Chúng tôi thấy rằng vấn
đề con người thân phận - hiểu theo phạm vi hẹp và sâu, đó là số phận của con người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh (khác với thân phận con người, phạm vi
rộng và chung chung mà một vài công trình khác đã đề cập) và tình yêu nam nữ là đề tài
chưa thật sự được khai thác, phân tích theo chiều sâu, để làm rõ tư tưởng, tầm vóc, tài năng
và hơn hết là nhân cách của Trịnh Công Sơn. Ngoài ra chúng tôi cũng nhận thấy rằng, người
hâm mộ, người yêu nhạc, thơ của Trịnh Công Sơn, thậm chí cả những ca sĩ chuyên nghiệp
cũng như một số tác giả nghiên cứu trước đã có một số quan niệm, cũng như dùng một số
khái niệm, từ ngữ mà theo chúng tôi là chưa thật thỏa đáng, nên cần phải xem xét lại thật
thận trọng trên tinh thần khoa học. Hơn nữa, tác giả luận văn này cũng có mối đồng cảm với
thơ - nhạc Trịnh Công Sơn.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề Con người thân phận
và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tìm hiểu những biểu hiện của con người thân phận, bức tranh số
phận con người trong cuộc chiến, cũng như những quan niệm và biểu hiện, dạng thức phức
tạp của tình yêu nam nữ trong các ca khúc Trịnh Công Sơn, từ đó thấy được tinh thần nhân
đạo, nhân văn chủ nghĩa và tình yêu con người với niềm bi thiết sâu sắc của người nhạc sĩ
này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí thuyết chung trong quan niệm nghệ thuật về con người với một số
khái niệm căn bản như con người thân phận, tình yêu, ca từ… và những vấn đề có liên quan

7


để từ đó làm điểm tựa để đi vào nghiên cứu mảng con người thân phận và tình yêu nam nữ
trong một số các ca khúc cụ thể.
- Đi vào một số chủ đề cụ thể trong mảng con người thân phận và tình yêu, phân tích
một số tác phẩm cả nội dung lẫn nghệ thuật, để làm rõ nét độc đáo, khác biệt trong quan
niệm nghệ thuật về con người của tác giả.
- Một vấn đề cũng rất quan trọng, đó là chúng tôi đưa ra một vài gợi ý mới về cách
dùng một số từ ngữ, khái niệm, cũng như làm rõ một vấn đề mà xưa nay có nhiều tác giả đã
ngộ nhận: liệu Trịnh Công Sơn có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Hiện Sinh chủ nghĩa hay đó
chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Đồng thời đi tìm nguyên nhân để lí giải cho hiện tượng
trên.
Từ sự phân tích trên, đi đến kết luận về tài năng, phong cách nghệ thuật cũng như
nhân cách, tâm hồn, lối sống và tầm tư tưởng của Trịnh Công Sơn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là phần ca từ (phần chữ, đã tách rời khỏi
khuông nhạc) của Trịnh Công Sơn. Từ khi sáng tác xong, ca từ ca khúc Trịnh Công Sơn
được công bố và in trong nhiều tuyển tập ca khúc như: Ca khúc Trịnh Công Sơn [22], Ca
khúc da vàng [23], Kinh Việt Nam [24], Ta phải thấy mặt trời [25], Một cõi đi về [27], Khói
trời mênh mông [28], Em còn nhớ hay em đã quên [29], Những bài ca không năm tháng
[30]…
Trong luận văn này, đối tượng khảo sát của chúng tôi là 60 văn bản ca từ (không có
phần nhạc) được công bố trong tập sách Trịnh Công Sơn – Vết chân dã tràng của tác giả
Ban Mai [13]. Văn bản những ca khúc này đã được công bố với sự cho phép của bà Trịnh
Vĩnh Trinh - em gái nhạc sĩ, người thừa kế bản quyền nhạc Trịnh và ông Phạm Văn Đỉnh chủ tịch hội văn hóa Trịnh Công Sơn ở Pháp - người đã có công sưu tầm và chỉnh lí thư mục
ca khúc Trịnh Công Sơn. Có thể nói, đây là nguồn tư liệu đáng tin cậy để nghiên cứu ca từ
Trịnh Công Sơn (danh mục ca khúc sẽ được chúng tôi trình bày cuối luận văn này).

Ngoài những văn bản ca từ kể trên, đề tài còn sử dụng một loại “siêu văn bản” khác,
đó là hoàn cảnh lịch sử - xã hội, không khí thời đại, không khí cuộc chiến tranh kéo dài 20
năm chia cắt đất nước, trong đó các ca khúc Trịnh Công Sơn đã thoát thai và hoàn cảnh cá
nhân, những trang nhật kí, những dòng tâm sự của nhạc sĩ trên truyền hình… Đây có thể
8


xem như những sự gợi mở nho nhỏ giúp chúng tôi đi sâu hơn vào thế giới ca khúc, cũng là
thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn là cả một gia tài văn hóa đồ sộ và mênh
mông, do đó, các ca khúc của ông có thể nghiên cứu, xem xét trên nhiều phương diện khác
nhau: phương diện lí luận về âm nhạc, phương diện triết học, tính triết lí, quan niệm nghệ
thuật về con người, về đời sống, về cái đẹp, cõi nhân sinh… Tuy nhiên, luận văn này chỉ
dừng lại ở việc đi sâu tìm hiểu về mặt con người thân phận và tình yêu nam - nữ trong ca từ
của ông.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4.1. Vấn đề thân phận con người được đề cập trong chủ nghĩa Hiện Sinh phương Tây.
Chủ nghĩa Hiện Sinh ra đời gắn với nhiều tên tuổi, song có thể phân ra làm hai phái, đó là
phái Hữu thần và Vô thần. Con người với tính cách là một hữu thể, với những suy tư trăn
trở về thân phận được đề cập đến trong tư tưởng của các triết gia Kierkegaard, St. Augustine
và Heidegger. Trong đó Martin Heidegger (1889-1976), triết gia vĩ đại người Đức, đã tập
trung tìm hiểu ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại người. Bản thể
luận của Heidegger là học thuyết về cấu trúc của tồn tại con người. Khác với triết học truyền
thống Âu châu chỉ đặt ra vấn đề hữu thể nói chung, Heidegger cho rằng tồn tại con người
mới là xuất phát điểm, là hiện thực đầu tiên có tính thứ nhất. Quan niệm này của Heidegger
là một đóng góp mới vào tư tưởng triết học của thế giới.
4.2. Sau khi Trịnh Công Sơn qua đời, đã có một số sách viết về cuộc đời và sự nghiệp
của ông. Đầu tiên phải kể đến là cuốn sách có tựa đề Trịnh Công Sơn - một người thơ ca,

một cõi đi về do các tác giả Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến sưu
tầm và biên soạn [32]. Sau đó cuốn sách này được bổ sung và tái bản với tên gọi khác là
Một cõi Trịnh Công Sơn (Huế, nhà xuất bản Thuận Hóa, trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông
Tây, 2002). Tiếp sau đó nhiều cuốn sách lần lượt được phát hành, đáng chú ý là có nhiều
cuốn tập hợp bài viết của nhiều tác giả: Trịnh Công Sơn - cát bụi lộng lẫy [15], Trịnh Công
Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ [16], Trịnh Công Sơn - rơi lệ ru người [14], Trịnh
Công Sơn - cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa và suy tưởng [17]… Về những cuốn sách của
các tác giả là cá nhân, có thể kể đến các tác phẩm như: Trịnh Công Sơn - một nhạc sĩ thiên
tài của Bửu Ý [38], Trịnh Công Sơn - có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân [37], đặc
9


biệt là cuốn sách do Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn rất thân của cố nhạc sĩ viết với
tựa đề Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé [34]. Ngoài ra còn phải kể đến cuốn
sách mang tính chuyên luận của Bùi Vĩnh Phúc với tựa đề Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và
những ám ảnh nghệ thuật [20].
Nhìn chung, những sách này chủ yếu tập hợp bài viết của bạn bè, đồng nghiệp, của
một số nhà báo và một vài nhà nghiên cứu văn học. Những bài viết hầu hết có dung lượng
nhỏ, chủ yếu kể về những kỉ niệm, bày tỏ cảm xúc, ấn tượng đối với nhạc sĩ và những hình
ảnh trong các bài hát của ông. Một số tác giả đã đi vào cảm nhận cái hay cái đẹp của ca từ,
thể hiện sự đồng cảm về thân phận con người trong chiến tranh qua một vài ca khúc phản
chiến, cảm nhận về nỗi đau trong tình yêu nhân thế, và những phát hiện về tính triết lý… Có
rất ít những bài viết mang tính chất nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ (ca từ), lại càng
hiếm những bài viết về con người thân phận và tình yêu một cách có hệ thống, chặt chẽ.
Cuốn sách mang tính chuyên luận đầu tiên nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn có tựa đề
Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật do nhà văn Bùi Vĩnh Phúc viết.
Tập chuyên luận có dung lượng 327 trang, gồm 6 chương, trong đó tác giả đã dành hẳn một
chương (chương 1) để viết về những ám ảnh nghệ thuật, đó là những ám ảnh về chiến tranh,
về sự cô đơn, sự phụ rẫy trong tình yêu, về sự gắn bó với một người nữ, về thân phận con
người, về cái vô thường của đời sống. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề thân phận con

người và tình yêu, nhưng còn khái quát, chung chung. Ông chỉ dừng lại ở việc phân tích một
vài ca khúc, lẩy ra một vài ví dụ minh họa cho luận điểm của mình, chứ chưa đi sâu vào tìm
hiểu về con người thân phận với tư cách là con người dân tộc cụ thể, con người Việt Nam
với những đau thương, mất mát trong cuộc chiến tranh. Ông cũng chưa đi sâu vào tìm hiểu
mảng ca khúc về tình yêu nam nữ với những nội dung phong phú vốn có của nó. Song có
thể nói, đây là tập chuyên luận khá hay và có giá trị về học thuật.
Ngoài những cuốn sách kể trên, phải kể đến cuốn luận văn thạc sĩ chuyên nghành lý
luận ngôn ngữ của Nguyễn Thị Bích Hạnh, đại học sư phạm Hà Nội (2008) với đề tài Hệ
thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống hóa
những biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn, sắp xếp chúng theo hệ thống, từ hệ thống
những biểu tượng trực quan đến những hệ thống biểu tượng phi trực quan và chuyển hóa
giữa chúng. Từ đó soi chiếu, giải mã các biểu tượng trong hệ thống, góp phần làm sáng rõ
thế giới nghệ thuật và thế giới tinh thần của người nghệ sĩ. Luận văn này sau đó đã được
xuất bản thành sách với tựa đề Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn [9],
10


sau đó cuốn sách này được bổ sung thêm một số nội dung và tái bản với tựa đề Trịnh Công
Sơn - hạt bụi trong cõi thiên thu [10].
Kế đến là luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn học Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị
Thanh Thúy, đại học Quy Nhơn với đề tài cũng gần gũi với đề tài của chúng tôi, đó là Thân
phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Tập luận văn này sau đó cũng đã
được bổ sung và xuất bản thành cuốn sách Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng, lấy tên tác
giả là Ban Mai. Cuốn sách này khi xuất bản đã gặp phải sự cố và bị đình bản. Chúng tôi
cũng đã đọc qua để xem xét một cách cẩn trọng, tránh mắc những sai lầm, thiếu sót, khi
triển khai luận văn của mình.
Luận văn của tác giả Thanh Thúy nghiên cứu về diện là chủ yếu mà ít đi vào phân tích
về điểm. Mặt khác, những nội dung mà luận văn này triển khai cũng khác với nội dung luận
văn mà chúng tôi nghiên cứu. Ở phần một, tác giả đi vào những nội dung chính như tình
hình nghiên cứu Trịnh Công Sơn trong và ngoài nước; quá trình hoạt động tranh đấu và

sáng tác theo thời gian; tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn trước và sau 1975; Trịnh Công
Sơn và chiến tranh Việt Nam; tình yêu và nỗi cô đơn, ám ảnh về cái chết; lí thuyết ca
từ…Tóm lại, luận văn này khai thác vấn đề rất khái quát, song có ưu điểm là nguồn tư liệu
phong phú và dồi dào.
Cuối cùng, về công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài, phải kể đến luận án tiến sĩ
của tác giả Michiko Yoshii (người Nhật) với đề tài Ca từ trong nhạc phản chiến của Trịnh
Công Sơn tại trường đại học Paris VII, Pháp (7/1991). Tác giả đã bảo vệ thành công bằng
tiếng Pháp và đề tài được đánh giá rất cao.
Tóm lại, nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trước cũng đã đề cập đến vấn đề
thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn, nhưng họ chỉ đi khái quát, sơ
lược, chung chung, hoặc đi quá rộng, phân tích có diện, mà chưa có điểm. Chưa đi sâu phân
tích một cách sâu sắc, có hệ thống vấn đề con người thân phận với tư cách là con người dân
tộc cụ thể, với những đau thương, mất mát trong chiến tranh và tình yêu đôi lứa với muôn
vàn trạng thái, cảm xúc phức tạp của nó.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - miêu tả được chúng tôi sử dụng chủ yếu trong trường hợp
cần tái hiện những kiểu con người thân phận cụ thể như người mẹ, người vợ trong chiến
tranh, người già và em bé,…trong tương quan với không gian hủy diệt của chiến tranh. Qua
11


đó thấy được bản chất bạo tàn, phi nghĩa của chiến tranh xâm lược gây ra cho con người. Từ
đó ta mới thấy được cái bi kịch thân phận như một định mệnh mà con người là nạn nhân
không lối thoát.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu dùng trong nhiều trường hợp. Thứ nhất, dùng để
tìm ra những tương đồng và dị biệt trong tư tưởng Trịnh Công Sơn về thân phận so với các
trào lưu tư tưởng, triết học khác như Hiện Sinh, Phật giáo. Từ đó thấy được ảnh hưởng của
Phật giáo lên thế giới quan của ông. Thứ hai, so sánh, đặt hình tượng nữ của Trịnh bên cạnh
người nữ của Nguyễn Du để thấy được chất kì ảo trong thủ pháp xây dựng hình tượng của

Trịnh Công Sơn và chất hiện thực ở hình tượng nữ của Nguyễn Du. So sánh Trịnh với
Kawabata để thấy được nét tương đồng giữa hai thiên tài này trong quan niệm thẫm mỹ, đó
là cái đẹp thường phảng phất nỗi buồn và mong manh.
- Phương pháp thống kê - định lượng được dùng để: (1) Khảo sát, thống kê tần số
xuất hiện của đại từ tôi và anh trong hệ thống ca khúc Trịnh Công Sơn. Qua sự khảo sát
định lượng ấy, thấy được định mệnh dở dang, cô đơn truyền kiếp ngầm dự báo trong cách
xưng hô đặc biệt ấy của ông với người tình. (2) Thống kê những tính từ âm tính, những từ
ngữ lạ, để từ đó có thể đưa ra những nhận xét khách quan về kiểu tư duy, quan niệm về hình
tượng nghệ thuật, khuynh hướng thẫm mỹ cũng như đặc trưng của hình tượng trong các tác
phẩm của Trịnh Công Sơn. Hơn nữa, còn thấy được khả năng sáng tạo ngôn từ phong phú,
độc đáo của ông.
- Phương pháp liên ngành bao gồm sự tìm hiểu về tiểu sử, các quá trình hoạt động
nghệ thuật và “dấn thân” của Trịnh Công Sơn. Tìm hiểu những bài viết, các cuộc phỏng vấn
trên truyền hình của tác giả… nhằm đưa ra những kết luận về sự hình thành tư tưởng, quan
niệm thẫm mĩ, cũng như ý nghĩa ẩn dụ của những từ ngữ khó hiểu trong các tác phẩm của
ông.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lí luận
Đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề thân phận con người và tình yêu trong ca từ
Trịnh Công sơn, nhưng hầu hết các công trình hoặc đi quá khái quát, sơ lược, theo chiều
rộng, hoặc còn rời rạc, chưa phân tích một cách có tính hệ thống, có chiều sâu. Do đó, đề tài
này sẽ không đi rộng như của các tác giả khác, mà sẽ đi theo một phạm vi hẹp và có chiều
sâu, cũng như sẽ đưa ra một vài gợi ý có tính chất gợi mở về cách dùng một số từ ngữ, khái
12


niệm… trong ca từ của Trịnh Công Sơn. Kết quả của luận văn sẽ là một đóng góp mới vào
việc tìm hiểu về giá trị văn bản nghệ thuật dưới góc nhìn văn học, quan niệm nghệ thuật về
con người và tình yêu.

- Về mặt thực tiễn
Nói đến nhạc Trịnh là nói đến một dòng nhạc riêng biệt, độc đáo và có tính nghệ thuật,
tính hàn lâm rất cao. Đôi khi ta chỉ biết hay mà không thể lí giải, cắt nghĩa theo tư duy thông
thường. Do đó, về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho những người
quan tâm đến thế giới âm nhạc Trịnh Công Sơn có cái nhìn đa chiều, sâu sắc và có hệ thống
hơn về giá trị các tác phẩm nhạc - thơ của Trịnh, mà trong đó, ngoài đóng góp về các thủ
pháp nghệ thuật mới, lạ, độc đáo, còn phải kể đến nội dung tư tưởng, thế giới quan, nhân
sinh quan của tác giả. Đồng thời nó gợi mở cho những người yêu thơ - nhạc của Trịnh
những cách hiểu sâu hơn về tình yêu, thân phận, cũng như quan niệm thẫm mĩ của tác giả.
Để từ đó ta biết rung cảm, biết thưởng thức cái hay, cái đẹp của nhạc Trịnh. Đó cũng là khả
năng gợi tả vô cùng phong phú, sự giàu có của tiếng Việt.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm

3

chương như sau:
Chương 1: Con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn
Chương 2: Tình yêu nam nữ trong ca từ Trịnh Công Sơn
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện con người thân phận và tình yêu nam nữ
từ Trịnh Công Sơn.

13

trong ca


CHƯƠNG 1: CON NGƯỜI THÂN PHẬN TRONG CA TỪ TRỊNH
CÔNG SƠN

Mở đầu
Con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn được quan niệm như là một kiểu con
người thiên về xu hướng âm bản, với những nỗi khổ đau, bất hạnh… Song, căn cứ theo từng
giai đoạn sáng tác, chúng tôi phân ra làm hai biểu hiện cơ bản của dạng người này: (1) con
người thân phận trong giai đoạn chiến tranh với những đau thương mất mát, và (2) con
người thân phận trong cuộc sống đời thường gắn với những quan niệm có tính chất triết lí,
suy niệm về cõi nhân sinh, về kiếp người. Vì vậy, có thể nói, con người thân phận trong ca
từ Trịnh Công Sơn có tính hệ thống chặt chẽ. Ngay cả mảng ca khúc tình yêu, thì trong tình
yêu cũng có thân phận nữa. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày một số khái niệm của đề tài cùng
những quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người thân phận, được trích dẫn từ trong các
tập hồi kí, các tập giới thiệu ca khúc của ông.

1.1. Một số khái niệm của đề tài
1.1.1. Về vấn đề Con người thân phận và Thân phận con người
Vấn đề thân phận con người là điều gì đó vừa cụ thể nhưng lại cũng vừa bao la, vượt
quá tầm hiểu biết của con người. Thân phận con người là những gì ta trải nghiệm mỗi ngày.
Xoay quanh thân phận con người và ý nghĩa đời người, luôn tồn tại những câu hỏi làm con
người không ngừng băn khoăn đi tìm kiếm sự giải đáp.
Trong hành trình làm người, có lúc ta phải dừng lại và tự vấn: Ta là ai? Ta từ đâu đến
và sẽ đi về đâu? Sứ mệnh của ta giữa đời này là gì?... Những câu hỏi ấy đã xuất hiện từ buổi
bình minh của loài người. Bởi chúng là những câu hỏi có tính chất truy vấn bản thể, truy tìm
đến tận cùng bản thể con người.
Thân phận con người được phản ánh trong triết học Phật giáo. Vấn đề thân phận được
phản ánh trong giáo lí Tứ Diệu Đế, biểu hiện tập trung ở Khổ Đế. Phật quan niệm đời sống
con người, thân phận con người về căn bản là khổ đau. Có người cho rằng, Phật chủ trương
như vậy là bi quan, yếm thế. Thực ra, Phật nhìn nhận cuộc sống, thân phận con người một
cách khách quan. Không ru người ta vào giấc mơ ở cõi Niết Bàn hay miền Cực Lạc, cũng
không làm cho người ta bi quan trong cuộc sống. Phật chỉ dạy cho con người thức tỉnh, nhận
thức rõ cuộc đời, thân phận theo đúng chân tướng của nó. Từ đó chỉ dẫn họ đi tìm con
14



đường giải thoát.
Quan niệm về thân phận con người trong triết học Phật giáo thiên về xu hướng âm
tính: khổ đau, bất hạnh. Đó là những gì Phật đã nghiệm chứng. Người đời sống phần lớn chỉ
lo tham lam hưởng thụ. Họ cho rằng cuộc đời là một bữa tiệc bất tận mà không ý thức được
cái lạc thú ấy chỉ là khoảnh khắc, chóng tàn chóng mất. Một ngày nào đó cái vô thường ập
đến thì con người sẽ rơi vào bể khổ trầm luân.
Từ ý thức về thân phận con người như vậy, Phật đã đi tìm nguyên nhân khiến con
người khổ đau, bất hạnh. Ngài cho rằng có vô vàn nguyên nhân, nhưng có ba nguyên nhân
chính, đó là Tham - Sân – Si (Tham: lòng tham; Sân: nóng vội, vội vàng, hấp tấp; Si: quá si
mê, đắm đuối một điều gì đó). Ba thứ này Phật gọi là tam độc, đó là nguồn gốc, căn nguyên
của mọi khổ đau. Mà nguyên nhân dẫn đến tam độc chính là ái dục và vô minh, được mô tả
trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + vô minh = sự khổ đau
Ái dục = tình ái + dục vọng, ham muốn;
Vô minh: không sáng suốt, lí trí;
Nghiệp: việc làm, hành động cụ thể.
Vì vậy, Phật đã đề ra triết lí diệt dục: diệt cái đắm mê ngũ dục phong bế đầu óc con
người để giải thoát họ khỏi khổ đau. Bởi con người càng thoát khỏi ham muốn bao nhiêu thì
càng bớt khổ đau bấy nhiêu và gần suối nguồn hạnh phúc hơn.
Vấn đề thân phận con người cũng được đề cập trong chủ nghĩa Hiện Sinh. Thực sự,
chỉ đến chủ nghĩa Hiện Sinh thì thân phận con người mới trở thành tâm điểm và được đưa
ra bàn luận một cách rốt ráo, cả trong triết học lẫn văn chương. Những câu hỏi lớn về bản
ngã, ý nghĩa đời sống đã được nêu ra từ lâu. Song phải đến thế kỉ XX - thế kỉ của hai cuộc
đại chiến mà hậu quả là sự hủy diệt sinh mạng và sự sụp đổ niềm tin của con người trước
một thế giới đầy tội ác do chủ nghĩa Phát xít gây ra - thì những câu hỏi ấy mới được các
nhà Hiện Sinh nêu lên một cách cấp bách. Thân phận con người giờ đây đã trở thành vấn đề
lớn của nhân loại.

Cụm từ thân phận con người xuất hiện trong các tác phẩm triết học và văn học Hiện
Sinh. Đầu tiên, nó xuất hiện với tư cách nhan đề bộ tiểu thuyết của nhà văn Pháp André
Malraux (1901-1976), nguyên văn tiếng Pháp là La condition humaine (condition: vị trí,
thân phận, thân thế; humaine: con người, loài người). Tác phẩm đoạt giải thưởng GonCourt
15


(1933). Vấn đề thân phận con người cũng được tái hiện trong tác phẩm của các triết gia
khác như Augustine, Kieekegard, Heiderger. Họ có điểm giống nhau, đó là nỗi khắc khoải
khi nêu lên những câu hỏi có tính chất suy tư về hữu thể, mặc dù họ rất khác biệt nhau về
thời đại và hoàn cảnh sống.
Về văn chương Hiện Sinh, thân phận con người được phản ánh trong hàng loạt nhân
vật với những biểu hiện khác nhau. Người viết tác phẩm đậm chất Hiện Sinh, bi đát về phận
người nhất có lẽ là Frank Kafka. Tác phẩm của ông, nhất là hai truyện Vụ án và Lâu đài, đã
mở ra trước mắt người đọc một thế giới hoàn toàn phi lí, thế giới mà con người là nạn nhân
của hoàn cảnh xã hội. Cuộc sống không có sự đãm bão. Con người không được luật pháp
bảo vệ. Họ có thể bị buộc tội bất cứ lúc nào, không có quyền được khiếu nại, không được
đem ra xét xử. Người ta không thể hiểu được thế giới ấy như thế nào, chỉ biết rằng sinh
mệnh của mình đang trong tình trạng bị kết án và treo lơ lửng. JoJefk K và K là những nhân
vật tượng trưng cho thân phận bi đát, bị giam hãm trong thế giới đầy nghịch lí: cô đơn, bất
lực trước thực tại và thường trực nỗi lo âu, bất an về số phận của chính mình.
Thân phận con người trong sáng tác của A. Camus thì lại khác. Ở Camus, cảm giác về
sự phi lí là khởi nguồn cho lối sống hiện sinh: sự nổi loạn. MeurSailt trong Người xa lạ đã
bộc lộ những tình cảm khác thường với thế giới xung quanh, coi tình mẫu tử, tình yêu, hành
vi giết người, cái chết bản thân, chẳng gì đáng quan trọng cả. Nhân vật của Camus đã nổi
loạn, khước từ những chuẩn mực xã hội, muốn sống thực với chính mình, vì vậy đã trở
thành kẻ xa lạ, lạc loài với xã hội và bị lên án.
Và còn vô số những nhân vật, những kiểu con người thân phận trong các tác phẩm
khác: Caligula, Dịch hạch, Buồn nôn… Tóm lại, con người trong chủ nghĩa Hiện Sinh là
những kiểu con người bi kịch, bị đọa đày bởi hoàn cảnh, kiểu con người bất lực và vô vọng

trước đời sống.
Trên đây là vấn đề thân phận con người trong triết học và tôn giáo. Bây giờ chúng ta
sẽ cùng tìm hiểu quan niệm về thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Trong cuộc
sống hàng ngày, chúng ta cũng hay nhắc và nói đến “thân phận con người”. Nó được dùng
với nghĩa tương đương như số phận, số mệnh. Để hiểu rõ nội dung của cụm từ này, chúng ta
cần khu biệt, tìm ra nội hàm của chúng.
Trước hết, cụm từ “thân phận con người” hàm chứa một nội dung rộng lớn, mang ý
nghĩa phổ quát: đó là cuộc sống con người với những niềm vui, hạnh phúc, hoan lạc lẫn cả
những nỗi khổ đau, bất hạnh, sầu não.
16


Thứ nữa, cụm từ “thân phận con người” không chỉ dùng để mô tả trạng huống đời
sống tinh thần, tình cảm con người mà còn được dùng để phản ánh trạng thái đời sống vật
chất nữa: thân phận con người bao gồm giàu - nghèo; quyền quý, cao sang hay bần tiện,
bình dân. Vì vậy trong cuộc sống, ta vẫn thường nghe những câu nói cửa miệng đại loại
như: thân phận con người mà - giàu ăn khó chịu hay số phận con người mà - trời cho ai nấy
hưởng…
Tóm lại, nghĩa của cụm từ “thân phận con người” rất khái quát, bao gồm cả đời sống
tinh thần lẫn đời sống vật chất; cả những đặc trưng âm tính và dương tính – mang ý nghĩa
rộng, như chúng tôi đã phân tích ở trên.
Vấn đề thân phận con người trong ca khúc Trịnh Công Sơn, xưa nay cũng đã có một
số công trình, tạp chí đề cập và gọi bằng những cụm từ như thân phận con người hay thân
phận mà chúng ta đã nghe rất quen thuộc. Chẳng hạn, Phạm Duy đăng trên tạp chí Văn (5,
6/2001, Mỹ) bài viết tựa đề Nhạc Trịnh Công Sơn - Tình yêu và Thân phận. Tạp chí Văn
học (10, 11/2001, Mỹ) đăng bài viết tựa đề Trịnh Công Sơn - Tình yêu - Quê hương - Thân
phận. Nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu cũng đăng trên Việt Báo (4/2007)
bài viết nhan đề Thân phận, quê hương và tình yêu trong ca khúc Trịnh Công Sơn. Và nhiều
công trình khác…
Về mảng luận văn, luận án, tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy, đại học Quy Nhơn cũng

đã làm luận văn thạc sĩ với đề tài Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công
Sơn.
Như vậy, các tác giả trước đã dùng cụm từ thân phận con người, hay thân phận. Ta dễ
dàng xác định được, xét về mặt từ loại, chữ thân phận tồn tại khách quan như một danh từ,
và nó mang một ý nghĩa khái quát, chung chung.
Vậy lí do nào, và tại sao chúng tôi chọn và đặt tên cho một trong hai nội dung trọng
tâm của luận văn (bên cạnh nội dung tình yêu nam – nữ) là con người thân phận chứ không
phải là thân phận con người như các tác giả trước đã làm?
Những công trình trước đây vẫn quen dùng cụm từ “thân phận con người”, khác với
luận văn của chúng tôi là “con người thân phận”. Sở dĩ chúng tôi đặt như vậy là vì những lí
do sau:
Thứ nhất, có sự khác nhau về nội hàm giữa hai cụm từ này. Trong cụm từ “thân phận
con người”, chữ thân phận tồn tại với tính cách là một danh từ, mang ý nghĩa khái quát, rất
rộng, bao gồm cả những đặc trưng âm bản, lẫn dương tính về số phận con người. Trong khi
17


đó, cụm từ “con người thân phận” mà chúng tôi dùng thì chữ thân phận tồn tại với tính cách
là một tính từ. Nó gợi ra thế giới con người với những đặc trưng âm bản, âm tính: những
con người buồn, cô đơn, đớn đau, bất hạnh. Như thế, cụm từ “con người thân phận” mang ý
nghĩa hẹp hơn mà lại sâu hơn so với nghĩa của cụm từ “thân phận con người”. Mà thế giới
con người trong ca từ Trịnh Công Sơn đa số là những con người thiên về nỗi bất hạnh, buồn
đau, cô đơn hơn là hạnh phúc. Do đó, chúng tôi cho rằng, dùng cụm từ “con người thân
phận” thì sẽ sát nghĩa và hợp lí hơn cách gọi truyền thống trước đây. Chúng tôi nghĩ, cách
dùng này sẽ chỉ ra được cái đặc trưng khu biệt về thế giới con người được phản ánh trong ca
từ Trịnh Công Sơn, đó là thế giới của những con người buồn.
Mặt khác, nội hàm hai cụm từ này còn có một sự khác biệt căn bản nữa. Nghĩa của
thân phận con người muốn ám chỉ đời sống cá nhân con người theo một quá trình thời gian,
trong sự tương tác với môi trường, hoàn cảnh sống. Nghĩa là, khi sinh ra, con người chưa có
thân phận, mà ai cũng như nhau cả. Nhưng theo thời gian, theo tuổi tác, theo hoàn cảnh

sống (hoàn cảnh gian đình, xã hội và cả hoàn cảnh tự nhiên), qua quá trình thích nghi, mà
làm cho con người có một số phận riêng. Như vậy, nói đến thân phận con người là muốn
nhấn mạnh đến sự tác động, ảnh hưởng qua-lại, hai chiều giữa hoàn cảnh và tính cách để tạo
nên vòng đời, số phận và nét riêng ở mỗi con người. Còn con người thân phận thì khác, nó
muốn ám chỉ cái số phận bi kịch, bất hạnh mà ngay khi con người mới sinh ra đã có. Khi
mới sinh ra, con người đã bị hoàn cảnh áp đặt ngay lên mình một bi kịch như mà một định
mệnh rồi, chứ không cần sống, tương tác với ngoại cảnh mới có được. Ở đây là sự tác động
một chiều, và con người hoàn toàn thụ động. Thậm chí cái bi kịch, định mệnh buồn thảm đã
mang từ trong kiếp bào thai con người rồi. Như đứa bé trong ca từ Trịnh Công Sơn sinh ra
trong chiến tranh là đã lãnh nhận thân phận nô lệ tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp
người rồi vậy. Theo quan điểm của chúng tôi, đây mới là sự khác nhau căn bản nhất trong
nội hàm, ý nghĩa của hai cụm từ này.
Thứ hai, cụm từ “con người thân phận” chỉ ra và nhấn mạnh, thế giới con người trong
ca từ Trịnh Công Sơn hiện lên như là những bi kịch của thời đại. Con người là nạn nhân, là
những bi kịch số phận do hoàn cảnh gây ra. Hoàn cảnh ấy, không có gì khác, chính là cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ cùng các thế lực phản động gây ra ở miền Nam. Con
người bị tước đoạt đi những quyền căn bản nhất đó là quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh
phúc cá nhân mà đáng lẽ ra phải có được. Họ đã trở thành những khuôn mặt biến dạng, đau
thương của lịch sử dân tộc.
18


Thứ ba, xét hệ thống tác phẩm của Trịnh Công Sơn, từ những ca khúc đầu tiên đến
những ca khúc sau này, chúng tôi thấy rằng, con người xuất hiện trong các ca khúc hầu hết
là những con người buồn. Và hơn hết, những con người ấy được nhìn ngắm, được soi rọi,
được nghiền ngẫm qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Nói cách khác, con người
được nhìn nhận gắn với quan niệm cá nhân, với những chiêm nghiệm riêng tư, những trăn
trở riêng của người nghệ sĩ Trịnh Công Sơn. Kiểu con người này rất hiếm gặp ở những sáng
tác của những nhà thơ, nhạc sĩ khác.
Do đó, chúng tôi chọn đặt tên “con người thân phận”, chứ không phải là “thân phận

con người” một cách chung chung, truyền thống để khu biệt và chỉ ra nét đặc trưng trong
quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người. Qua đó thấy được sự khác nhau trong cái nhìn
về con người của ông so với con người trong những ca khúc, sáng tác của những nghệ sĩ
khác.
1.1.2. Về khái niệm tình yêu nam nữ
Tình yêu, như tên gọi của nó, đã trở thành một chủ đề quá quen thuộc, xưa cũ với con
người. Từ xưa đến nay, con người sống, tồn tại cùng với sự có mặt của tình yêu. Có thể nói,
nếu không có tình yêu thì sự sống của con người đáng buồn và kém ý nghĩa biết chừng nào.
Cuộc sống không thể thiếu tình yêu. Người ta đã bàn tán, ca tụng rất nhiều về tình yêu trong
đời sống hàng ngày. Sách báo viết về nó cũng đã tốn bao nhiêu giấy mực. Tình yêu từ cuộc
sống đời thường đã bước vào thi ca và được lãng mạn hóa qua lăng kính khúc xạ của nhiều
nghệ sĩ qua các thời đại.
Vậy tình yêu là gì? Đó là câu hỏi muôn đời. Thật khó để đưa ra một định nghĩa đầy đủ.
Vì vậy, để đi đến khái niệm tình yêu theo cách hiểu của chúng tôi, trước hết, chúng tôi sẽ đi
lược khảo một số quan niệm tình yêu của các nhà tư tưởng, dưới những góc nhìn khác nhau
như tôn giáo, tâm lí học, giáo dục học, để cuối cùng, chúng tôi rút ra được cái nhìn đa diện,
toàn diện về tình yêu nam nữ.
Đầu tiên, chúng ta cùng đi tìm hiểu về tình yêu trong quan niệm Phật giáo. Sở dĩ chọn
Phật giáo để khảo sát là vì chúng tôi thấy quan niệm tình yêu trong Phật giáo có những điểm
rất tiến bộ, phù hợp với truyền thống dân tộc và cũng có nét gần gũi với quan niệm về tình
yêu của Trịnh Công Sơn.
Phật giáo gọi tình yêu là ái dục: ái tình và dục vọng, ham muốn.
Theo quan niệm nhà Phật, tình yêu, lòng thương yêu giữa người nam và nữ là nhu cầu
19


tất yếu của con người. Trong tình yêu có hai yếu tố: tâm và thân. Tâm: tâm hồn, tâm tưởng,
tình cảm. Thân: thể xác, thân xác. Tâm–thân có mối quan hệ khăng khít: “tâm thân như
nhất”, nghĩa là tâm hồn và thể xác là một khối thống nhất.
Về tâm, tình yêu phải có sự hòa hợp trong tâm tưởng, tâm hồn, tính cách. Phải có sự

xẻ chia về tình cảm, tinh thần giữa hai người.
Về thân, tình yêu có gốc rễ về sinh lí, đó là nhu yếu tiếp nối, duy trì nòi giống bằng
cách chung đụng thân xác. Hành vi giao hợp là nhằm mục đích đó, chứ không đơn thuần là
để hưởng cảm giác khoái lạc.
Tình yêu đích thực phải có sự cung kính, tôn trọng lẫn nhau, “tương kính như tân”:
kính trọng mình và kính trọng người yêu mình (kính trọng cả thân và tâm). Muốn được
người yêu kính trọng thì bản thân mình phải tự kính trọng mình và kính trọng người ấy.
Kính trọng ở đây được hiểu là tôn trọng cả tâm hồn, lẫn thể xác người yêu (chỉ được quan
hệ thân xác khi đã kết hôn, đã là vợ chồng). Đây là một luận điểm mà chúng tôi thấy rất tiến
bộ, thể hiện tư tưởng bình đẳng nam - nữ trong tình yêu. Nó còn giữ nguyên ý nghĩa cho
đến ngày nay.
Trong tình yêu, con người cần phải hiểu, nghĩa là phải có sự đồng điệu về tâm hồn.
Hiểu niềm vui lẫn nỗi khổ của người mình yêu, để từ đó làm cho người ta vơi bớt nỗi khổ
đau và hạnh phúc hơn. Hiểu là rất quan trọng, và ta chỉ nhận lời yêu khi người đó có khả
năng hiểu mình, nếu không hiểu mà yêu liều thì sẽ bất hạnh.
Trong tình yêu, cần phải có tình thương chân thật, gọi là 4 yếu tố Từ - Bi - Hỉ - Xả, hay
còn gọi là tứ vô lượng tâm. Từ là khả năng đem lại hạnh phúc cho người khác. Ta phải xem
người kia có khả năng đem lại hạnh phúc cho ta hay không. Hạnh phúc ở đây không chỉ là
quan hệ thể xác mà còn là cảm giác hạnh phúc, bình an trong tâm hồn, mãn nguyện, vui vẻ,
được che chở khi sống bên nhau. Bi là khả năng làm cho người mình yêu bớt khổ, hết khổ.
Người yêu mình có những nỗi lo lắng, muộn phiền thì mình phải giúp họ vơi bớt đi nỗi khổ
đau. Hỉ là niềm vui. Hai người yêu nhau, bên nhau phải cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc. Xả là
sự hi sinh. Tình yêu không có sự ích kỉ, mà phải biết hi sinh vì người yêu. Phải xem nỗi khổ
đau của người kia và mình là một và phải cùng nhau giải quyết, không có thái độ ỉ lại.
Tóm lại, tình yêu theo quan niệm Phật giáo bao gồm những yếu tố hòa hợp thể xác và
cả yếu tố hòa hợp tâm hồn, tình cảm. Trong đó, phần tình cảm được chú trọng, nhấn mạnh
hơn. Như vậy, tình yêu đích thực đem lại sự thăng hoa, hạnh phúc lớn lao cho con người và
có ý nghĩa quan trọng trong đời sống. Trên đây là những luận điểm căn bản nhất về tình yêu
20



đôi lứa, theo quan niệm Phật giáo. Theo chúng tôi, chúng chứa đựng nhiều điểm tiến bộ,
vẫn còn nguyên ý nghĩa cho đến ngày nay.
Dưới góc nhìn tâm lí học, khái niệm tình yêu mang nghĩa hẹp là tình yêu nam nữ, có
bản chất là tình người và có mối quan hệ khăng khít với tình yêu nói chung. Nó là động lực
thúc đẩy và hoàn thiện các dạng tình yêu khác (tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước).
Trong cuốn Luận về tình yêu, Nguyễn Hoàng Đức viết:
Tình yêu (tình yêu lứa đôi hay tình yêu nam - nữ) là cánh cửa để mở mọi cánh
cửa. Muốn yêu nhân loại, trước hết con người phải biết yêu nhân tình của mình, muốn
sống chân lí phải biết yêu chân lí, muốn hiểu biết thì hãy mở đầu yêu nhận thức, muốn
làm thi nhân thì hãy yêu cảm xúc của mình [4; tr.123].
Tâm lí học đại cương và tâm lí học phát triển nhấn mạnh rằng tình yêu là một đặc
trưng tâm lí ở tuổi thanh niên. Trong tâm lí học đại cương, Phạm Minh Hạc cho rằng tình
yêu là vấn đề muôn thuở của loài người, là sự phát triển hợp quy luật của tâm lí con người.
Còn Vũ Dũng cho rằng tình yêu là tình cảm mãnh liệt đắm say và tương đối bền vững được
tạo nên do những nhu cầu ẩn dấu sắc thái sinh lí của chủ thể. Tóm lại, tâm lí học quan niệm
tình yêu là một dạng tình cảm đặc biệt giữa hai người khác giới, thể hiện sự hòa hợp, cuốn
hút, say mê cả về thể xác lẫn tâm hồn.
Tình yêu nam - nữ còn được xem xét dưới góc nhìn giáo dục học. Nó là “mối quan hệ
liên nhân cách, là một loại tình cảm đạo đức. Tình cảm ấy là tình cảm tự nhiên, xuất hiện
đồng thời với sự xuất hiện của con người trên quả đất” [11; tr.2].
Nhà giáo dục Nga V. Xukhômdiuxki cho rằng tình yêu là biểu hiện nền văn hóa cao
cấp của nhân loại. Chỉ cần xem một người yêu đương ra sao, ta có thể kết luận đó là người
thế nào. Dưới cái nhìn của ông, tình yêu nam nữ là tình cảm thiêng liêng, mang bản chất
người. Và cách yêu cũng là dấu hiệu để phân biệt mức độ văn minh của con người. Theo
chúng tôi, đây là một quan niệm rất tiến bộ và sâu sắc.
Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, Hoàng Phê đã định nghĩa tình yêu là: “Tình cảm yêu
đương giữa nam và nữ”[21; tr.1052].
Qua những quan niệm về tình yêu trên đây, cuối cùng, chúng tôi rút ra được quan niệm
về tình yêu theo quan điểm riêng của chúng tôi như sau:

Tình yêu nam nữ là trạng thái tình cảm của một người nam với một người nữ ở
mức độ cao hơn sự thích thú thông thường, biểu hiện ở nguyện vọng, ý muốn được gắn
kết, hòa hợp với đối tượng ấy cả về mặt thể xác, thể chất lẫn tình cảm, tâm hồn. Tình
21


yêu là loại tình cảm chứa đựng những cảm xúc có tính chất phức hợp: cảm xúc về tâm
hồn tạo ra tình bạn; cảm xúc về tri thức tạo ra lòng kính trọng và ngưỡng mộ; cảm
xúc về thể xác tạo ta lòng ham muốn bản năng.
Trên đây là quan niệm riêng của chúng tôi về tình yêu. Với khái niệm này, chúng tôi
vận dụng để đi tìm hiểu về tình yêu nam nữ trong ca từ Trịnh Công Sơn.
1.1.3. Về khái niệm ca từ
Một bài hát, một tác phẩm âm nhạc (trừ nhạc không lời, nhạc giao hưởng, thính
phòng) bao gồm 2 yếu tố cấu thành: phần nhạc và phần lời. Phần nhạc bao gồm giai điệu,
tiết tấu… Phần lời chính là ca từ. Nói cách khác, trong âm nhạc, ca từ chính là phần lời của
bài hát.
Ca từ trong tác phẩm âm nhạc giữ một vai trò rất quan trọng. Nó bổ sung tính cụ thể,
sinh động cho hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Nói cách khác, nó làm nhiệm vụ, chức
năng như là người hướng dẫn, mở đường, phiên dịch hay “thuyết minh”, dẫn giải cho người
thưởng thức tác phẩm (khán - thính giả) bằng thứ ngôn ngữ phổ biến, phổ thông mà cộng
đồng đã quen sử dụng trong cuộc sống, giao tiếp hàng ngày.
Lại cần chú ý, không phải tác phẩm âm nhạc nào cũng có ca từ. Những nhạc phẩm
không lời, giao hưởng chỉ có duy nhất phần nhạc, tức là giai điệu, tiết tấu, nhịp điệu… còn
phần lời thì không tồn tại. Và người nghe chỉ thưởng thức sự mượt mà, du dương của phần
nhạc mà thôi. Ngược lại, một tác phẩm có đầy đủ cả phần nhạc và lời, song người nghe
chưa chắc đã hiểu được một cách trọn vẹn. Chẳng hạn, một người Việt Nam mù ngoại ngữ
mà nghe một bài hát bằng tiếng Anh, tiếng Pháp thì chắc chắn không tiếp thu được một cách
trọn vẹn ý nghĩa của bài hát. Sở dĩ như vậy là vì ca từ bài hát ấy không phải là tiếng Việt –
ngôn ngữ của chủ thể cảm nhận.
Ca từ có tác dụng môi giới, mở cửa cho hình tượng âm nhạc đi vào lòng người thưởng

ngoạn. Sở dĩ như vậy là vì, ngôn ngữ (bằng lời) là phương tiện giao tiếp phổ biến và quan
trọng nhất của con người. Trong một tác phẩm âm nhạc, phần nhạc (âm thanh) và phần lời
(ca từ) có mối quan hệ biện chứng, khăng khít với nhau, tương sinh với nhau, tựa như phần
“xác” và “hồn” của tác phẩm vậy.
Song trên thực tế, cũng có nhiều tác phẩm, khi ta tiến hành bóc tách phần ca từ ra khỏi
khuông nhạc thì nó vẫn có thể tồn tại được như những bài thơ. Bởi ca từ thấm đẫm chất thơ,
mang tính thơ: đẹp, lấp lánh, có tính hình tượng, có vần, nhịp và sử dụng các thủ pháp nghệ
22


thuật của thơ. Nó rất dễ dàng đi vào lòng người đọc, người nghe bởi tính chất mượt mà, trữ
tình và những tình ý, những ý nghĩa, thông điệp nhân văn sâu sắc mà người nhạc sĩ gửi gắm
vào trong tác phẩm của mình.
Ca từ không chỉ có tính biểu hiện và chất trữ tình mà trong một số tác phẩm nó còn
chứa đựng những yếu tố triết lí, triết luận về đời sống nhân sinh. Và người thưởng thức có
thể xem chúng như những câu châm ngôn, hay những đoạn thơ, bài thơ hay. Trong nền âm
nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ có những tác phẩm như vậy. Tác phẩm của
ông là sự kết hợp giữa chất lãng mạn, trữ tình với chất triết lí, suy tư về lẽ sống, đồng thời
lại mang âm hưởng bi kịch. Đó là nét riêng, độc đáo trong ca từ âm nhạc của Trịnh Công
Sơn mà không thể lầm lẫn với ai được.
Với những vai trò và chức năng quan trọng đã nêu trên đây, ta có thể khẳng định rằng
ca từ là một phần không thể thiếu được trong âm nhạc. Vậy ca từ trong âm nhạc là gì? Ở
đây, để tiện làm việc, chúng tôi chấp nhận quan niệm của nhà nghiên cứu âm nhạc Việt
Nam - Dương Viết Á:
Trong loại hình nghệ thuật âm nhạc, ngoài phần âm thanh đóng vai trò chính,
còn phải dùng đến ngôn ngữ, nói đúng hơn, đó là phần ngôn ngữ văn học trong âm
nhạc (lời ca trong ca khúc, hợp xướng, kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch, tên gọi,
tiêu đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chương nhạc…). Tất cả phần ngôn
ngữ văn học trong âm nhạc, ta gọi chung trong một khái niệm: ca từ [1; tr.13].
Với khái niệm nêu trên, áp dụng vào đề tài cụ thể nghiên cứu con người thân phận và

tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn, luận văn giới hạn nghiên cứu chỉ phần lời trong ca
khúc của ông.

1.2. Quan niệm của Trịnh Công Sơn về con người thân phận
Con người thân phận trong ca từ Trịnh Công Sơn là nạn nhân của cuộc chiến tranh
xâm lược do đế quốc Mỹ và tay sai gây ra ở miền Nam. Cuộc chiến leo thang ác liệt, số
phận quần chúng bị thử thách. Họ bị đàn áp, mất quyền tự do, thậm chí bị hủy diệt sinh
mạng. Chứng kiến những điều đau đớn lòng ấy, Trịnh Công Sơn đã viết nên các ca khúc
thức tỉnh, đồng thời đưa ra quan niệm của ông về con người. Chúng ta có thể tìm thấy
những quan niệm ấy trong lời tựa của các tập Kinh Việt Nam, Ca khúc da vàng, Ta phải
thấy mặt trời… và trong hồi kí của ông.
Từ 1965, khi quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, thân phận con người đã trở thành một
23


×