Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên một số trường đại học tại thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đinh Thị Thanh Ngọc

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH CỦA NỮ GIẢNG VIÊN
MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đinh Thị Thanh Ngọc

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH CỦA NỮ GIẢNG VIÊN
MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số

: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS HUỲNH VĂN SƠN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên một
số trường Đại học tại TP.HCM hiện nay” chính là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Tâm
lý học của tôi tại trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.
Tác giả

1


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn các quý thầy, cô của khoa Tâm lý - Giáo dục đã
nhiệt tình giảng dạy, mang đến cho tôi nhiều tri thức và góp phần to lớn vào sự phát triển
bản thân tôi ngày hôm nay. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến phòng Sau Đại học và
các phòng ban khác trong nhà trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học và
thực hiện luận văn tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Huỳnh Văn Sơn, người Thầy đã hết
lòng quan tâm, tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, các nữ giảng viên các trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn TP.HCM, Đại học Y dược TP.HCM, Đại học Bách khoa TP.HCM, Đại học
Sài Gòn, Đại học Kinh tế TP.HCM, Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM, Đại học Nông
Lâm TP.HCM đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi khảo sát, phỏng vấn để thực hiện nghiên

cứu này.
Tôi cũng cảm ơn tất cả các bạn, các anh chị học cùng lớp Cao học Tâm lý học khóa
22, những người đã thường xuyên chia sẻ, hỗ trợ tôi trong suốt quãng thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.
Sau cùng, tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, các bạn bè, các
đồng nghiệp tại khoa Giáo dục, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM đã
luôn đồng hành, động viên và giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập và
hoàn thành luận văn.
Đinh Thị Thanh Ngọc

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................ 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 6
2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................................... 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................................... 8
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ............................................................................. 8
5. Giả thuyết nghiên cứu................................................................................................... 8
6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 9
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 10

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ........................... 12
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH ............................................................ 12
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề định hướng giá trị chất lượng cuộc sống

gia đình .................................................................................................................................. 12
1.1.1. Một số nghiên cứu nước ngoài về chất lượng cuộc sống gia đình .................... 12
1.1.2. Một số nghiên cứu trong nước về định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia
đình ......................................................................................................................................... 15
1.2. Những vấn đề lý luận về ĐHGT chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng
viên ......................................................................................................................................... 22
1.2.1. Các khái niệm cơ bản ......................................................................................... 22
1.2.2. ĐHGT chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên ................................. 45

Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................... 54
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CHẤT LƯỢNG CUỘC
SỐNG GIA ĐÌNH CỦA NỮ GIẢNG VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................................................ 55
2.1. Khái quát chung về tổ chức nghiên cứu và khách thể nghiên cứu ...................... 55
2.1.1. Khái quát chung về tổ chức nghiên cứu ............................................................ 55
2.1.2. Khái quát chung về khách thể nghiên cứu ......................................................... 57
2.2. Thực trạng định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên
một số trường Đại học tại TP.HCM ................................................................................... 59
2.2.1. Nhận thức của nữ giảng viên một số trường Đại học tại TP.HCM về chất lượng
cuộc sống gia đình và sự lựa chọn các giá trị chất lượng cuộc sống gia đình ....................... 59
3


2.2.2. Thái độ và xu hướng hành vi thể hiện định hướng giá trị chất lượng cuộc sống
gia đình của nữ giảng viên ..................................................................................................... 81
2.2.3. Một số khó khăn của nữ giảng viên trong việc thực hiện định hướng giá trị chất
lượng cuộc sống gia đình ....................................................................................................... 92
2.2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành định hướng giá trị chất lượng cuộc
sống gia đình của nữ giảng viên ............................................................................................. 96


Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 100
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 104
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 109

4


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

CLCS

Chất lượng cuộc sống

2

CLCSGĐ

Chất lượng cuộc sống gia đình

3

ĐHGT

Định hướng giá trị


4

ĐLC

Độ lệch chuẩn

5

ĐTB

Điểm trung bình

6

GV

Giảng viên

7

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

8

%

Phần trăm


STT

5


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong vài thập niên trở lại đây, sự biến động của tình hình kinh tế xã hội thế giới
cộng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự giao thoa văn hóa đã tác động mạnh mẽ
đến hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Những thay đổi này mang đến cho Việt
Nam nhiều cơ hội tiếp xúc với các nền văn hóa mới nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức
trong việc thích nghi, hòa nhập với môi trường văn hóa quốc tế. Điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến sự chuyển biến trong hệ thống giá trị của xã hội và định hướng giá trị của các cá
nhân, chi phối sự lựa chọn, sự đánh giá, tính tích cực hoạt động của cá nhân đối với các khía
cạnh trong cuộc sống.
Những tác động của điều kiện kinh tế xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng
tới chất lượng cuộc sống của người dân nói riêng và mỗi gia đình nói chung. Trong chất
lượng cuộc sống của con người, chất lượng của cuộc sống gia đình là một thành phần hết
sức quan trọng, vì văn kiện đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Gia đình là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng
con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri
thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”
[12]. Khi xã hội có sự thay đổi, các gia đình cũng phải có những chuyển biến để thích nghi
với những điều kiện mới, phải có sự chọn lọc và giữ gìn các giá trị truyền thống và bổ sung
thêm các giá trị hiện đại vào đời sống gia đình. Tuy nhiên, những hiện tượng diễn ra gần
đây trong gia đình Việt Nam như tỉ lệ ly hôn tăng cao, các mối liên kết giữa các thành viên
ngày càng lỏng lẻo, vai trò giáo dục con cái của cha mẹ suy giảm do thiếu thời gian cho con,
các vấn đề tâm lý nảy sinh ngày càng nhiều trong thanh thiếu niên, vấn đề bạo hành trong

gia đình… khiến nhiều người không khỏi lo ngại về chất lượng cuộc sống gia đình ở Việt
Nam đang ngày càng xuống cấp. Trước thực trạng đó, Đảng ta đã xác định một trong những
nhiệm vụ trong Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là
“Xây dựng gia đình Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến” [7]. Do vậy, việc
nghiên cứu định hướng giá trị về chất lượng cuộc sống gia đình và xây dựng các giá trị
chuẩn của gia đình Việt Nam hiện đại là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.
6


Phụ nữ là những người đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc chăm sóc, đảm bảo
chất lượng cuộc sống gia đình, đặc biệt là theo quan niệm truyền thống của người Á Đông.
Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động
phụ nữ trong tình hình mới (1993) đã khẳng định: “Phụ nữ vừa là người lao động, vừa là
người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều
kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, điều kiện vật chất và tinh thần của phụ nữ có
ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển của thế hệ tương lai” [11]. Rõ ràng, định hướng giá trị
của phụ nữ Việt Nam hiện nay sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của các gia
đình Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Nhưng trong thực tế, các đề tài nghiên cứu về
định hướng giá trị của các lao động nữ, nữ công nhân, nữ cán bộ còn khá ít, đặc biệt là về
định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2012-2013, cả nước có 61.647
giảng viên Đại học, trong đó có 29.194 giảng viên nữ [69]. Con số trên cho thấy lực lượng
giảng viên nữ ngày càng đông đảo và vai trò của phụ nữ trong xã hội ngày càng được khẳng
định. Không chỉ đóng vai trò là một trí thức đóng góp tích cực trí lực, sức lực vào các hoạt
động kinh tế - xã hội, hoạt động giáo dục như nam giới, nữ giảng viên cũng đồng thời là
những người đảm nhận vai trò “người giữ lửa” khi xây dựng gia đình. Trong bối cảnh xã hội
hiện nay, những áp lực đặt lên vai các nữ giảng viên ngày càng lớn khi họ vừa phải thay đổi
để thích nghi với yêu cầu mới của xã hội, vừa đảm bảo công tác giảng dạy, quản lý, học tập
nâng cao trình độ tại nơi làm việc vừa phải làm tròn trách nhiệm của một người phụ nữ

trong gia đình. Do vậy, chất lượng giảng dạy, chất lượng làm việc của người nữ giảng viên
có sự liên quan mật thiết đến chất lượng cuộc sống gia đình của họ. Việc tìm hiểu về định
hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên sẽ là cơ sở để hiểu về những
diễn biến tâm lý, xu hướng hành vi của nữ giảng viên. Từ đó, Bộ Giáo dục - Đào tạo, các
lãnh đạo nhà trường có những sự định hướng và điều chỉnh đúng đắn, những chính sách phù
hợp giúp các nữ giảng viên nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình để yên tâm công tác và
cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển chất lượng dạy và học trong trường Cao đẳng, Đại
học.
Với điều kiện kinh tế xã hội có nhiều cơ hội và thách thức như hiện nay, sự định
hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của các nữ giảng viên sẽ có nhiều sự chuyển
biến phức tạp, cần được nghiên cứu, tìm hiểu. Tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), nơi
tập trung đông đảo các trường Cao đẳng, Đại học với lực lượng giảng viên đa lĩnh vực, đa
7


ngành nghề đến từ mọi miền của Tổ quốc, các nghiên cứu về định hướng giá trị chất lượng
cuộc sống gia đình của các nữ giảng viên vẫn còn rất hiếm hoi. Xuất phát từ thực tế đó,
chúng tôi lựa chọn đề tài: “Định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ
giảng viên một số trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”.

2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng về định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng
viên một số trường Đại học tại TP.HCM nhằm hỗ trợ các nữ giảng viên thực hiện định
hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình trong thực tế.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu các vấn đề lí luận về giá trị, định hướng giá trị, gia đình, cuộc sống
gia đình, chất lượng cuộc sống, chất lượng cuộc sống gia đình, nữ giảng viên và định hướng
giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên.
3.2. Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ

giảng viên một số trường Đại học tại TP.HCM và một số yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên.

4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên một số trường
Đại học tại TP.HCM.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Nữ giảng viên của một số trường Đại học tại TP.HCM.

5. Giả thuyết nghiên cứu
Trong định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên một số
trường Đại học tại TP.HCM hiện nay, các giá trị tinh thần được đánh giá cao hơn các giá trị
vật chất, các giá trị hướng đến toàn gia đình được coi trọng hơn các giá trị hướng đến các cá
nhân trong gia đình. Có sự khác biệt trong định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình
giữa các nhóm nữ giảng viên chưa lập gia đình và đã lập gia đình, giữa các nhóm tuổi tác
khác nhau, học vị khác nhau.

8


6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cách tiếp cận nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện dựa trên việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu với các hướng tiếp
cận sau:
-

Hướng tiếp cận hệ thống cấu trúc

Định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình được nghiên cứu như một bộ phận

trong định hướng giá trị chung của con người, và có sự liên quan chặt chẽ đến các khía cạnh
khác trong định hướng giá trị. Bản thân cuộc sống gia đình cũng được xem xét như một hệ
thống với nhiều thành tố và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài hệ thống.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của
nữ giảng viên được xem xét trên hệ thống nhận thức, thái độ, xu hướng hành vi của chủ thể.
-

Hướng tiếp cận xã hội - lịch sử

Định hướng giá trị của các nữ giảng viên về chất lượng cuộc sống gia đình được xem
xét trong sự ảnh hưởng của các nhân tố xã hội, môi trường, lịch sử của các giai đoạn khác
nhau. Từ hướng tiếp cận này, đề tài xem xét sự thay đổi trong việc lựa chọn các giá trị
truyền thống và hiện đại của các nữ giảng viên nhằm hướng tới chất lượng cuộc sống gia
đình, tìm ra các đặc trưng và xu thế lựa chọn, đánh giá các giá trị này trong bối cảnh của
thời đại hiện nay.
-

Hướng tiếp cận hoạt động - nhân cách

Sự định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng viên được thể hiện
thống nhất giữa các mặt tâm lý, ý thức, nhân cách và hoạt động. Sự định hướng giá trị này
được hình thành và phát triển thông qua định hướng giá trị nhân cách và các hoạt động của
con người, chủ yếu trong nghiên cứu này là hoạt động nghề nghiệp và hoạt động trong gia
đình của các nữ giảng viên. Do vậy, đề tài không chỉ khảo sát về nhận thức, thái độ mà còn
tìm hiểu định hướng giá trị được bộc lộ qua hành vi của các nữ giảng viên trong cuộc sống
gia đình.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài được thực hiện dựa trên việc phối hợp đồng bộ một số phương pháp: phương
pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn và
phương pháp thống kê toán học.

6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
9


Sưu tầm và nghiên cứu, phân tích các tài liệu lý luận và các kết quả nghiên cứu thực
tiễn (các công trình nghiên cứu, các tạp chí, bài báo, kỷ yếu hội thảo, bài viết trên các
website…) có liên quan đến đề tài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Bảng hỏi được thiết kế và điều tra
trên khách thể là 200 nữ giảng viên một số trường Đại học tại TP.HCM. Nội dung của bảng
hỏi nhằm tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình, một số khó
khăn trong việc thực hiện và một số yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị chất lượng
cuộc sống gia đình của nữ giảng viên tại TP.HCM.
6.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn một số nữ giảng viên của các trường đại học với các nhóm đối tượng khác
nhau (các nhóm nữ giảng viên thuộc các nhóm chưa lập gia đình và đã lập gia đình, các
nhóm tuổi tác khác nhau). Các dữ liệu thu được trong cuộc phỏng vấn được phân tích theo
phương pháp phân tích nội dung và sử dụng phối hợp với các dữ liệu định lượng để làm rõ
các vấn đề trong đề tài.
6.2.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Các thông tin định lượng được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để tính
tần số, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, độ lệch chuẩn, kiểm nghiệm T - Test, kiểm nghiệm
ANOVA… nhằm bình luận số liệu thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung: nghiên cứu về thực trạng định hướng giá trị chất lượng cuộc
sống gia đình của nữ giảng viên một số trường Đại học tại TP.HCM. Đề tài cũng chỉ nghiên
cứu nhận thức, thái độ và xu hướng hành vi trong định hướng giá trị chất lượng cuộc sống
gia đình của nữ giảng viên một số trường Đại học tại TP.HCM.

- Giới hạn khách thể nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên khách thể nghiên cứu là
200 nữ giảng viên của một số trường Đại học công lập tại TP.HCM.
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Đề tài chỉ thực hiện nghiên cứu một số trường Đại
học trên địa bàn TP.HCM, bao gồm: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM, Đại
học Y dược TP.HCM, Đại học Bách khoa TP.HCM, Đại học Sài Gòn, Đại học Kinh tế
TP.HCM, Đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM, Đại học Nông Lâm TP.HCM.
10


11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH

1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề định hướng giá trị chất lượng cuộc sống
gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là thiết chế xã hội cơ bản của xã hội loài người, sự phát
triển của gia đình có tác động vô cùng quan trọng đối với sự phát triển xã hội nói chung và
các khía cạnh trong cuộc sống của mỗi con người nói riêng. Do đó, cuộc sống gia đình là đề
tài được xem xét trong hầu hết các ngành khoa học xã hội và khoa học nhân văn của nhiều
quốc gia trên thế giới. Cùng với sự thay đổi của xã hội, cuộc sống của gia đình thời hiện đại
cũng bị tác động và có nhiều thay đổi phức tạp cần được nghiên cứu. Một trong những khía
cạnh tác động mạnh mẽ nhất đến cuộc sống gia đình trong xã hội hiện đại chính là quan
điểm, sự định hướng giá trị của các cá nhân về chất lượng cuộc sống gia đình. Chính sự
định hướng này sẽ là kim chỉ nam để xây dựng nên các gia đình của xã hội hiện tại và tương
lai. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề định
hướng giá trị (ĐHGT), chất lượng cuộc sống (CLCS), chất lượng cuộc sống gia đình
(CLCSGĐ) và định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình (ĐHGT CLCSGĐ).
1.1.1. Một số nghiên cứu nước ngoài về chất lượng cuộc sống gia đình

Ở nước ngoài, các nghiên cứu về chất lượng cuộc sống được bắt đầu từ những năm
60 của thế kỷ XX và liên tục được phát triển cho đến nay. Đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu trên thế giới, tại nhiều quốc gia khác nhau về CLCS, các nhà khoa học quan tâm đến
việc định nghĩa khái niệm CLCS, các lĩnh vực của CLCS, xây dựng các công cụ đo CLCS
và CLCS của các đối tượng khác nhau. Hiện nay, có nhiều bộ công cụ đo CLCS trên thế
giới, cụ thể như:
- Bộ công cụ đo của tác giả David Evans và Wendy Cope (1998) gồm 192 câu, tìm
hiểu về các nội dung: Đời sống vật chất, tinh thần, sự phát triển của cá nhân, quan hệ hôn
nhân, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ họ hàng, những quan hệ ngoài hôn nhân,
quan điểm chính trị, đặc điểm công việc, quan hệ nghề nghiệp, sự hài lòng trong công
việc, các hành vi về sáng tạo và thẩm mỹ, cách cư xử vị tha, những hoạt động thể thao, vui
chơi giải trí, và các ước vọng về mặt xã hội [68].
12


- Bộ công cụ đo của trường Đại học Wiscosin - Madison (Hoa Kỳ) tìm hiểu về
CLCS của các bệnh nhân có vấn đề về sức khỏe tâm thần thông qua các lĩnh vực: (1) Sự hài
lòng về cuộc sống nói chung; (2) Các hoạt động và nghề nghiệp; (3) Sự hài lòng, thoải mái
về tâm lý; (4) Sức khỏe thể chất; (5) Mối quan hệ / sự trợ giúp xã hội; (6) Kinh tế; (7) Hoạt
động hàng ngày; (8) Các triệu chứng bệnh lý và (9) Việc đạt được các mục tiêu [73].
- Bảng câu hỏi của Endicott J, Nee J, Harrison W, Blumenthal R. dùng để đo
CLCS qua sự hài lòng và thích thú của cá nhân đối với 8 mặt cơ bản: hoạt động / sức khỏe
thể chất; cảm xúc; công việc; việc nhà; học hành; các hoạt động vui chơi giải trí; các mối
quan hệ xã hội; các hoạt động chung [67].
Vấn đề CLCS đã được quan tâm nghiên cứu rộng rãi và thực hiện đo lường tại nhiều
nước trên thế giới. Cuốn sách Handbook of Social Indicators and Quality of Life Research
của Land, Kenneth C.; Michalos, Alex C.; Sirgy, M. Joseph (Eds.) (2012) đã cung cấp một
cái nhìn tổng quan về lịch sử phát triển của việc đo lường CLCS trong y học và sức khỏe
tâm thần cũng như các nghiên cứu có liên quan tới CLCS trong công việc. Cuốn sách cũng
đề cập đến một số khái niệm chính như hạnh phúc, tâm lý tích cực và sự thỏa mãn chủ quan,

các hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu CLCS. Ở chương cuối của sách, các tác giả
đã đưa ra một số bài nghiên cứu về các yếu tố của CLCS trên phạm vi nhiều quốc gia, dân
tộc [70].
Tuy việc nghiên cứu CLCS đã khá phát triển nhưng riêng nghiên cứu về khía cạnh
CLCS gia đình thì vẫn còn đang trong bước đầu hình thành, số lượng các nghiên cứu còn ít
ỏi, hướng nghiên cứu còn hạn chế. Trên thế giới, hướng nghiên cứu phổ biến nhất là nghiên
cứu CLCSGĐ của các gia đình có con cái, người thân là người khuyết tật. CLCSGĐ được
xem xét như kết quả của một chính sách xã hội và việc nghiên cứu CLCSGĐ là nhằm mục
đích có được các thông tin để đánh giá hiệu quả về sự hỗ trợ về xã hội, y tế, giáo dục mà gia
đình nhận được từ các cơ quan hữu quan của Chính phủ.
Tiêu biểu trong các nghiên cứu về CLCSGĐ, phải nói đến dự án nghiên cứu
CLCSGĐ của National Medical Center & Beckman Research Institute của Hoa Kỳ,
nghiên cứu trên gia đình của các bệnh nhân ung thư. Phiên bản nghiên cứu CLCSGĐ được
thiết kế phỏng theo phiên bản nghiên cứu CLCS dành cho bệnh nhân. Công cụ nghiên cứu
đã được đưa ra và thử nghiệm từ năm 1994-1998 với 219 gia đình bệnh nhân ung thư. Bảng
hỏi được thiết kế có 37 câu hỏi dạng thang đo mức độ từ 1 đến 10, dựa trên 4 khía cạnh của
CLCS: Sự hài lòng, thoải mái về thể chất; Sự hài lòng, thoải mái về tâm lý, Các mối quan
13


tâm xã hội và Sự hài lòng, thoải mái về tinh thần [64].
Năm 1997, các nhà nghiên cứu từ Úc (Brown, Davey, Shearer và Kyrkou), Canada
(Brown, Isaacs, McCormack, Baum và Renwick) và Israel (Neikrug, Judes, Roth và Krauss)
đã khởi đầu Dự án nghiên cứu quốc tế về CLCSGĐ (International Family Quality of Life
Project) nghiên cứu CLCSGĐ của các gia đình có một hoặc nhiều thành viên bị thiểu năng
trí tuệ. Dự án được dẫn dắt bởi các nhà nghiên cứu Canada tại Trung tâm Surrey Place,
Trung tâm điều trị MukiBaum Centres, và các khoa thuộc Đại học Toronto và Đại học
Victoria. Cho đến hiện nay, đã có hơn 20 quốc gia trên thế giới tham gia vào dự án này.
Mục tiêu nghiên cứu là nhằm tìm hiểu về thực trạng CLCSGĐ của những đối tượng gia đình
có người bị thiểu năng trí tuệ, xem xét CLCSGĐ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ yếu nào

và những khó khăn mà họ phải đối mặt là gì. Từ đó, nhà nghiên cứu sẽ xác định được nhu
cầu của đối tượng và các vấn đề bức thiết để hỗ trợ cho cuộc sống gia đình của họ.
Bảng hỏi có 2 phiên bản: phiên bản dành cho người chăm sóc chính trong gia đình
(đối với bệnh nhân thiểu năng trí tuệ) và phiên bản chung (dành cho những gia đình bình
thường). Trong khoảng năm 2009-2011, bảng hỏi này đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, và
được biến đổi sang một số phiên bản khác với các dạng như: phiên bản tóm lược, phiên bản
dành cho trẻ em… Bảng hỏi được thiết kế thành 3 phần: phần 1 là giới thiệu về các thành
viên gia đình; phần 2 gồm có các câu hỏi để thu thập các thông tin và các câu hỏi liên quan
tới 6 khái niệm cốt lõi: tầm quan trọng, các cơ hội, sự chủ động, sự duy trì, sự ổn định và sự
hài lòng về 9 khía cạnh của cuộc sống gia đình gồm: sức khỏe; sự hài lòng; sự thỏa mãn về
vấn đề tài chính; các mối quan hệ gia đình; sự hỗ trợ từ những người khác; sự hỗ trợ từ các
dịch vụ; sự ảnh hưởng của các giá trị; nghề nghiệp; thư giãn và tái tạo sức lao động và sự
hòa nhập cộng đồng; phần 3 là khảo sát những ấn tượng chung về chất lượng cuộc sống gia
đình [66].
Trong bài viết “Chất lượng cuộc sống gia đình: một cuộc điều tra định tính”
(Family Quality of Life: A Qualitative Inquiry) đăng trên tạp chí Hiệp hội chậm phát triển
tâm thần Mỹ của nhóm tác giả Denise Poston, Ann Turnbull, Jiyeon Park, Hasheem
Mannan, Janet Marquis và Mian Wang (2003), các tác giả đã điều tra về CLCSGĐ tập trung
vào phỏng vấn nhóm và phỏng vấn cá nhân với 187 cá nhân thuộc các gia đình có trẻ bị
khuyết tật và cả các gia đình không có trẻ bị khuyết tật, những nhà cung cấp dịch vụ và các
nhà chức trách. Các tác giả quan niệm CLCSGĐ là sự tổng hợp CLCS của các thành viên
trong gia đình. Họ không trình bày rõ khái niệm về CLCSGĐ mà chỉ đưa ra các chỉ báo
14


nghiên cứu CLCSGĐ với 10 lĩnh vực tiêu chí, tập trung vào 2 khía cạnh là CLCS hướng
đến cá nhân và CLCS hướng đến gia đình. Có 6 lĩnh vực tiêu chí CLCS hướng đến cá nhân
là Sự hỗ trợ; Sự hài lòng, thoải mái về cảm xúc; Sức khỏe; Môi trường thể lý; Phúc lợi xã
hội và Sự hài lòng, thoải mái về xã hội. Các tiêu chí CLCS hướng đến toàn gia đình là 4 lĩnh
vực trong đời sống gia đình: Cuộc sống gia đình hàng ngày; Nuôi dạy con cái; Sự hài lòng,

thoải mái về tài chính; Tương tác trong gia đình [65].
Nói tóm lại, trên thế giới, việc nghiên cứu về CLCS đã bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XX
nhưng riêng việc nghiên cứu về CLCSGĐ thì chỉ mới được quan tâm trong khoảng vài chục
năm trở lại đây. Các nhà nghiên cứu trên thế giới tiếp cận theo nhiều hướng nghiên cứu
khác nhau, với các công cụ đo khác nhau để đo lường CLCSGĐ, tùy theo mục đích nghiên
cứu, khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu nhưng đều quan tâm nghiên cứu tổng thể
các khía cạnh của đời sống gia đình và thực trạng về việc bảo đảm đời sống vật chất lẫn tinh
thần của các thành viên trong gia đình.
1.1.2. Một số nghiên cứu trong nước về định hướng giá trị chất lượng cuộc sống
gia đình
a. Những nghiên cứu về vấn đề định hướng giá trị của con người
Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng triết học phương Đông lẫn phương Tây đều
quan tâm đến việc xác định các giá trị gốc, giá trị cốt lõi của con người. Từ các giá trị gốc
này mà các khái niệm tiếp theo như hệ giá trị, thang giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá
trị mới được hình thành. Từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, cùng với sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự toàn cầu hóa, ở nhiều nước trên thế giới và ở
nước ta, vấn đề về giá trị, thang giá trị, định hướng giá trị được quan tâm hơn bao giờ hết.
Tại Việt Nam, bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ XX, những đổi thay mạnh mẽ của
thời kỳ đổi mới, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã không chỉ tác
động vào đời sống vật chất mà còn tác động vào đời sống tinh thần, tư tưởng và định hướng
giá trị của người dân. Tiếp đó là ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đến
Việt Nam; bên cạnh nhiều cơ hội được mở ra cho đất nước thì cũng có rất nhiều thách thức
mà xã hội Việt Nam phải đối mặt, tiêu biểu là vấn đề ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai đến
con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các trào lưu phi văn
hóa và các tệ nạn xã hội như giết người, ma túy, mại dâm, nạo phá thai, quan hệ tình dục
bừa bãi, các hiện tượng tham nhũng, làm ăn gian dối, lối sống cá nhân, ích kỷ, vô trách
15


nhiệm, vô cảm… là những vấn đề có liên quan mật thiết đến định hướng giá trị của cá nhân

và xã hội, khiến cho việc nghiên cứu định hướng giá trị trở thành một nhu cầu bức thiết và
được đặc biệt quan tâm trong khoảng hơn hai mươi năm trở lại đây.
Nói về các nghiên cứu định hướng giá trị của người Việt Nam, phải kể đến công trình
nghiên cứu của tác giả Đào Duy Anh với “Việt Nam văn hóa sử cương” và tác giả Trần
Văn Giàu với “Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam”. Hai tác phẩm này đã chỉ ra các giá
trị văn hóa truyền thống, đặc trưng cho người Việt Nam. Trong “Việt Nam văn hóa sử
cương”, tác giả Đào Duy Anh nói đến 7 giá trị có thể xem là bản sắc văn hoá Việt: (1) “Sức
ký ức” (trí nhớ) tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; (2) Ham học, thích văn chương; (3) “Ít
mộng tưởng”; (4) “Sức làm việc khó nhọc”; (5) “Giỏi chịu… khổ và hay nhẫn nhục”; (6)
“Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”; (7) Khả năng “bắt
chước, thích ứng và dung hóa rất tài”. Còn tác giả Trần Văn Giàu trong cuốn “Giá trị tinh
thần của dân tộc Việt Nam” cũng nêu lên 7 giá trị mà ông cho là đặc thù của người Việt:
(1) Yêu nước; (2) Cần cù; (3) Anh hùng; (4) Sáng tạo; (5) Lạc quan; (6) Thương người; (7)
Vì nghĩa. Các nhận định trên có nhiều điểm trùng nhau, thể hiện những đặc trưng cơ bản
trong giá trị văn hóa người Việt; nhưng mặt khác cũng có nhiều điểm khác biệt và vẫn chưa
thật sự thuyết phục về tính khoa học [48].
Ở tầm vĩ mô, phải kể đến các chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX07 (1991-1995), KHXH-04 (1996-2000) và KX-05 (2001-2005) [16], [50], [52]. Trong số
các đề tài được thực hiện trong các chương trình nghiên cứu khoa học nói trên, đề tài “Giá
trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” mã số KX-07-04 do các tác giả
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang thực hiện (1995) đã nghiên cứu về nhân
cách con người Việt Nam trên ba khía cạnh là định hướng giá trị của nhân cách; khả năng,
tiềm năng của nhân cách; phẩm chất, hành vi, thói quen của nhân cách [52]. Đề tài “Tìm
hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, mã
số KX-07-10 do tác giả Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm (1994), được tiến hành nghiên cứu
trên đối tượng thanh niên Việt Nam thuộc nhiều tầng lớp như công nhân, nông dân, trí thức,
học sinh, sinh viên… với chủ đề chính là định hướng giá trị của thanh niên và nhu cầu,
nguyện vọng của thanh niên [50]. Bên cạnh đó, còn có đề tài hợp tác quốc tế với Viện
Nghiên cứu xã hội thuộc Đại học Michigan (Mỹ) “Nghiên cứu giá trị thế giới - Việt Nam
năm 2001” do nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Thụy Như Ngọc, Rusell J.Daiton tiến hành.
Đề tài đã khảo sát về sự hài lòng về chất lượng cuộc sống, quan hệ xã hội và gia đình, mức

16


độ quan tâm và sự tham gia trong lãnh vực chính trị, những giá trị kinh tế, niềm tin vào hệ
thống chính trị của người dân Việt Nam [16].
Các kết quả nghiên cứu của các chương trình nghiên cứu kể trên đã được tổng hợp
thành sách chuyên khảo “Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội
nhập” do các tác giả Phạm Minh Hạc và Thái Duy Tuyên chủ biên (2011). Nội dung của
cuốn sách có 3 chương, trong đó trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu giá trị và định
hướng giá trị; điều tra, khảo sát định hướng giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập; xử lý các số liệu điều tra. Kết quả đã cho thấy bức tranh chung về định
hướng giá trị của con người Việt Nam, trong đó đa phần vẫn coi trọng giá trị đạo đức hơn
giá trị kinh tế, nhưng đang có xu thế vận động về phía giá trị kinh tế, vật chất, thực dụng,
đặc biệt là ở thanh niên [16].
Bên cạnh các chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, đã có khá nhiều đề
tài cấp Bộ, các đề tài luận án tiến sĩ, phó tiến sĩ nghiên cứu về định hướng giá trị của các đối
tượng hẹp hơn như thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức, cán bộ công chức…
Luận án phó tiến sĩ Triết học “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” của tác giả Dương Tự Đam (1996) đã kế thừa các
kết quả nghiên cứu từ chương trình KX-07, và tiếp tục tìm hiểu về sự biến đổi định hướng
giá trị của thanh niên sinh viên trong sự tác động từ tình hình kinh tế xã hội mới của đất
nước lẫn trên thế giới [9].
Luận án phó tiến sĩ Tâm lý học “Những đặc trưng tâm lý của định hướng giá trị
của thanh niên Việt Nam hiện đại” của tác giả Lê Quang Sơn (1998) đã xem định hướng
giá trị như là những thái độ của nhân cách đối với bản thân và thế giới trong quá khứ, hiện
tại và tương lai được cấu trúc lại trong các thể nghiệm và biểu tượng của nhân cách. Hệ
thống thái độ này được cấu thành 5 nhóm thái độ: Thái độ đối với cái tôi - tên gọi - thân thể,
thái độ đối với sự công nhận từ phía xã hội, thái độ đối với “cái tôi giới tính”, thái độ đối
với quyền lợi và nghĩa vụ của mình, thời gian tâm lý (quá khứ, hiện tại, tương lai) [43].
Năm 2002, luận án tiến sĩ “Định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên hiện nay

trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước” của tác giả Đỗ Ngọc Hà [15] đã tiến
hành nghiên cứu trên 1700 các đối tượng thanh niên thuộc ba khu vực Bắc, Trung, Nam và
rút ra một số kết luận sau: thanh niên nhìn nhận vấn đề bản chất cuộc sống tích cực và duy
vật hơn, thừa nhận sự thành công trong cuộc sống là do sự nỗ lực của bản thân hơn là sự
phụ thuộc hay là do số phận hoặc sự may rủi nào đó; mặc dù có sự thống nhất về những giá
17


trị chung ở thanh niên, tuy nhiên có sự đa dạng hóa trong định hướng giá trị của thanh niên
ở các vùng khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau và nghề nghiệp khác nhau; hệ thống định
hướng giá trị của thanh niên có tính mâu thuẫn nội tại của nó, song có thể nói đây là những
nét tính cách xã hội mới đang được định hình và phát triển theo xu thế phát triển của xã hội.
Đề tài cấp Bộ “Sự lựa chọn các giá trị đạo đức - nhân văn trong định hướng lối
sống của sinh viên ở một số trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Huỳnh Văn Sơn (2009) tìm hiểu về định hướng giá trị đạo đức - nhân
văn của sinh viên TP.HCM. Trong đề tài, tác giả đã phân tích cơ sở lý luận giá trị, định
hướng giá trị, lối sống và chỉ ra thực trạng của định hướng giá trị đạo đức - nhân văn của
sinh viên TP.HCM được thể hiện ở ba mặt: nhận thức, thái độ và xu hướng hành vi. Bên
cạnh việc nghiên cứu thực trạng, tác giả cũng đã tiến hành thử nghiệm một vài biện pháp tác
động mang tính định hướng nhằm giáo dục nhận thức và thái độ của sinh viên với các giá trị
đạo đức - nhân văn trong cuộc sống [40].
Sách chuyên khảo “Định hướng giá trị, nhân cách của học sinh trung học phổ
thông” cũng là kết quả nghiên cứu Luận án tiến sĩ tâm lý học của tác giả Nguyễn Thị Mai
Lan thực hiện trong 3 năm 2006-2009, nhằm mục tiêu tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị
của học sinh trung học phổ thông, phát hiện các yếu tố ảnh hưởng và đề xuất một số kiến
nghị để giáo dục định hướng giá trị nhân cách cho học sinh. Tác giả đã làm rõ phần cơ sở lý
luận về giá trị và định hướng giá trị nhân cách, và tiến hành khảo sát thực trạng trên học
sinh trung học phổ thông thể hiện trong hoạt động học tập (động cơ học tập, thái độ học tập,
hành động học tập), trong quan hệ với bản thân (việc xác định và phấn đấu cái Tôi lý tưởng
của cá nhân, việc xác định cái Tôi hiện thực) và quan hệ với người khác (quan hệ gia đình,

tham gia vào công việc gia đình, quan hệ với bạn cùng tuổi) [29].
Trong vài năm trở lại đây, có khá nhiều luận văn thạc sĩ tâm lý học về các khía cạnh
định hướng giá trị cụ thể (định hướng giá trị đạo đức, định hướng giá trị trong công việc…)
hoặc định hướng giá trị của một nhóm khách thể đặc trưng nào đó (như người lao động,
công nhân lao động phổ thông, cán bộ công chức phường…) làm phong phú thêm bức tranh
về định hướng giá trị của con người Việt Nam. Có thể kể ra đây một số đề tài như luận văn
chuyên ngành Tâm lý học như: “Thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở
một số trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” của Bùi Thị Bích
(2006) [2], “Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm TP. Hồ Chí
Minh” của Hoàng Anh (2007) [1], “Định hướng giá trị trong công việc của người lao
18


động ở một số doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Ngọc Giàu
(2010) [14]… Nhìn chung, các đề tài này đã đóng góp vào bức tranh chung về định hướng
giá trị của con người Việt Nam ở nhiều góc độ. Thế nhưng, trong số đó, mảng đề tài về định
hướng giá trị của nữ giảng viên và định hướng giá trị về chất lượng cuộc sống gia đình của
nữ giảng viên vẫn còn bị bỏ ngỏ, chưa được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu.
b. Những nghiên cứu về định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình
Tại Việt Nam, nghiên cứu về gia đình khá nhiều, phong phú cả về hướng tiếp cận
nghiên cứu lẫn nội dung nghiên cứu. Kể từ sau 1975, các nghiên cứu về gia đình tại Việt
Nam bắt đầu phát triển theo nhiều hướng tiếp cận khoa học khác nhau: xã hội học, tâm lý
học, sử học, triết học, dân tộc học, dân số học, phụ nữ học… Có thể kể ra một số tác phẩm
đã được xuất bản trên cơ sở các nghiên cứu kể trên như: Nho giáo và gia đình của nhóm tác
giả Vũ Khiêu, Lê Thị Quý, Đặng Nhứ (1995), Gia đình và dân tộc của Nguyễn Thế Long
(2008), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục các giá trị truyền thống cho trẻ em của
Đặng Cảnh Khanh (2003), Thực trạng văn hóa gia đình Việt Nam của Lê Minh (1994),
Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam của Tương Lai (chủ biên) (1996), Gia
đình trong tấm gương của xã hội học do Mai Quỳnh Nam (chủ biên) (2003) [25, tr.28-29].
Đến năm 2007, hai tác giả Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý đã xuất bản cuốn giáo trình “Gia

đình học” đầu tiên ở Việt Nam. Cuốn sách đã hệ thống hóa các khái niệm cơ bản về gia
đình, xem xét gia đình học với tư cách một khoa học với phần thực trạng gia đình, các vấn
đề về giới, phát triển gia đình, các sai lệch giá trị gia đình và các giải pháp nâng cao vai trò
của gia đình trong thời đại mới [25].
Năm 2011, sách chuyên khảo “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” của tác
giả Lê Ngọc Văn được xuất bản, không chỉ hệ thống các vấn đề lý luận về gia đình và biến
đổi gia đình mà còn cho thấy thực tế biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện nay [54]. Tác giả đã
phân tích các biến đổi chức năng và cấu trúc của gia đình Việt Nam thời nay thông qua việc
sử dụng các dẫn chứng từ số liệu điều tra của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới, Ủy ban dân
số, gia đình và trẻ em, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và một số nghiên cứu khác về dân
số, bình đẳng giới tại Việt Nam trong khoảng vài năm trở lại đây. Theo đó, tác giả chỉ ra gia
đình Việt Nam hiện nay đang chuyển từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại theo
xu thế tất yếu của thời đại, có nhiều biến đổi ở hầu hết các chức năng của gia đình. Xét về
chức năng kinh tế, gia đình ngày nay không còn là một đơn vị sản xuất khép kín mà là một
19


đơn vị sản xuất rất năng động, vai trò của phụ nữ trở nên quan trọng trong kinh tế hộ gia
đình, mức sống cũng có nhiều cải thiện đáng kể. Về chức năng sinh sản, duy trì nòi giống,
gia đình Việt Nam đã có những thay đổi căn bản, thể hiện ở việc giảm mức sinh của phụ nữ,
giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai. Về chức năng đáp ứng nhu cầu tâm sinh lý, tình
cảm, những thay đổi chủ yếu trong gia đình Việt Nam hiện nay là nhu cầu này tăng lên
trong xã hội hiện đại, có sự đánh giá cao về sự hòa hợp tình dục trong việc đảm bảo hạnh
phúc của vợ chồng, mối quan hệ vợ chồng có phần bình đẳng hơn nhưng xu hướng ly hôn
lại gia tăng. Về chức năng xã hội hóa, đây là vấn đề đáng lo ngại nhất bởi có sự giảm sút
của chức năng này trong nhiều gia đình hiện đại, dẫn đến tình trạng không chuẩn mực trong
chức năng xã hội hóa của gia đình, coi trọng giáo dục xã hội hơn giáo dục gia đình. Những
sự chuyển đổi này có những điểm tích cực, làm xuất hiện những nhu cầu chính đáng cần
được quan tâm của các cá nhân, các gia đình nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn
đề nguy cơ, cần có sự can thiệp, điều chỉnh kịp thời của Nhà nước, của xã hội.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu về CLCSGĐ còn khá rời rạc, chủ yếu được thể hiện
theo các mặt riêng lẻ trong các nghiên cứu về thực trạng đời sống gia đình ở Việt Nam như
mức sống, hiện trạng các mối quan hệ gia đình, lối sống gia đình chứ chưa nghiên cứu về
CLCSGĐ một cách bài bản. Quy mô nghiên cứu lớn nhất có liên quan tới CLCSGĐ là các
cuộc điều tra dân số của Tổng cục Thống kê, cụ thể là cuộc tổng điều tra dân số và gia đình
năm 1999; các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002, 2004, 2006, 2008, 2010; các
cuộc điều tra về biến động dân số và nguồn lao động. Các số liệu điều tra đã cho biết các
thông tin về quy mô hộ gia đình, mức thu nhập của gia đình, tình trạng hôn nhân của người
Việt Nam chia theo nhóm tuổi và giới tính…
Trong tác phẩm Gia đình học, nhằm có số liệu phục vụ cho việc biên soạn giáo trình,
nhóm tác giả Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý đã tiến hành khảo sát thực tiễn trên 7600 hộ
gia đình tại 12 tỉnh thành phố, đảm bảo bao quát các vùng miền, khu vực nông thôn lẫn đô
thị, vùng đồng bằng, trung du, miền núi, miền biển, các dân tộc, tôn giáo… Các kết quả
nghiên cứu đã được trình bày minh họa trong giáo trình, thể hiện một số khía cạnh
CLCSGĐ của các gia đình Việt Nam như: thực trạng về mức sống gia đình, sự phân công
lao động trong gia đình, hiện trạng các mối quan hệ gia đình… [25].
Hướng nghiên cứu về định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình là một hướng
còn khá mới nên chưa có nhiều nghiên cứu về đề tài này. Trong đề tài nghiên cứu “Định
hướng giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập” thuộc chương
20


trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước giai đoạn 2001-2005 (KX-05-07, nhánh 04), nhóm
tác giả đã có một phần điều tra về định hướng giá trị tình yêu, hôn nhân, gia đình, khảo sát
trên khách thể hơn 1200 người, bao gồm các giai cấp nông dân, công nhân, tầng lớp trí thức,
học sinh, sinh viên. Trong phần nghiên cứu về định hướng giá trị hôn nhân và gia đình, các
vấn đề được quan tâm tìm hiểu là quan niệm về hôn nhân, quan niệm về gia đình lý tưởng,
định hướng giá trị về đạo đức gia đình, ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến cuộc sống gia
đình… Kết quả đã chỉ ra quan niệm của người dân về hôn nhân tương đối lành mạnh, với
các quan niệm như: Hôn nhân phải một vợ một chồng; Chỉ lập gia đình khi đã có nghề

nghiệp và công việc ổn định; Tình yêu là cơ sở chủ yếu của hôn nhân. Để đảm bảo sự tốt
đẹp của mối quan hệ vợ chồng trong điều kiện kinh tế thị trường, các quan niệm được tán
đồng cao nhất là: vợ chồng bình đẳng, tôn trọng nhau, quan tâm đến đời sống tình cảm của
nhau, cùng có trách nhiệm chăm sóc con cái, chân thành giúp đỡ nhau và cùng đóng góp
vào kinh tế gia đình. Về mô hình gia đình, các kết quả nghiên cứu đã cho thấy xu thế hiện
nay trong định hướng giá trị của người dân Việt Nam là mô hình gia đình hạt nhân, với từ
1-2 con, trai hay gái đều được. Về quan điểm gia đình lý tưởng, kết quả đã chỉ ra định
hướng giá trị về một gia đình lý tưởng của đại đa số người dân là gia đình phải đảm bảo hầu
hết các chức năng của gia đình như có kinh tế ổn định, gia đình hòa thuận, con cái ngoan
ngoãn, thành đạt, mọi người khỏe mạnh, được học hành… [16, tr.151-160]
Tương tự, trong nghiên cứu tổng quan phục vụ việc biên soạn giáo trình Gia đình
học của tác giả Đặng Cảnh Khanh và tác giả Lê Thị Quý, nhóm tác giả đã đề cập đến một số
nội dung định hướng giá trị CLCSGĐ trong thông tin khảo sát các hộ gia đình. Cụ thể là
quan niệm về hạnh phúc gia đình và định hướng về các nội dung giáo dục trong gia đình.
Kết quả cho thấy, về những tiêu chí quan trọng nhất giúp đảm bảo hạnh phúc gia đình, các
cặp vợ chồng có sự thống nhất khá cao với các tiêu chí “Gia đình hòa thuận” (95,7%), “Cả
hai vợ chồng phải có ý thức xây dựng gia đình” (90,1%), “Con cái vâng lời cha mẹ”
(89,5%), “Gia đình khỏe mạnh” (87,3%). Về vấn đề nội dung giáo dục được chú trọng
truyền dạy cho con cháu trong gia đình, các nội dung được đánh giá cao là “Hiếu thảo, lễ
phép” (90,9%), “Tính trung thực” (84,2%), “Tính tự lập, vươn lên” (83,2%), “Tính cần cù,
chịu khó” (82,8%), “Niềm tin vào cuộc sống” (81,1%) [25, tr.250-252]. Tuy nhiên, vì chỉ là
một khía cạnh trong nghiên cứu về định hướng giá trị con người Việt Nam nên ngoài các kết
quả kể trên, đề tài chưa đi sâu vào nghiên cứu và phân tích cặn kẽ về các khía cạnh trong
định hướng giá trị về hôn nhân và gia đình, đặc biệt là định hướng giá trị CLCSGĐ.
21


Gần nhất với chủ đề nghiên cứu của đề tài là luận án phó tiến sĩ khoa học sư phạm tâm lý của tác giả Nguyễn Thị Khoa thực hiện năm 1996 với tên đề tài là: “Định hướng giá
trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay” [26]. Với đề tài này, tác giả đã
xác định CLCSGĐ được biểu hiện qua trình độ phát triển của cá nhân, gia đình về các mặt

mức sống gia đình và lối sống gia đình. Việc định hướng giá trị CLCSGĐ là xu hướng lựa
chọn những giá trị về mọi mặt của cuộc sống gia đình mà chủ thể cho là tốt, là có ích cho sự
tồn tại và phát triển của gia đình. Đề tài đã chỉ ra những đặc trưng và xu thế định hướng giá
trị của nữ trí thức về CLCSGĐ hiện nay, đồng thời làm rõ các nhân tố tác động đến định
hướng giá trị của nữ trí thức. Qua nghiên cứu, tác giả kết luận nữ trí thức vẫn hướng về các
giá trị đạo đức tốt đẹp của gia đình truyền thống, những giá trị thể hiện lối sống có văn hóa
trong gia đình và đặc biệt đề cao tính tiến bộ, nhân văn của con người trong quan hệ chung
với gia đình và gắn liền CLCSGĐ với các giá trị thành đạt sự nghiệp. Tuy nhiên, vì tiếp cận
lĩnh vực chất lượng cuộc sống gia đình - một lĩnh vực còn khá mới mẻ nên kết quả nghiên
cứu trên chỉ mới dừng lại ở thực trạng định hướng giá trị CLCSGĐ của nữ trí thức ở mức độ
khái quát, chưa đi sâu tìm hiểu các nhóm khách thể cụ thể, các khía cạnh cụ thể của
CLCSGĐ. Hơn nữa, từ thời điểm đó đến nay, sau hơn 15 năm với nhiều thay đổi, biến động
của đời sống xã hội, việc nghiên cứu về định hướng giá trị CLCSGĐ của nữ trí thức, nữ
giảng viên hiện nay là điều hợp lý và cần thiết.

1.2. Những vấn đề lý luận về ĐHGT chất lượng cuộc sống gia đình của nữ giảng
viên
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Giá trị
a. Khái niệm
Giá trị là một khái niệm phức tạp và có rất nhiều cách tiếp cận, là phạm trù chung
của triết học, xã hội học, tâm lý học… dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về giá trị.
Trong các ngôn ngữ phương Tây, thuật ngữ “giá trị” (value trong tiếng Anh), bắt
nguồn từ valere của tiếng La-tinh có nghĩa là “khỏe mạnh, tốt, đáng giá”, ban đầu được
dùng để chỉ một thứ gì đó đáng giá. Tuy nhiên, trong đời sống thông thường hiện nay, giá trị
được sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong Từ điển tiếng Việt [51] có nêu một số định
nghĩa giá trị như sau:
22



- Cái gì làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó.
- Tác dụng, hiệu lực.
- Lao động xã hội kết tinh trong sản phẩm hàng hóa.
- Số đo của một đại lượng.
Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt [30] của tác giả Nguyễn Lân thì giá trị có ba nghĩa:
- Là phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hóa, biểu hiện số lao động trừu tượng của
xã hội đã hao phí vào việc sản xuất ra hàng hóa (theo góc độ kinh tế)
- Phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hoặc con người.
- Phẩm chất tốt đẹp, tác dụng lớn lao.
Như vậy, có thể thấy, tùy theo khía cạnh áp dụng, mục đích sử dụng mà từ “giá trị”
sẽ được hiểu khác nhau. Trong cuốn sách “Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học
sinh phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc chủ biên [31], các tác giả đã tổng hợp hai
xu hướng chính trong cách tiếp cận giá trị.
Xu hướng thứ nhất là quan điểm xã hội học giá trị với các đại diện M. Weber,
V.Dilthey; O.Spengler. Theo quan điểm này, đời sống văn hóa xã hội của một cộng đồng
người là cội nguồn của giá trị, còn chính bản thân giá trị lại được đồng nhất với các chuẩn
mực, các nguyên tắc, cùng các quan điểm chuẩn mực đảm bảo sự hoạt động và sự biến đổi
lịch sử của chúng. Cùng quan điểm này, có một số định nghĩa như sau:
- Theo Cyde Kluckhohn (1951): “Giá trị là quan niệm hiện hoặc ẩn liên quan đến
nguyện vọng xác định của cá nhân hay tập thể, đem lại ảnh hưởng cho khả năng cũng như
cách chọn lựa phương tiện và mục đích của hành vi” [16, tr.38]
- Theo Phạm Minh Hạc: “Giá trị là cái quy định mục đích của hoạt động” [16, tr.23]
Xu hướng chính thứ hai là quan điểm tâm lý học giá trị. Theo quan điểm này, thế giới
chủ quan của con người (mục đích cá nhân, cảm xúc, ý chí, nhu cầu, hay định hướng giá trị
của mỗi cá nhân được hình thành trong xã hội) được xem xét như là nguồn gốc của giá trị,
là hệ quy chiếu của những giá trị. Cho nên một sự vật, sự việc nào đó có giá trị nghĩa là
khách thể đó phải có ý nghĩa, có giá trị đối với con người, làm thỏa mãn nhu cầu của con
người. Với cách tiếp cận này, có thể dễ dàng nhìn thấy mối liên hệ giữa thế giới khách thể
với nhu cầu trong đời sống sinh hoạt thường ngày của con người và tính đa dạng của thế
giới giá trị.

Với cách tiếp cận này, có một số định nghĩa giá trị như:
- Theo Bách khoa toàn thư Xô Viết: “Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa
23


×