Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

hiện tượng song đề trong chân dung một nghệ sĩ trẻ của james joyce

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.88 KB, 165 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Hồng Anh

HIỆN TƯỢNG SONG ĐỀ
TRONG CHÂN DUNG MỘT NGHỆ SĨ TRẺ
CỦA JAMES JOYCE

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Hồng Anh

HIỆN TƯỢNG SONG ĐỀ
TRONG CHÂN DUNG MỘT NGHỆ SĨ TRẺ
CỦA JAMES JOYCE
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số

: 60 22 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG



Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Sau đại học trường Đại học Sư phạm
TP.Hồ Chí Minh, các thầy cô tổ Văn học Nước ngoài - Khoa Ngữ Văn cùng gia
đình, bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và động viên để tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến PGS. TS. Đào Ngọc Chương, người thầy
đã tận tình hướng dẫn và đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn
này.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012
Người viết luận văn

Nguyễn Hồng Anh
Lớp Cao học Văn học Nước ngoài Khóa 21


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố ở các
công trình khác.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2012
Người viết luận văn

Nguyễn Hồng Anh
Lớp Cao học Văn học Nước ngoài Khóa 21


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: JAMES JOYCE VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHƯƠNG HƯỚNG
KHẢO SÁT .................................................................................................... 20
1.1. James Joyce và hiện tượng song đề ...................................................... 20
1.1.1. Giới thuyết thuật ngữ song đề....................................................... 20
1.1.2. Cội nguồn của hiện tượng song đề trong phong cách sáng tác của
James Joyce ................................................................................... 31
1.2. James Joyce và Jacques Lacan ............................................................. 35
1.2.1. Phân tâm học cấu trúc của Jacques Lacan .................................... 35
1.2.2. Phương cách nghiên cứu song đề trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ
của James Joyce dưới ánh sáng phân tâm học Lacan ................... 41
Chương 2: CÁI THỰC VÀ SONG ĐỀ TRỰC GIÁC ............................... 46
2.1. Cái Thực theo quan niệm của Jacques Lacan ....................................... 46
2.2. Song đề trực giác từ sự quy chiếu của cái Thực ................................... 49
2.2.1. Song đề trực giác từ giác quan ....................................................... 51
2.2.2. Hòa giải song đề trực giác .............................................................. 66
Chương 3: CÁI TƯỞNG TƯỢNG VÀ SONG ĐỀ BẢN THỂ ................. 77
3.1. Cái tưởng tượng theo quan niệm của Jacques Lacan ........................... 77
3.2. Song đề bản thể từ sự quy chiếu của cái Tưởng tượng ........................ 82
3.2.1. Chủ thể và cái Khác ....................................................................... 85
3.2.2. Cái tôi và cái Khác như là tôi ......................................................... 98


Chương 4: CÁI BIỂU TƯỢNG VÀ SONG ĐỀ DIỄN NGÔN ............... 109
4.1. Cái Biểu tượng theo quan niệm của Jacques Lacan ........................... 109
4.2. Song đề diễn ngôn từ sự quy chiếu của cái Biểu tượng ..................... 115

4.2.1. Chủ thể và diễn ngôn chủ ............................................................. 116
4.2.2. Chủ thể và diễn ngôn đại học ....................................................... 127
4.2.3. Chủ thể và diễn ngôn người cuồng loạn – Hòa giải song đề diễn
ngôn............................................................................................. 135
KẾT LUẬN .................................................................................................. 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 148


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Gần một thế kỷ đã trôi qua kể từ khi James Joyce công bố tác phẩm đầu
tiên, đó là khoảng thời gian đủ dài để ghi khắc danh xưng một nhà văn vào
hàng bất tử. Nhưng không như những tượng đài văn chương khác của Ireland
như William B.Yeats, Samuel Beckett, Seamus Heaney…, James Joyce chưa
bao giờ nhận được bất cứ giải thưởng văn chương nào và chưa bao giờ có
được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu đầu ngành. Có lẽ, nhân loại cần
một độ lùi thời gian để thẩm định chân xác hơn mối nghi ngờ: liệu James
Joyce là một tài năng văn chương kiệt xuất, một nhà văn hiện đại chủ nghĩa
tiêu biểu cho cả một thế hệ tài năng, hay chẳng qua chỉ là một kẻ gàn dở tâm
thần, giễu nhân loại bằng trò chơi chữ nghĩa? Bất chấp tất cả, James Joyce
vẫn trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất từ đầu thế kỷ XX trở lại
đây; nghiên cứu về ông chưa bao giờ lỗi thời dù đỉnh cao của chủ nghĩa hiện
đại đã đi qua hơn nửa thế kỷ.
Chân dung một nghệ sĩ trẻ (A Portrait of the Artist as a Young Man) là
cuốn tiểu thuyết thứ nhất và cũng là tác phẩm dễ đọc hơn so với hai kiệt tác
kinh điển của James Joyce, Ulysses và Finnegan Wake, nên đây là lựa chọn
đầu tiên cho những ai muốn từng bước tiếp cận với phong cách sáng tác, tư
tưởng và tài năng văn chương của ông. Nhưng dễ đọc không đồng nghĩa với

đơn giản, với một nhà văn mà suốt cuộc đời chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt
tác, phạm trù dễ hay khó, phức tạp hay giản đơn không thể được đo bằng
những quy chuẩn thông thường. Điều làm nên tầm vóc cho những tác phẩm
của James Joyce chính là sự đòi hỏi ở người đọc một khả năng tìm tòi, một sự
khai phá chính mình trước khi khai mở tác phẩm, vì tác giả đã đưa vào tác
phẩm rất nhiều điều xa lạ với phần đông độc giả (những danh từ riêng không


2

chú giải, những liên tưởng bất quy tắc với huyền thoại - lịch sử xa xưa, sự vận
dụng và sáng tạo tư duy triết học kết tụ từ hàng ngàn năm, kỹ thuật viết tự
tạo…). Đó là lí do tạo nên nhiều hướng khai thác khác nhau cho tác phẩm của
James Joyce, tùy vào khả năng tìm tòi của người đọc, khiến các sáng tác của
ông luôn mới mẻ và thu hút. Chân dung một nghệ sĩ trẻ cũng không là ngoại
lệ. Do đó, chọn nghiên cứu tác phẩm này vừa là một thử thách, đồng thời vừa
là một phương cách tự rèn luyện về khả năng nghiên cứu vì hướng mở trong
cách tiếp cận tác phẩm.
Để mở ra một hướng đi mới giúp khai thác tác phẩm kết hợp lí giải
phong cách và tư tưởng nhà văn, chúng tôi chọn nghiên cứu hiện tượng song
đề. Song đề là một cách nhìn nhận cuộc sống, là thái độ ứng xử và phản ánh
tâm trạng con người từ thuở xa xưa. Khởi đi từ hiện tượng song đề, chúng tôi
không xem đây là một tác phẩm văn chương thuần túy, mà muốn diễn giải nó
như một công trình thẩm mỹ mang tính triết học kết hợp với tâm lí học và thi
pháp văn chương. Từ đó cho thấy rằng James Joyce xứng đáng với những mỹ
từ mà một nửa nhân loại đã không tiếc lời ngợi ca: nhà văn của trí tuệ vĩ đại,
nhà văn của chủ nghĩa toàn cầu.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài Hiện tượng song đề
trong “Chân dung một nghệ sĩ trẻ” của James Joyce. Ở bề rộng, đề tài nhằm
hướng đến tính khả biến trong nghiên cứu tác phẩm James Joyce nói chung và

tiểu thuyết này nói riêng khi kết hợp với những lý thuyết hiện đại; ở chiều
sâu, đề tài khai thác nội dung tác phẩm hòng làm toát lên bức chân dung tâm
hồn của nhà nghệ sĩ James Joyce gắn liền với tư tưởng nhân loại thời đại ông,
giúp độc giả thấy được tầm vóc của một trong những bậc thầy hiện đại chủ
nghĩa đầu tiên. Đó cũng là mục đích mà luận văn mong muốn đạt được.


3

2. Lịch sử nghiên cứu
Khi viết Ulysses, James Joyce hi vọng rằng tác phẩm này sẽ khiến các
nhà phê bình phải “bận rộn” đến hàng thế kỷ sau. Điều đó đã trở thành sự
thật. Không chỉ Ulysses mà tất cả các sáng tác của James Joyce đều thu hút rất
nhiều nhà nghiên cứu và bạn đọc yêu thích văn chương trên toàn thế giới, gần
một trăm năm nay. Lượng bài viết về J. Joyce vô cùng lớn, nhưng với hạn chế
về ngôn ngữ cũng như khả năng tìm kiếm tài liệu, chúng tôi chỉ dẫn ra đây
một số ít công trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Thực ra song đề không phải là một hiện tượng được chính James Joyce
định danh rõ ràng trong các tác phẩm của mình, như các thuật ngữ: epiphany
(hiển linh), paralysis (tê liệt), gnomon (góc khuất) hay mê cung1 để từ đó các
nhà nghiên cứu thường lấy làm từ chìa khóa phân tích bút pháp của J. Joyce.
Vì không được phát biểu như một thuật ngữ nên song đề hiếm khi trở thành
vấn đề được nghiên cứu. Về định nghĩa thuật ngữ, chúng tôi sẽ giải quyết ở
chương 1, nhưng có thể khái lược song đề như là tình trạng tiến thoái lưỡng
nan, phân vân giữa hai hay nhiều lựa chọn. Từ cách hiểu này, chúng tôi nhận
thấy tuy rất hiếm những bài viết dùng song đề làm từ khóa chủ đạo để nghiên
cứu James Joyce nhưng hầu như mọi bài viết đều đề cập đến hiện tượng này ở
nhiều mức độ khác nhau. Sau đây chúng tôi sẽ phân loại các bài nghiên cứu
thành hai phần: công trình của các tác giả nước ngoài và công trình nghiên
cứu từ Việt Nam; trong mỗi phần, các bài viết được sắp xếp theo mức độ tăng

dần: từ gián tiếp đến trực tiếp, từ nhận định chung đến phân tích cụ thể về
hiện tượng song đề, không chỉ trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ mà cả những
tác phẩm khác của J. Joyce.
Epiphany, paralysis và gnomon cùng xuất hiện trong The Sisters – truyện đầu tiên trong tập
truyện ngắn Dubliners của James Joyce. Mê cung là cách gọi của chính James Joyce về kĩ thuật
ông đã sử dụng để viết chương thứ mười (The Wandering Rocks) trong tiểu thuyết Ulysses – kĩ
thuật mê cung (labyrinthine technique)
1


4

2.1. Các công trình nước ngoài
Hiện tượng song đề dễ nhìn thấy nhất từ phương diện tâm lí nhân vật.
Vì vậy, hầu hết các bài nghiên cứu lấy việc phân tích nhân vật là chính đều ít
nhiều đề cập đến hiện tượng này. Richard Brown trong công trình James
Joyce – A Post-Culturalist Perspective (James Joyce – Một phối cảnh hậu
văn hóa) đã dành trọn chương II để phân tích tiểu thuyết Chân dung một nghệ
sĩ trẻ, trong đó có nhận định: ““Chân dung” thăm dò và vượt quá những ranh
giới giữa đời sống cộng đồng và cá nhân, giữa trải nghiệm bên ngoài và bên
trong nhân vật đã được xác nhận, và hơn thế nữa, trong nghệ thuật của
Joyce” [76, 33]. Nhận định cho thấy tác giả đã chú ý và xem song đề là vấn
đề cơ bản của tác phẩm cũng như phong cách của nhà văn, nhưng vì chỉ là
một công trình nhằm mục đích giới thiệu căn bản các tác phẩm của J. Joyce
dưới góc nhìn văn hóa học nên người viết không đi sâu luận giải bằng các chi
tiết nghệ thuật. Những công trình sau đây phần nào đã chứng minh cụ thể cho
ý kiến trên.
Trong chuyên luận The Cambridge Introduction to James Joyce
(Nhập môn James Joyce, do đại học Cambridge ấn hành), tác giả Eric Bulson
đã phân tích khá công phu từng tác phẩm của James Joyce, và khi bàn đến

nhân vật Stephen trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ, chủ yếu người viết đi vào
khía cạnh tư tưởng nhân vật, những quyết định mang tính lựa chọn giữa chủ
nghĩa dân tộc và tự do, rồi kết lại: “Anh [Stephen] 1 sẽ là người Ireland bằng
việc rời khỏi Ireland đến Châu Âu và bằng cách viết về những kinh nghiệm
anh thu nhận được từ tiếng Hy Lạp, Latin và những hình mẫu Châu Âu.
Richard Rowan trong “Lưu đày” [tên vở kịch của J. Joyce] và Gabriel
Conroy trong “Người chết” [truyện ngắn của J. Joyce] đều cùng đối mặt với
tình trạng tiến thoái lưỡng nan như vậy về tương lai của mình” [77, 63].
1

Nội dung trong […] là chú thích của chúng tôi.


5

Tương tự nội dung này là bài viết của Ian Mackean: “A Portrait of the
Artist as a Young Man: Rebellion and Release” (Chân dung một nghệ sĩ
trẻ: cuộc nổi loạn và sự giải thoát) trên website nghiên cứu văn học
cũng bàn về
tâm trạng lưỡng phân giữa ở và đi của Stephen. Ngoài ra trong bài viết
“James Joyce” cho tạp chí Atlantic Monthly, Harry Levin đã nói về điều này,
sau đó ông phân tích thêm về tình trạng hai mặt, cuộc sống kép của Stephen,
thể hiện rõ nhất trong giai đoạn thứ hai – giai đoạn bước vào thời kì trưởng
thành – với một bên là những ham muốn thể xác dẫn đến tội lỗi và một bên là
cảm giác bình an trong lòng kính Chúa.
Nối tiếp loạt bài phân tích tâm lí Stephen về tôn giáo, bài viết “James
Joyce & Aesthetic Gnosticism” (James Joyce và tính giác ngộ thẩm mỹ) của
Thomas H. Landess trên tạp chí Modern Age nhấn mạnh đến song đề niềm
tin; cụ thể, Stephen vừa tin vừa không tin vào lễ ban thánh thể và anh không
sẵn sàng để giải quyết song đề này. Vì nếu tin bánh và rượu là mình và máu

Chúa 1 thì người nghệ sĩ không thể “sáng tạo lại cuộc sống bên ngoài cuộc
sống” và không thể từ chối phục vụ giáo hội; còn nếu không tin thì anh phải
đối mặt với “lời nói dối tối thượng của nhân loại” không thể nào vượt qua
[94, 151]. Vì thế, cho đến cuối truyện, Stephen luôn giữ thái độ nước đôi như
cách phòng vệ cho riêng mình.
Mở rộng ra các tác phẩm khác của James Joyce, song đề tiếp tục được
nghiên cứu từ khía cạnh tâm lí nhân vật, tiêu biểu nhất là truyện ngắn Eveline
trong tập Người Dublin. Bài viết của Felicity Yorke khi bàn về cách thức dạy
truyện ngắn: “Interpretative Tasks Applied to Short Stories” (Những bài
tập diễn giải áp dụng với truyện ngắn) đăng trên tạp chí English Language
Trong lễ ban thánh thể, vị tu sĩ dùng rượu và bánh tượng trưng cho máu và thân xác
Chúa, sau đó ban cho các con chiên như một hình thức rước Chúa vào lòng.
1


6

Teaching của đại học Oxford, đã phân tích khá tỉ mỉ song đề của nhân vật
Eveline: Eveline phải lựa chọn giữa đi hay ở: đi với Frank để tìm kiếm tương
lai hạnh phúc, để thoát khỏi ngôi nhà mà cô có thể phát điên vì gánh nặng bổn
phận; hay ở lại chăm sóc cha và các em đến trọn đời theo lời trăng trối của mẹ
cô. Eveline quay cuồng giữa tình yêu và trách nhiệm, giữa thói quen chịu
đựng nhọc nhằn và sự bung phá đầy can đảm. Điểm sáng của bài viết nằm ở
sự kết hợp phân tích tâm lí nhân vật dựa vào khai thác ngôn ngữ, như cách lựa
chọn từ vựng, dùng những ẩn dụ, so sánh các thì: ví dụ trong truyện có ba câu
diễn tả ý định sẽ bỏ đi của Eveline (ý định hướng về tương lai) nhưng những
câu này lại được xây dựng từ thì quá khứ và bị động, điều đó cho thấy Eveline
không phải là chủ thể tác động mà chỉ là đối tượng bị tác động, nên không có
gì lạ khi cô luôn bị đóng khung vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
Bài viết “Analysis on James Joyce’s Eveline” (Phân tích truyện

Eveline của James Joyce) của Zhu Zhijuan và Zhou Xinmin đăng trên tạp chí
Trung Quốc 文化研究 cũng chỉ ra hiện tượng song đề từ tâm lí Eveline
nhưng dưới góc độ nữ quyền, và còn đối sánh với nhiều dạng nhân vật song
đề khác trong văn học thế giới, như song đề của Hamlet trong Hamlet của
Shakespeare, Huck trong The Adventures of Huckleberry Finn của Mark
Twain, Tess trong Tess of the D’Urbervilles của Thomas Hardy, hay nhà thơ
Robert Frost và sự chọn đường trong The Road not Taken. Việc đối sánh tuy
chỉ giản lược nhưng bài viết đã cho thấy rằng song đề là một đối tượng nghiên
cứu quan trọng luôn được sử dụng trong văn học. Tác phẩm của J. Joyce cũng
không là ngoại lệ.
Bài nghiên cứu duy nhất chúng tôi tìm được lấy song đề làm nội dung
chủ đạo để phân tích là “Reading Short Stories III: Maria’s Dilemma in
James Joyce’s “Clay”” (Đọc truyện ngắn III: Song đề của Maria trong “Đất
sét” của James Joyce) của Fumio Yoshioka đăng trên tạp chí Humanities and


7

Social Sciences, trường đại học Okayama. Người viết không luận giải thuật
ngữ song đề (dilemma) nhưng qua quá trình phân tích, có thể hiểu song đề mà
người viết đề cập đến là tính chất hai mặt. Trong quá trình phân tích nhân vật
chính Maria trong truyện ngắn Đất sét – rút ra từ tập Người Dublin – tác giả
đã chỉ ra dạng song đề này: “Sự thay đổi trang phục của nhân vật nữ chính
bắt đầu đánh dấu những biến chuyển từ Maria ban ngày thành Maria ban
đêm, từ Maria sợ sệt thành Maria hư hỏng. Tính cách thay đổi cùng với thời
gian của năm. Halloween chính vào thời điểm của năm cũ và năm mới, mùa
hè và mùa đông, cái chết và sự sống, gặp gỡ và hòa lẫn, thời điểm mà sự mê
tín của người Celt và những lễ kỉ niệm của người Cơ Đốc cùng tan chảy vào
trong sự gắn kết văn hóa” [107, 56]. Từ đó người viết cho rằng Maria mang
trong mình hình ảnh đối lập của một vị thánh và một mụ phù thủy, hình ảnh

của chính Đức Mẹ Maria và một kẻ phá rối.
Hiện tượng song đề đến đây đã được định hình rõ ràng hơn, tính chất
được mở rộng hơn: từ một hiện tượng thuần nội dung trong tâm lí lựa chọn
của nhân vật đến mang tính nghệ thuật hơn trong cách xây dựng hình ảnh
nước đôi của nhân vật. Nhưng không chỉ như thế, song đề trong các tác phẩm
của James Joyce tiếp tục đuợc khai thác ở nhiều khía cạnh nghệ thuật khác
nhau, đem đến những gợi ý hữu ích cho đề tài của chúng tôi.
Trở lại với tiểu thuyết Chân dung một nghệ sĩ trẻ, những lí giải của
Valeire P. Zimbaro trong bài phân tích có tựa đề cũng là tên tác phẩm “A
Portrait

of

the

Artist

as

a

Young

Man”

trên

trang

đã cho thấy

cách nhìn đầy tinh tế, thú vị về phương cách J. Joyce sử dụng những cặp hình
ảnh đối nghịch trong tác phẩm. Ở mục Joyce’s Use of Imagery (Cách sử dụng
hình ảnh của Joyce), Zimbaro viết: “Hình ảnh ướt/ khô tượng trưng cho phản
xạ tự nhiên và phản xạ có điều kiện của Stephen đối với thế giới […] Nóng


8

tượng trưng cho những xúc cảm mãnh liệt của cơ thể (trong nhiều trường
hợp, nó còn tượng trưng cho tội lỗi); lạnh, ngược lại, tượng trưng cho sự
đứng đắn, trật tự và thanh khiết […] Ánh sáng tượng trưng cho sự hiểu biết
(sự tự tin), và bóng tối tượng trưng cho sự ngu dốt (lòng khiếp sợ))” [121].
Tuy nhiên, Zimbaro lại không nhìn nhận các cặp đối lập này dưới dạng thức
lưỡng phân mà có sự tách bạch rõ ràng, với Zimbaro, đó là những đối lập nhị
phân. Trong chương 2, chúng tôi sẽ kế thừa cách phân tích của tác giả bài
nghiên cứu này, nhưng mục đích chúng tôi hướng đến là quan hệ song đề giữa
các cặp đối lập, từ đó phân tích tâm trạng thời thơ ấu của Stephen.
Hiện tượng song đề thể hiện khá phức tạp trong công trình nghiên cứu
công phu của Cristina F. Moreno: “Romantic Irony: the Bridge between the
Romantic and the Modernist Artist in Joyce’s A Portrait of the Artist as a
Young Man” (Châm biếm lãng mạn: cầu nối giữa nhà nghệ sĩ lãng mạn và
hiện thực trong Chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce), trên tạp chí
Estudios Ingleses de la Universidad Complutense của đại học De La Rioja,
Tây Ban Nha. Người viết đã sử dụng cách thức phê bình huyền thoại và phê
bình tự sự học để phân tích chất châm biếm - lãng mạn trong tác phẩm. Tính
chất này, theo Moreno, được xây dựng dựa trên hai nghịch lí: nghịch lí huyền
thoại; và nghịch lí tư tưởng Stephen-nhân vật và Stephen-người trần thuật.
Nghịch lí, hay đúng hơn, là hiện tượng song đề, về huyền thoại, thể hiện ở
nghi vấn Stephen Dedalus là Deadalus (người cha) hay Icarus (người con)
theo huyền thoại Hy Lạp? Việc trùng tên gọi (chỉ khuyết chữ “a”) Dedalus và

Deadalus cho thấy Stephen đóng vai người cha, nhưng những dòng nhật kí
cuối Stephen đã cầu đến sự giúp đỡ của một người cha lại cho thấy Stephen
đích thị là người con. Thành hay bại trong lựa chọn của Stephen dựa vào vai
anh đang đóng: thành công trong lí tưởng trở thành một nghệ sĩ tự do như
Deadalus thoát khỏi chốn giam cầm bằng đôi cánh tự tạo, hay chịu kết án lưu


9

đày, như Icarus bị mặt trời thiêu đốt đôi cánh rồi đành chết đuối trên đại
dương mênh mông xa xứ? Theo Moreno, nghịch lí được tạo ra chính là để
giễu huyền thoại bằng một phong cách lãng mạn.
Cũng liên quan đến hiện tượng song đề về mặt nghệ thuật là bài viết “A
Portrait of the Artist as a Young Man and the “Individuating Rhythm” of
Modernity” (Chân dung một nghệ sĩ trẻ và “nhịp điệu cá thể hóa” của tính
chất hiện đại) của Tobias Boes đăng trên tạp chí English Literary History từ
đại học Johns Hopkins, Hoa Kỳ. Boes quan tâm đến song đề về cấu trúc tác
phẩm. Người viết cho rằng có một mâu thuẫn xảy ra khi xét cấu trúc của toàn
bộ tác phẩm, mâu thuẫn giữa cấu trúc epiphany và cấu trúc leitmotif. Nói
Chân dung một nghệ sĩ trẻ được cấu trúc theo kiểu epiphany có nghĩa là phân
cách (disjunctive) tác phẩm ra thành nhiều mẩu đoạn, cắt đứt các dòng chảy
thực tại và dòng cảm xúc. Còn nói Chân dung một nghệ sĩ trẻ được cấu trúc
theo kiểu leitmotif tức “đọc” tác phẩm từ những nét, điểm, chủ đề mang tính
xuyên suốt toàn truyện mà từ những nét, điểm ấy, các giai đoạn phát triển của
cốt truyện cũng như nhân vật được tiếp nối (conjunctive) với nhau. Người viết
đã đi đến một sự hòa giải rằng hai dạng cấu trúc này tuy đối nghịch nhưng vẫn
quyện chặt nhau làm thành cấu trúc độc đáo của tác phẩm, không thể chia tách
riêng thành dạng này hay dạng kia. Để chứng minh, Boes cụ thể hóa hai dạng
cấu trúc này thành kiểu cấu trúc tuyến tính (tức cấu trúc theo kiểu epiphany:
những yếu tố đột hiện chia cắt dòng truyện đều đều để phát triển lên theo

chiều tuyến tính) và cấu trúc tuần hoàn (tức cấu trúc theo kiểu leitmotif: sử
dụng những chi tiết mang tính quán xuyến toàn truyện để tạo cho truyện một
mạch liên kết theo vòng tròn từ những tình tiết đầu đến những tình tiết cuối).
Bài viết đã chứng minh tính đối thoại (hay hiện tượng song đề) giữa tính chất
tuyến tính và tính tuần hoàn qua một vài chi tiết trong truyện: Đó là tâm trạng
của Stephen luôn dao động qua lại giữa những ảnh hưởng kêu gọi anh hướng


10

về cuộc sống phía trước (khi anh đứng trước biển và bắt gặp hình ảnh cô gái
mang đôi cánh tượng trưng cho sự tìm kiếm tự do) và những hình ảnh khuyến
khích anh nán lại và nhìn vào nhân dạng của mình vốn đã được xác định từ
quá khứ (hình ảnh người mẹ, Emma, người phụ nữ nông dân…). Một minh
chứng khác, khi Stephen đi cùng cha trên chuyến xe lửa, khung cửa xe chính
là một màn ảnh cho thấy dòng chảy trôi của lịch sử (với những hàng cột vụt
qua, những hình ảnh nông thôn trôi qua…), nhưng bên trong xe, anh lại nghe
thấy nhịp thở nặng nề trong giấc ngủ của người cha; dòng chảy tuyến tính của
thời gian lịch sử đã vấp phải chuyển động tuần hoàn của nhịp điệu sinh học.
Stephen đã luôn cố gắng pha trộn và nắm bắt chúng để tạo thành phản ứng
nhịp nhàng đối với môi trường quanh anh. Đó là minh chứng của người viết
cho sự đối nghịch và hòa giải theo kiểu song đề của hai dạng cấu trúc tác
phẩm. Bài viết của Tobias Boes đã góp phần bổ sung thêm cách khai thác hiện
tượng song đề, từ phương diện cấu trúc, cung cấp thêm một hướng mở cho đề
tài của chúng tôi.
2.2. Các công trình Việt Nam
Tên tuổi James Joyce bắt đầu được biết đến ở Việt Nam qua một số gợi
nhắc từ những giáo trình văn học phương Tây hiện đại, thường chỉ mang tính
điểm qua thành công của tác giả như một người khai sinh ra kĩ thuật dòng ý
thức. Đến những năm đầu thế kỷ XXI, từ các trường đại học mới bắt đầu xuất

hiện những nhà nghiên cứu trẻ quan tâm và thực hiện những công trình tâm
huyết về James Joyce. Trong nguồn tư liệu tham khảo ít ỏi về J. Joyce ở Việt
Nam, chúng tôi may mắn tìm thấy những bài viết có liên quan đến đề tài.
Tuy song đề không có vai trò trong ý đồ phân tích và nội dung thể hiện,
nhưng khóa luận tốt nghiệp Nghệ thuật kể chuyện trong “Người Dublin”
của James Joyce của Lê Thị Như Vân là một minh chứng cho sự tồn tại của
hiện tượng song đề trong tác phẩm James Joyce dù tác giả khóa luận có ý thức


11

về nó hay không. Dựa vào lí thuyết tự sự học, Lê Thị Như Vân tìm hiểu nghệ
thuật kể chuyện của Người Dublin thông qua phân tích nhân vật, xây dựng cốt
truyện, tổ chức thời gian với sự vận dụng những kĩ thuật của chủ nghĩa hiện
đại. Khi phân tích nhân vật, tác giả bài viết luôn đặt nhân vật trong trạng thái
song đề, như Eveline (trong truyện ngắn cùng tên) giữa quá khứ và tương lai,
Duffy (trong Một trường hợp đau lòng) giữa tình yêu và lí trí, giữa hạnh phúc
và danh dự… Khi lí giải hiện tượng này, Lê Thị Như Vân khẳng định rằng đó
là tính chất phân mảnh của nhân vật do sự tác động của môi trường xung
quanh: “tính chất tan rã của các nhân vật không phải là một cái gì tồn tại bên
trong, mà nằm ngay trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài” [52, 31]. Chắc
chắn một nhận định như thế sẽ còn gây tranh cãi, song điều chúng tôi quan
tâm là, cũng như đa số các bài viết nước ngoài, khi nghiên cứu về nhân vật
trong các sáng tác của James Joyce, điều luôn hiện diện là hiện tượng song đề
tâm lí hay sự phân vân chọn lựa của nhân vật. Vì đã đuợc nói đến rất nhiều
nên khai thác theo hướng này dễ trở thành lối mòn, trên đó mọi người thường
xuyên giẫm chân nhau.
Cũng trung thành theo hướng đi này, nhưng với một cách diễn giải khá
thú vị và mang tính phát hiện, luận văn thạc sĩ Góc khuất cái tôi James Joyce
trong “Người Dublin” của Lê Minh Kha đã dùng lí thuyết hậu thực dân để

làm sáng tỏ tính chất song đề thể hiện trong “cái tôi” của nhà văn qua các
phương diện: cốt truyện (cốt truyện gia đình với tính chất lưỡng diện của
người mẹ: bao dung và ích kỉ; cốt truyện phi kịch tính với sắc thái lưỡng phân
về tình dục: sáng tạo/ hủy diệt, thúc đẩy/ kìm hãm), điểm nhìn và giọng điệu
(“lối viết tạo góc khuất trong Người Dublin buộc ông phải lựa chọn một
giọng trần thuật riêng, có tính nước đôi, thể hiện “sự chế nhạo đeo mặt nạ
nghiêm trang” – đấy là giọng điệu mỉa mai” [29, 55]), hình tượng nhân vật
nước đôi (yêu thích/ căm ghét, tin/ không tin, chấp nhận/ khước từ). Lí thuyết


12

hậu thực dân giúp Lê Minh Kha đi đến nhận định: “tính chất lưỡng phân là
đặc tính của cái tôi James Joyce, trong đó có vấn đề dân tộc […] Một mặt,
ông vẫn ngưỡng vọng quá khứ dân tộc (thể hiện rõ nhất trong sự tôn kính lãnh
tụ Parnell), nhưng mặt khác, ông nhận thức được tính chất văn minh, hùng
mạnh, tiến bộ của thực dân” [29, 68]. Khi đặt vấn đề và giải quyết như thế,
dường như tác giả bài viết đã đánh đồng nhân vật với nhà văn và dùng chính
sản phẩm của nhà văn để diễn giải quan điểm dân tộc, xã hội của nhà văn đó;
rồi lại dùng chính quan điểm dân tộc của nhà văn để lí giải những vấn đề
trong tác phẩm. Cách làm này dễ mang tính chủ quan và áp đặt. Tuy nhiên,
diễn giải này đã đem đến gợi ý quý giá cho chúng tôi trong việc tìm hiểu
nguyên nhân vì sao James Joyce lựa chọn song đề làm phương cách sáng tác.
Sau luận văn trên, Lê Minh Kha cùng với Lê Từ Hiển đã viết một bài
nghiên cứu đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài, tuy quy mô nhỏ nhưng đã
trực tiếp khai thác hiện tượng song đề về phương diện nghệ thuật: “Động và
tĩnh trong cấu trúc truyện ngắn James Joyce”. Tương tự cách làm của
Valerie P. Zimbaro trong bài viết đề cập ở trên, hai tác giả đã soi chiếu các
truyện ngắn của J. Joyce trong tập Người Dublin dưới cặp đối lập động/ tĩnh.
Nhưng khác Zimbaro, các tác giả không xem cặp đối lập mang quan hệ tách

biệt, nhị phân, mà động và tĩnh được xác định như một cặp song đề lưỡng
phân, trong đó thành phần tĩnh gắn với trạng thái “tê liệt”, thể hiện ở khoảng
khắc tâm trạng nhân vật, đối thoại đơn điệu và kết thúc lưng chừng, thành
phần động gắn với sự “bừng ngộ” – tức sự nhận thức tự thân của nhân vật.
Theo các tác giả: “Tương liên giữa tĩnh và động, trạng thái tê liệt và sự bừng
ngộ, không những góp phần kiến tạo mạch truyện, cấu trúc tác phẩm mà còn
khắc họa bức chân dung tinh thần của nhân vật, của tác giả, của con người
đầu thế kỷ XX nói chung. Đấy là kiểu nhân vật nước đôi giữa một thế giới
vắng bóng hình Thượng đế, nơi "Chúa đã chết" và con người cô liêu giữa


13

những phân thân, chọn lựa” [23, 86]. Trạng thái “tê liệt” và “bừng ngộ”
trong tác phẩm của James Joyce không phải là một khám phá mới trong bài
viết này, đóng góp của bài viết nằm ở sự khu biệt những phương diện nội
dung và hình thức tác phẩm vào cặp song đề động/ tĩnh, góp thêm vào những
khía cạnh khai thác hiện tượng song đề.
Tiếp nối với những nghiên cứu về Người Dublin, luận văn thạc sĩ của
Lê Thị Tú Trinh: Hiện tượng epiphany trong tập truyện ngắn “Người
Dublin” của James Joyce đã chọn một vấn đề khá thú vị với từ khóa
epiphany để tìm hiểu phong cách viết của nhà văn và hướng đến sự tiếp nhận
từ độc giả. Trong tiểu mục Điểm rơi epiphany của nhân vật, tác giả luận văn
chú trọng đến khả năng nhận ra tình thế tiến thoái lưỡng nan của các nhân vật
và xem khoảnh khắc epiphany là khoảnh khắc giúp nhân vật thoát khỏi song
đề lưỡng nan này. Không dừng lại đấy, tác giả luận văn đã phân tích các yếu
tố cấu thành nên điểm rơi epiphany, đó là sự kết hợp của âm thanh và ánh
sáng: của Araby (trong truyện ngắn cùng tên) là tiếng loa thông báo tắt đèn
của hội chợ; của Eveline là hồi chuông cùng ánh sáng con tàu; của Jimmy
(Sau cuộc đua) là tia sáng bình minh được nhận ra từ thông báo của một

người bạn… Cách phân tích của Lê Thị Tú Trinh đi theo hướng vận động,
phát triển trong tâm hồn nhân vật: từ nhân vật bị giam cầm, nhận được điểm
rơi epiphany để hình thành khát vọng vượt thoát. Nói cách khác, epiphany là
một dạng mật mã mà nếu giải được, nhân vật sẽ bước qua ranh giới và thoát
khỏi trạng thái song đề.
Trong các nhà nghiên cứu James Joyce ở Việt Nam, Nguyễn Linh Chi
có lẽ là người có nhiều công trình nhất, trong đó có luận án tiến sĩ Nhân vật
Stephen Dedalus và môtíp mê cung là công trình khá dày dặn và quy mô. Từ
gợi ý của chính James Joyce rằng ông đã sử dụng kĩ thuật mê cung để viết
chương X tác phẩm Ulysses, Linh Chi đã mở rộng kĩ thuật này qua toàn bộ


14

các tiểu thuyết của J. Joyce với nhân vật Stephen làm trung tâm: từ Stephen
Hero, Chân dung một nghệ sĩ trẻ đến Ulysses và Finnegan Wake. Chúng tôi
nhận thấy giữa kĩ thuật mê cung mà Nguyễn Linh Chi phân tích với hiện
tượng song đề có những điểm trùng khớp, bởi cùng thể hiện tình thế lưỡng
phân, khó xác quyết. Không chỉ khai thác tình trạng mê cung trong thái độ của
nhân vật (về tín ngưỡng tôn giáo: khát thèm/ sợ hãi, chối bỏ/ đau đớn; về tinh
thần dân tộc: quốc gia hay đại đồng quốc tế, bạo lực hay tình thương; về công
cụ ngôn ngữ: tiếng Anh hay tiếng Gaelic) như đa phần các bài nghiên cứu đã
đề cập, tác giả luận án còn phân tích mê cung về mối liên hệ giữa nhân vật
Stephen và tác giả James Joyce: Stephen và James Joyce là hai cá thể đồng
nhất, tương ứng hay độc lập nhau? Bài viết không đi đến kết luận, vì ở mỗi
cách hiểu đều có những kiến giải riêng và hợp lí, và cũng vì “mục đích chúng
tôi hướng tới là tìm ra tính chất mê cung trong kỹ thuật viết của Joyce khi ông
làm mọi thứ rối tung lên trước mắt bạn đọc”, chứ không phải là “đưa ra
những kết luận cuối cùng về thân phận của nhân vật” [12, 45]. Rõ ràng đây
chính là một dạng song đề với vấn đề đặt ra liên quan đến xác định thể loại tác

phẩm James Joyce, ví dụ, đối với Chân dung một nghệ sĩ trẻ, tùy theo quan
điểm của người nghiên cứu về mối quan hệ của nhân vật Stephen với tác giả
James Joyce mà xác định tác phẩm là tự thuật, tiểu thuyết tự thuật hay hư cấu,
nhưng điều đó chưa bao giờ là công việc dễ dàng). Trong chương III: Thoát
khỏi mê cung, Nguyễn Linh Chi phân tích epiphany như là chìa khóa mở cánh
cửa mê cung để nhân vật thoát khỏi trạng thái phân vân của mình, nhưng
epiphany ở đây không chỉ là sự “bừng ngộ” mà còn mang tính chất “dằn
vặt”, “băn khoăn” (như khi đi cùng cô bạn E.C, Stephen nhận thấy sự ham
muốn nổi lên trong anh, cùng với đó đã kéo theo sự hồ nghi về con đường mà
anh đang đi không phải do chính anh lựa chọn). Như vậy, epiphany vừa là
hướng giải thoát song đề, cũng vừa là chính song đề, như thể vừa thoát khỏi


15

mê cung này, nhân vật lập tức rơi vào một mê cung khác.
Trở lên là những công trình nghiên cứu, bài viết ngắn có đề cập ít nhiều
đến hiện tượng song đề, những công trình này đã góp phần định hướng cho đề
tài của chúng tôi với nhiều mức độ khác nhau. Có thể nhận thấy, tuy song đề
không phải là đối tượng chính của hầu hết các bài nghiên cứu nhưng khi phân
tích bất kì phương diện nào trong các tác phẩm của James Joyce, hiện tượng
song đề luôn xuất hiện – nhiều nhất là từ phân tích tâm lí nhân vật, ngoài ra
còn có những dạng thức song đề trong kết cấu, thể loại, giọng điệu,... được
nhìn dưới ánh sáng của các học thuyết thế giới như chủ nghĩa cấu trúc, phê
bình huyền thoại, tự sự học, chủ nghĩa nữ quyền, hậu thực dân... Nhưng nhìn
chung, các nhà nghiên cứu chỉ khai thác hiện tuợng song đề ở tầng nghĩa vốn
có của nó là tính hai mặt, tình trạng lưỡng phân, chứ chưa nâng nó lên bình
diện triết học tư tưởng của nhà văn, của tác phẩm. Chọn một hướng khai thác
đã quá quen thuộc là hiện tượng song đề xuất phát từ trạng thái tâm lí nhân
vật, chúng tôi đã liều lĩnh kết hợp vào đó lí thuyết phân tâm học và một số vấn

đề triết học để mở rộng bình diện thuật ngữ, hòng khẳng định vị trí của hiện
tượng song đề trong tác phẩm của James Joyce.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là hiện tượng song đề trong tiểu
thuyết Chân dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce, cụ thể là song đề của nhân
vật chính Stephen Dedalus. Đây là vấn đề liên quan đến phong cách sáng tác
của nhà văn, chi phối toàn bộ nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm. Song đề,
vốn như một vấn đề văn học và triết học, sẽ được soi chiếu từ góc độ mới:
phân tâm học của Jacques Lacan.
Phạm vi nghiên cứu trực tiếp của chúng tôi là cuốn tiểu thuyết Chân
dung một nghệ sĩ trẻ của James Joyce, do Linh Chi dịch (nhà xuất bản Hội
nhà văn, 2010). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có đối chiếu với


16

nguyên bản tiếng Anh A Portrait of the Artist as a Young Man (nhà xuất bản
David Campbell, London, 1991). Bên cạnh đó, chúng tôi còn nghiên cứu một
số công trình trong nước và nước ngoài về học thuyết phân tâm học của
Jacques Lacan, xem như một công cụ đắc lực để vận dụng vào phân tích tác
phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương
pháp chính sau:
Phương pháp văn hóa - lịch sử: Chủ yếu chúng tôi sử dụng phương
pháp này trong chương 1 hòng lí giải phong cách tác giả từ những tác động
thời đại, dân tộc, lí giải tầm quan trọng của lối tư duy theo kiểu song đề trong
lịch sử và vì sao song đề lại trở thành một lựa chọn trong phương cách sáng
tác của nhà văn.
Phương pháp tâm lí học: Đây là phương pháp quan trọng nhất chúng tôi

dùng trong toàn bộ quá trình nghiên cứu, đặc biệt là phân tích tâm lí nhân vật
qua ba giai đoạn tương ứng với ba chương chính (2, 3 và 4). Thuyết phân tâm
học của Jacques Lacan được vận dụng xuyên suốt trong mỗi chương như một
công cụ quan trọng diễn giải nội tâm, tư tưởng nhân vật. Sử dụng phương
pháp tâm lí học và cụ thể hóa bằng việc áp dụng diễn ngôn phân tâm học của
Lacan có thể mang đến hiệu quả mới trong tiếp cận tác phẩm, tránh việc phân
tích đi vào lối mòn.
Phương pháp cấu trúc: Phương pháp này và phương pháp tâm lí học có
sự gắn bó chặt chẽ, tương hỗ với nhau, vì công cụ chúng tôi dùng phân tích là
phân tâm học cấu trúc của Lacan, theo đó, chúng tôi sẽ vận dụng mô hình cấu
trúc của Lacan dùng phân tích tinh thần để áp dụng vào phân chia cấu trúc tác
phẩm, mô hình đó là cái Thực (the Real) - cái Tưởng tượng (the Imaginary) cái Biểu tượng (the Symbolic) làm thành ba đường tròn đan cài vào nhau:


17

Mỗi đường tròn, tương ứng với mỗi chương, bắt đầu từ diễn giải cái
Thực đến cái Tưởng tượng và cái Biểu tượng trong mối quan hệ tiếp biến và
giao thoa.
Phương pháp kí hiệu học: Từ vận dụng phương pháp này khi phân tích
những mã nghệ thuật (âm thanh, màu sắc, hình ảnh biểu trưng, siêu hình…)
lặp đi lặp lại trong tác phẩm, cũng như sắp xếp và phân loại những mã ấy vào
từng cái biểu đạt khác nhau và đặt chúng trong mối quan hệ với những cái
được biểu đạt, sẽ làm sáng tỏ ý đồ nghệ thuật, tư tưởng của nhà văn.
Phương pháp hệ thống: Đây là phương pháp phụ trợ cho chúng tôi
trong việc tập hợp, chứng minh và triển khai phân tích song đề như một hiện
tượng tồn tại thực trong lịch sử tư tưởng nhân loại (từ tôn giáo, triết học đến
văn học), làm cơ sở vững chắc cho chúng tôi đi vào phân tích tác phẩm.
Ngoài các phương pháp chính trên, chúng tôi còn sử dụng các phương
pháp bổ trợ khác như so sánh và thống kê khi đi sâu vào nội dung phân tích.

5. Đóng góp của luận văn
Đề tài nghiên cứu Hiện tượng song đề trong “Chân dung một nghệ sĩ
trẻ” của James Joyce, theo chúng tôi, sẽ mang đến những đóng góp sau:
Thứ nhất, thông qua đề tài này, chúng tôi có thể giúp bạn đọc Việt Nam
cảm nhận sâu sắc hơn một tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của James
Joyce, từ sự kết hợp cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Hiện đã có ba


18

bản dịch khác nhau của A Portrait of the Artist as a Young Man ở Việt Nam,
từ 1970 đến nay (bản dịch đầu với tên gọi Chân dung chàng nghệ sĩ trẻ năm
1970 của Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh, bản dịch thứ hai Chân
dung một chàng trai trẻ của Nguyễn Thế Vinh xuất bản năm 2005, bản dịch
thứ ba Chân dung một nghệ sĩ trẻ của Nguyễn Linh Chi xuất bản năm 2010),
nhưng hơn 30 năm mà độc giả Việt Nam vẫn chỉ có một số lượng công trình
nghiên cứu ít ỏi về tác phẩm này (về sách, chỉ có duy nhất cuốn Tác gia tác
phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường: James Joyce do Nguyễn Linh
Chi biên soạn, trong đó dành toàn bộ phần phân tích tác phẩm cho Chân dung
một nghệ sĩ trẻ). Điều này cũng không lạ, vì James Joyce là một tác giả khó
đọc, thường các nhà nghiên cứu sẽ hướng sự tập trung vào tập truyện ngắn
Người Dublin vì đây có thể coi là tác phẩm nhập môn cho những ai mới tiếp
cận các sáng tác James Joyce. Do đó, chúng tôi hi vọng luận văn sẽ bổ sung
thêm cách đọc một văn bản nghệ thuật khác, thuộc thể loại tiểu thuyết, của
James Joyce.
Thứ hai, đề tài này góp vào những nghiên cứu về phong cách nghệ thuật
của James Joyce, không chỉ có dòng ý thức là đáng chú ý mà còn có hiện
tượng song đề – một đối tượng nghiên cứu xứng đáng trở thành một phương
cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Thứ ba, lấy lí thuyết Lacan ứng dụng vào phân tích tác phẩm James

Joyce, chúng tôi muốn chứng minh tính đắc dụng trong phân tích khi kết hợp
tư tưởng của nhà tâm lí học tài ba của thế kỉ XX với tư tưởng của nhà văn vĩ
đại cùng thế kỉ vào chung một vấn đề mang tính triết học như song đề, để từ
đó mở ra một hướng tiếp cận tác phẩm hoàn toàn mới.


19

6. Bố cục của luận văn
Luận văn chia làm bốn chương, trong đó chương 1 là chương cơ sở lí
luận, ba chương sau là nội dung phân tích chính của luận văn.
Chương 1: James Joyce và những vấn đề phương hướng khảo sát. Theo
tên chương, chúng tôi sẽ giới thiệu hai hướng khảo sát quan trọng của chúng
tôi về phong cách của James Joyce: thứ nhất là thuật ngữ song đề và thứ hai là
học thuyết phân tâm học của Jacques Lacan. Chúng tôi cũng sẽ lí giải khả
năng và hiệu quả kết hợp của hai phương hướng này với nhau và với tác phẩm
của J. Joyce.
Chương 2: Cái Thực và song đề trực giác; Chương 3: Cái Tưởng tượng
và song đề bản thể; Chương 4: Cái Biểu tượng và song đề diễn ngôn. Ba
chương này tương ứng với ba giai đoạn phát triển cốt truyện, nhưng được cấu
trúc theo kiểu dây xích và vòng tròn: mỗi chương có một từ khóa (cái Thực,
cái Tưởng tượng, cái Biểu tượng – lấy từ thuật ngữ phân tâm học của Lacan)
làm chủ đạo, từ khóa này móc nối với từ khóa ở chương sau và từ khóa
chương cuối sẽ quay trở lại mối liên hệ với từ khóa chương đầu. Với cách làm
này, luận văn hi vọng tạo ra tính kết nối liên tục vừa tuyến tính vừa tuần hoàn
giữa các chương cũng như giữa các giai đoạn phát triển của cốt truyện, tình
tiết, nhân vật trong tác phẩm.



×