Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

hiện tượng thủ pháp dòng ý thức trong văn xuôi việt nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.38 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hồ Hoài Khanh

HIỆN TƯỢNG THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
0


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Hồ Hoài Khanh

HIỆN TƯỢNG THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Hoài Thanh

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
1



LỜI CẢM ƠN
Qua một quá trình nỗ lực thực hiện đề tài nghiên cứu và được sự giúp đỡ của
thầy cô, gia đình và bạn bè, tôi đã hoàn thành được luận văn Thạc sĩ văn học với đề
tài: “Hiện tượng thủ pháp dòng ý thức trong văn xuôi Việt Nam đương đại”.
Nhân dịp luận văn hoàn thành, tôi xin được gửi lời cảm tạ chân thành và sâu
sắc nhất đến thầy Nguyễn Hoài Thanh – Tiến sĩ Lí luận văn học – Khoa Ngữ văn
trường Đại học sư phạm Tp.HCM đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài,
những chỉ dẫn khoa học cụ thể, hiệu quả. Hơn thế, thầy còn dạy cho tôi nhiều kinh
nghiệm quý báu trong nghiên cứu văn học cũng như việc thưởng thức cái hay, cái đẹp
của tác phẩm văn chương.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến với quý thầy cô đã tận tình giảng dạy
trong những chuyên đề Cao học; cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn và các thầy cô
chuyên viên phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên
cứu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến thầy Bùi Gia Hiếu – Hiệu trưởng trường
THPT Nhân Việt – đã hết lòng giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi có thời gian để học tập,
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã hết lòng cổ vũ,
động viên trong những lúc tôi cảm thấy mệt mỏi và yếu đuối nhất.
Con xin cảm ơn ba mẹ đã nuôi dưỡng con nên người, chăm sóc, thương yêu, lo
toan, dạy bảo cho con có được một cuộc đời đẹp hôm nay và một tương lai tươi sáng.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 09 năm 2013
HỒ HOÀI KHANH

1


TRANG CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công

bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 09 năm 2013

HỒ HOÀI KHANH

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
TRANG CAM ĐOAN ................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 8
7. Kết cấu của luận văn ...................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP DÒNG Ý
THỨC TRONG VĂN HỌC ...................................................................................... 11
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức” ....................................................................................... 11
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh thủ pháp “dòng ý thức” .................................11
1.1.2. Đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức”............................................12
1.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong văn học thế giới ..................................................... 15
1.2.1. Một số thành tựu của văn học “dòng ý thức” ở phương Tây................................15
1.2.2. Một số thành tựu của văn học “dòng ý thức” ở phương Đông .............................17
1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam .................................................... 19

1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay ..................................................19
1.3.2. Sự tiếp thu thủ pháp “dòng ý thức” ......................................................................23
1.3.3. Một số tác phẩm tiêu biểu cho thủ pháp “dòng ý thức” .......................................24
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................................... 24

CHƯƠNG 2.THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG CỐT
TRUYỆN, XÂY DỰNG ĐIỂM NHÌN VÀ KẾT CẤU NHÂN VẬT..................... 26
2.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện ...................................... 26
2.1.1. Tầm quan trọng của cốt truyện .............................................................................27
2.1.2. Xây dựng cốt truyện theo thủ pháp “dòng ý thức” ...............................................28
2.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng điểm nhìn trần thuật .................... 38
2.2.1. Vấn đề điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi nghệ thuật .......................................39
2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi theo thủ pháp “dòng ý thức” ......................40
2.3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng kết cấu nhân vật ........................... 48
3


2.3.1. Nhân vật và vai trò của nhân vật trong văn xuôi nghệ thuật ................................48
2.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật theo thủ pháp dòng ý thức ...................................51
2.4. Tiểu kết ....................................................................................................................... 66

CHƯƠNG 3: THỦ PHÁP DÒNG Ý THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG THỜI
GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT ............................................................ 67
3.1. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc tạo dựng thời gian nghệ thuật ..................... 67
3.1.1. Thời gian đồng hiện ..............................................................................................69
3.1.2. Thời gian hòa trộn quá khứ - hiện tại ...................................................................73
3.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc tạo dựng không gian nghệ thuật ................. 76
3.2.1. Không gian hiện thực có mang màu sắc tâm tưởng..............................................77
3.2.2. Không gian tâm tưởng của những giấc mơ...........................................................81
3.3. Tiểu kết ....................................................................................................................... 86


KẾT LUẬN ................................................................................................................ 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 88

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học là tấm áo khoác của thời đại, văn học làm nhiệm vụ như một tấm
gương phản ánh đời sống xã hội và con người. Văn học mỗi thời đại đều có những
yêu cầu và quy luật vận động riêng, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội. Nếu như
trước năm 1975, nước Việt Nam còn chiến tranh, thì văn học phải như những bản anh
hùng ca viết về cuộc kháng chiến anh dũng mang đậm chất sử thi, nó phản ánh cả
một bức tranh toàn cảnh về cuộc chiến gian khổ, ác liệt thì sau năm 1975, đất nước
giải phóng chủ đề nóng bỏng về chiến tranh không còn chiếm vị thế cao trong đề tài
sáng tác mà thay vào đó là việc nhà văn đi sâu vào phản ánh những đau đớn, nhức
nhói của con người thời hậu chiến. Hoàn cảnh lịch sử thay đổi buộc nhiệm vụ văn
học cũng phải thay đổi. Nhất là từ sau 1986 (thời kì đổi mới) văn học Việt Nam đã
thật sự thay da đổi thịt. Các nhà văn không đi vào những chủ đề lớn lao của đất nước
mang đậm phong vị sử thi nữa mà họ đã hướng về những ẩn ức trong đời sống tâm
hồn của con người. Và làm được điều đó thì nhà văn phải biết tìm tòi, sáng tạo cho
mình một thủ pháp đắc dụng để chuyển tải những tâm tư tình cảm của mình. Chính vì
nhu cầu đó thủ pháp “dòng ý thức” như một sự lựa chọn thú vị cho các nhà văn. Thủ
pháp “dòng ý thức” xuất hiện ở văn học phương Tây từ rất lâu và cũng đã có tầm ảnh
hưởng đến nền văn học Việt Nam.
Thủ pháp “dòng ý thức” là một thủ pháp nghệ thuật của văn xuôi nghệ thuật
hiện đại, nhất là tiểu thuyết. Thủ pháp “dòng ý thức” tham gia vào quá trình khám
phá “cái tôi bề sâu” trong đời sống nhân vật. Cách nhìn nhận cuộc sống xuất phát từ
đời sống nội tâm nhân vật không phải lúc nào cũng trùng khít với đời sống hiện thực

đang diễn ra như quan niệm vốn được nhìn nhận từ trước đến nay. Vì thế, nhiều ý
kiến trái chiều khi tìm hiểu thủ pháp “dòng ý thức” là không tránh khỏi. Bên cạnh đó,
việc khám phá cái mới, khẳng định những cách tân, thành tựu tiêu biểu của văn xuôi
Việt Nam là sự quan tâm của nhiều người, trong đó có chúng tôi. Đó cũng chính là lý
do thôi thúc chúng tôi đến với đề tài: “Hiện tượng thủ pháp dòng ý thức trong văn
xuôi Việt Nam đương đại”.
5


2. Lịch sử nghiên cứu
Trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đương đại xuất hiện rất nhiều những thủ
pháp hiện đại được các nhà văn sử dụng linh động và hiệu quả. Yếu tố mới xuất hiện
trong văn học luôn là mối quan tâm hàng đầu của độc giả và giới nghiên cứu, phê
bình văn học. Và một trong số đó có thủ pháp “dòng ý thức”. Ở Việt Nam cuối thế kỉ
XX, các nhà văn chú ý cách tân theo hướng hiện đại, rút gần khoảng cách với văn
chương thế giới. Chính vì thế mà thủ pháp “dòng ý thức” đã được quan tâm tiếp thu
và đã được manh nha trong các sáng tác của Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Khải,…và hoàn thiện dần trong sáng tác của Bảo Ninh, Thuận, Mạc
Can, Nguyễn Bình Phương,…
Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về thủ pháp “dòng ý thức” trong
văn xuôi Việt Nam đương đại được tổng hợp trong quyển giáo trình của Nguyễn Văn
Long (2008), Văn học Việt Nam sau 1975 – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy,
Nxb Giáo dục; Nguyễn Đăng Điệp (2002), Kĩ thuật dòng ý thức trong Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh, trong Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm,…
Bên cạnh đó còn có thể kể đến những luận văn Đại học, Cao học có nghiên cứu
đến hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” như: Hồ Bích Ngọc với luận văn Nguyễn Bình
Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại (2006), đã có sự quan tâm đến một số kĩ
thuật của thủ pháp “dòng ý thức”; Hoàng Bích Hậu với đề tài luận văn Dòng hồi ức
trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (2007), đã tìm hiểu thủ pháp
“dòng ý thức” biểu hiện qua dòng hồi ức của nhân vật chính; Bùi Thị Vân Khánh với

luận văn Đoàn Minh Phượng và khuynh hướng tiểu thuyết huyền ảo triết luận ở Việt
Nam hiện nay (2009), đã nghiên cứu và nhận định rằng: “Chú ý lịch sử tâm hồn hơn
là lịch sử sự kiện, nhà văn khao khát tạo ra những công cụ có thể khám phá cái thế
giới bí ẩn bên trong con người. Khắc họa con người bên trong nhân vật qua dòng hồi
ức là một thủ pháp của văn xuôi nghệ thuật đương đại.”
Trên đây là một số ý kiến, bài viết, nghiên cứu về thủ pháp “dòng ý thức” ở
Việt Nam trong những năm gần đây. Nhìn chung đa số các ý kiến đều khẳng định
hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” đang được các nhà văn sử dụng trong việc sáng
tạo nghệ thuật và đạt đến những thành công bước đầu. Nhưng ở đây các tác giả chỉ
6


mới đưa ra những nhận định khái quát chứ chưa đi sâu vào một vấn đề cụ thể, những
bài luận văn chỉ chỉ tập trung một tác giả với một số tác phẩm nhất định. Nhưng tất cả
những gợi mở trên là những tư liệu quý giá để chúng tôi tiến hành nghiên cứu rộng
hơn với đề tài: “Hiện tượng thủ pháp dòng ý thức trong văn xuôi Việt Nam đương
đại”
Đến với đề tài này, chúng tôi rất phấn khởi và tập trung bắt tay thực hiện
nhưng chỉ sợ không đủ tài và tâm để có thể bóc tách những vấn đề quan trọng, nhất là
thời gian cũng hạn chế. Rất mong được sự đánh giá, nhận xét và góp ý quý báu của
thầy cô.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi khi nghiên cứu đề tài “Hiện tượng thủ pháp dòng ý thức
trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đương đại”:
Thứ nhất, chúng tôi muốn vận dụng những kiến thức đã được học và trau dồi ở
trường Đại học sư phạm Tp.HCM để nghiên cứu một vấn đề lí luận văn học. Và đây
cũng là luận văn tốt nghiệp Cao học.
Thứ hai, chúng tôi muốn đóng góp một chút công sức nghiên cứu nhỏ bé của
mình về sự đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đương đại thông qua sự ảnh
hưởng của thủ pháp “dòng ý thức” từ phương Tây.

Thứ ba, chúng tôi cũng muốn qua đề tài này để góp phần giới thiệu thủ pháp
“dòng ý thức” đến người đọc để từ đó mong rằng có thể tạo được sự hứng thú cho
những nghiên cứu tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” trong nền văn học Việt Nam đương đại
được thấy rải rác ở nhiều tác giả, tác phẩm. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ khảo
sát một số tác phẩm tiêu biểu và những tác phẩm chưa được phân tích kĩ. Những tác
phẩm kể đến như sau:
Một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra,
Bức tranh,…

7


Một số tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Tấm ván phóng dao
(Mạc Can), Chinatown (Thuận), Thế giới xô lệch (Bích Ngân).
Tuy nhiên, hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” đậm đặc hơn vẫn là tiểu thuyết.
Do đó, trong luận văn này, khi nghiên cứu chúng tôi cũng nghiêng về phía thể loại
tiểu thuyết nhiều hơn, còn một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu chỉ là một số
hỗ trợ nhất định.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, chúng tôi cũng có tham khảo thêm một số
tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, Đoàn Minh Phượng, Châu Diên, Phạm Thị
Hoài,…
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, bình giảng, tổng hợp.
- Phương pháp hệ thống

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có một số đóng góp như sau:
Nghiên cứu tìm hiểu một thủ pháp đắc dụng của phương Tây trong việc tái
hiện cuộc sống xã hội và con người một cách độc đáo, đó là thủ pháp “dòng ý thức”.
Phân tích những biểu hiện và sự tiếp thu ảnh hưởng của thủ pháp “dòng ý
thức” trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam đương đại từ phương Tây. Cụ thể khảo sát
qua một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Mạc Can, Thuận và Bích
Ngân.
Đánh giá những thành công của thủ pháp “dòng ý thức” vào văn xuôi Việt
Nam thời kì đổi mới.
Gợi mở cho những hướng nghiên cứu tiếp theo về thủ pháp “dòng ý thức”
trong một số tác phẩm văn xuôi nghệ thuật khác.

8


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài hai phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn được sắp xếp thành ba
chương:
Chương 1. Một số vấn đề xung quanh về thủ pháp “dòng ý thức” trong
văn học
Ở chương này gồm ba phần chính:
Phần một, chúng tôi giới thuyết sơ lược về khái niệm, nguồn gốc phát sinh và
một số đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức” trong văn học.
Phần hai, chúng tôi khảo sát một số thành tựu tiêu biểu của văn học thế giới khi
vận dụng thủ pháp “dòng ý thức” ở phương Tây như: Người Dubin, Ulysses (James
Joyce), Đi tìm thời gian đã mất (Proust), Sóng (Virginia), Âm thanh và cuồng nộ
(Faulker),…và ở phương Đông như: Linh Sơn (Cao Hành Kiện), Người đẹp say ngủ
(Kawabata Yasunari), Biên niên kí chim vặn dây cót (Haruki Murakami),…
Phần ba, chúng tôi sẽ khảo sát hiện tượng tiếp thu thủ pháp “dòng ý thức” qua

một số thành tựu tiêu biểu của văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học Việt Nam
đương đại có vận dụng hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức”. Đó cũng là một trong
những yêu cầu đổi mới văn học từ sau 1975.
Chương 2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng cốt truyện, xây
dựng điểm nhìn và kết cấu nhân vật
Ở chương này gồm ba phần chính:
Phần một, chúng tôi trình bày hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” trong việc
xây dựng cốt truyện. Cốt truyện trong thủ pháp “dòng ý thức” không theo một trật tự
nhất định mà có sự xáo trộn thời gian – không gian, sự kiện,…Cốt truyện được hình
thành theo dòng chảy tâm tư của nhân vật và có hiện tượng lồng ghép và phân rã cốt
truyện.
Phần hai, chúng tôi trình bày hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây
dựng điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật là căn cứ tìm hiểu nội dung tác
phẩm. Thủ pháp “dòng ý thức” cho phép di chuyển điểm nhìn trần thuật chứ không
“yên vị” như trước đây vẫn thường thấy.

9


Phần một, chúng tôi trình bày hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” trong việc
xây dựng kết cấu nhân vật. Nhân vật trong thủ pháp “dòng ý thức” thường là nhân vật
tâm trạng, các hồi ức hiện lên, quay về xáo trộn liên tục. Nhân vật trong thủ pháp
“dòng ý thức” cũng có sự hóa thân, di chuyển và có khả năng phản chiếu những nhân
vật khác.
Chương 3. Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc xây dựng thời gian và
không gian nghệ thuật
Ở chương này gồm hai phần chính: Thủ pháp “dòng ý thức” trong việc tạo
dựng thời gian và không gian nghệ thuật. Đây là hai yếu tố quan trọng làm nên hình
tượng nghệ thuật cho một tác phẩm văn học.
Ở thủ pháp “dòng ý thức”, cùng với việc cốt truyện linh hoạt, thời gian và

không gian cũng bị xáo trộn theo. Thời gian không gian đồng hiện, hòa trộn quá khứ
thực – tại – tương lai,… là một đặc điểm của thủ pháp “dòng ý thức”. Ở thời gian
nghệ thuật trong tác phẩm chúng tôi trình bày hai vấn đề: thời gian hòa trộn quá khứ hiện tại và thời gian đồng hiện hiện tại. Ở không gian nghệ thuật của tác phẩm, chúng
tôi cũng trình bày hai vấn đề: không gian thực mang màu sắc tâm tưởng và không
gian tâm tưởng qua những giấc mơ.

10


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VỀ THỦ PHÁP
DÒNG Ý THỨC TRONG VĂN HỌC
Thủ pháp “dòng ý thức” là một thủ pháp, một kĩ thuật sáng tác hiện đại, độc
đáo, tạo thành một trào lưu của nền văn học ở thế kỉ XX. Khi xây dựng tác phẩm thủ
pháp “dòng ý thức”, các nhà văn cố ý vứt bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt
truyện, không chú ý đến bối cảnh, ngoại cảnh, câu văn không dùng dấu chấm, dấu
phẩy. Các nhà văn sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật mới như đảo ngược thời gian,
thời gian đồng hiện, hòa trộn thực hư, hiện tại, quá khứ, tương lai,…Thủ pháp “dòng
ý thức” xuất phát từ phương Tây và đã có những thành công rực rỡ qua những cuốn
tiểu thuyết “dòng ý thức” trước khi “du ngoạn” đến phương Đông. Ở các nước
phương Đông cũng có những thành công nhất định về những tác phẩm văn chương
mang hơi thở thủ pháp “dòng ý thức” như Trung Quốc, Nhật Bản,…Ở Việt Nam
chúng ta chưa có thể loại tiểu thuyết “dòng ý thức” nhưng từ sau 1975 trở lại đây
(văn học thời kì đổi mới) đã có một số biểu hiện của hiện tượng về thủ pháp “dòng ý
thức” và đã đạt được những thành công nhất định cả về nội dung và nghệ thuật.
1.1. Về thủ pháp “dòng ý thức”
Thủ pháp “dòng ý thức” xuất hiện và đem đến cho nhà văn một kĩ thuật mới
trong sáng tác văn chương và làm nên những thành tựu rực rỡ. Và cũng từ đó, giới
nghiên cứu văn học và người đọc đặt ra những câu hỏi: Vậy thủ pháp “dòng ý thức”
là gì và có nguồn gốc từ đâu? Thủ pháp “dòng ý thức” có đặc điểm gì?....
1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh thủ pháp “dòng ý thức”


“Dòng ý thức” (stream of consciousness) là một dòng văn học của thế kỉ XX,
chủ yếu là văn học hiện đại chủ nghĩa hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc,
liên tưởng. “Dòng ý thức” có nguồn gốc là một thuật ngữ tâm lý, xuất hiện lần đầu
tiên trong Nguyên lý tâm lí học (1904) của William James ở cuối thế kỉ XIX. Hai
chương 8, 9 của toàn bộ quyển sách, có nhắc đến thuật ngữ này, được đăng trên tạp
chí Tâm linh năm 1884. Bài viết trình bày lí luận chủ yếu của học thuyết tâm lí học
của James. Đó là đem khái niệm “tư tưởng” so sánh với một luồng nước chảy
(stream), một dòng sông (river) - đây được xem là một tỉ dụ quán triệt - mà trong đó
11


có các ý nghĩ, cảm giác, các liên tưởng bất chợt thường xuyên chen nhau, thay nhau
và đan bện vào nhau một cách lạ lùng, “phi lôgic” bởi vì ý thức con người không
phải là sự gắn nối của mảnh đoạn, mà là trôi chảy; không phải là tập hợp những thành
phần đồng nhất nhau mà là sự trộn lẫn, đan xen. Chính vì vậy, có thể xem ý thức là
một dòng chảy, trong đó các suy nghĩ, cảm giác, liên tưởng bất chợt cứ xen lẫn, đan
bện vào nhau tạo thành những khối hỗn độn, rối rắm.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Dòng ý thức” là một khái niệm chỉ một
xu hướng sáng tạo văn học (chủ yếu văn xuôi nghệ thuật thế kỉ XX), hướng tới tái
hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng của con người. Ở đó, những tư tưởng,
cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn lấn át nhau và đan bện vào nhau một cách lạ lùng.
“Dòng ý thức” là trường hợp cực đoan của độc thoại nội tâm, khi mà các mối liên hệ
khách quan với môi trường thực tại khó bề khôi phục lại”[…] [18; 93]. “Dòng ý
thức” chú ý khai thác chiều sâu trong tâm trạng con người trở thành nguyên tắc nghệ
thuật chỉ đạo xuyên suốt tác phẩm. Biểu hiện của “dòng ý thức” là phơi bày các hoạt
động bí ẩn trong đời sống nội tâm. Nhà văn khi viết tác phẩm theo “dòng ý thức”
thường không chú ý tới cốt truyện, thậm chí cố ý vứt bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh
của cốt truyện, nhà văn cũng không quan tâm nhiều đến bối cảnh, ngoại cảnh mà
quan trọng là chú ý đến cái chủ quan, cái bí ẩn trong tâm lí con người, dòng ý thức

có thể đứt nối. Các nhà văn khi viết tác phẩm theo thủ pháp dòng ý thức thường song
hành với những thủ pháp nghệ thuật mới như đảo ngược thời gian, thời gian đồng
hiện, hòa trộn thực hư, hiện tại, quá khứ và tương lai.
1.1.2. Đặc điểm và chức năng của thủ pháp “dòng ý thức”

Thứ nhất, sáng tác văn xuôi theo thủ pháp “dòng ý thức” xác lập nên “trung
tâm ý thức”, ra sức khám phá, biểu hiện chiều sâu tâm lí. Nhà tiểu thuyết tâm lí cho
rằng, tiểu thuyết chủ nghĩa hiện thực truyền thống chú trọng hiện thực bên ngoài,
miêu tả hành vi nhân vật và sắp xếp tình tiết câu chuyện, nhưng lại miêu tả sơ lược
cảm nhận và đời sống nội tâm của nhân vật, điều này không phải là sự miêu tả chân
thực; sự chân thực thực thụ, chân thực cao nhất là tâm hồn của con người, sáng tác
tiểu thuyết nên từ bỏ những nhân tố bên ngoài, lấy chủ quan thay cho khách quan, chỉ
cảm nhận chân thành từ cổ chí kim của tâm hồn con người. Văn xuôi sáng tác theo
12


thủ pháp “dòng ý thức” chia hiện thực thành hai loại: một loại hiện thực giản đơn,
bên ngoài, đồng nhất, khách quan, ví dụ như một vườn hoa, một phòng ăn, giống
nhau trong mắt mỗi người; một loại hiện thực khác là riêng biệt, phức tạp, bên trong,
chủ quan, ví dụ như ấn tượng mà vườn hoa, nhà ăn ở trên trong mỗi cá nhân đều rất
riêng biệt, điều này mới là chân thực duy nhất, cơ bản. Vì thế, đối tượng trung tâm
miêu tả của thủ pháp “dòng ý thức” là ý thức của con người, chú trọng biểu hiện quá
trình ý thức, hoạt động tâm lí, bao gồm trạng thái tâm lí thông thường và trạng thái
tâm lí khác thường, từ đó mà làm hiện lên tiềm thức của nhân vật.
Virginia Woolf nói: “Nếu như nhà văn là người tự do, không phải là nô lệ, nếu như
anh ta có thể tùy theo ý thích của mình mà bỏ qua việc khư khư ôm lấy cái cũ, nếu
như anh ta có thể lấy cảm nhận cá nhân mà không phải là bắt chước truyền thống
làm căn cứ cho công việc của mình, thì sẽ không có những loại niềm vui hoặc hoạn
nạn của tình yêu, hài kịch, tình tiết do ước định tạo thành, hơn nữa có lẽ cũng không
có những phương thức cố định đó. Cuộc sống cũng không phải là chiếc kính tốt được

lắp một cách đều đặn; cuộc sống là một vầng sáng rực rỡ, là phong bì trong suốt bao
quanh chúng ta, đầu cuối tương ứng với ý thức của chúng ta. Những thứ này biến
thành tình thần bên trong, nhiều đầu mối, không thể miêu tả định dạng, rất khó giới
thuyết- bất luận nó có thể bộc lộ khác thường và phức tạp như thế nào – dùng câu
chữ biểu hiện ra, hơn nữa ra sức hạn chế thâm nhập vào tạp chất bên ngoài, đây lẽ
nào không phải là nhiệm vụ của nhà tiểu thuyết?”(Virginia Woolf: Bàn về tiểu thuyết
và người viết tiểu thuyết. Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1986, tr8)[49]. Sáng tác văn
chương “dòng ý thức” viết về tâm lí và ý thức nhân vật không giống như sáng tác văn
chương truyền thống xuất phát từ phương diện tác giả mà để nhân vật tự bộc lộ thông
qua độc thoại nội thân, tự do liên tưởng, phân tích tâm lí, tác giả lui vào hậu trường.
Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust dài 300 vạn chữ, tất cả được hợp thành do
hồi ức và mộng ước, phản tỉnh, nghị luận, cảm thưởng của nhân vật, ý thức, tình cảm,
tinh thần của nhân vật phiêu hốt bất định, không liên quan nhau.
Thứ hai, thủ pháp “dòng ý thức” phá vỡ kết cấu trần thuật tuân theo không
gian, thời gian tự nhiên, tạo nên kết cấu trần thuật theo “không gian, thời gian tâm lí”.
Văn xuôi truyền thống khi sắp xếp tình tiết thường tuân theo không gian, thời gian tự
13


nhiên, phù hợp logic, quá khứ, hiện tại vừa có sự phân biệt, lại vừa có sự kế tiếp
nhau, là mô hình kết cấu trần thuật tuyến tính. Thủ pháp “dòng ý thức” lấy dòng ý
thức và hoạt động tâm lí của nhân vật làm sợi dây kết cấu xuyên suốt tác phẩm, đảo
lộn trật tự không gian, thời gian tự nhiên, quá khứ, hiện tại và tương lai hoặc là đồng
hiện, hoặc giao nhau, hoặc đảo nhau, có khi lấy “dòng ý thức” và hoạt động tâm lí
nhân vật là một sợi dây từ một điểm tỏa đi nhiều hướng để kết cấu tác phẩm. Những
điều này đều làm cho tính hoàn chỉnh của câu chuyện bị chia tách, tính liên quan của
tình tiết bị thủ tiêu, tâm lí nhân vật không phù hợp logic, chỉnh thể trần thuật thể hiện
tính tùy ý, nhảy vọt. Tác phẩm Cô Dalloway của VirginiaWoolf viết về cuộc sống
của nhân vật cùng tên trong một ngày nào đó của tháng 6 năm 1923 đã đi mua hoa từ
sáng đến tối để tổ chức yến tiệc tổng cộng hết 12 tiếng, nhưng trên thực tế lại viết về

sự trải nghiệm cuộc sống mấy chục năm từ 18 tuổi đến 52 tuổi. Vậy trên phương diện
kết cấu, tác giả không tuân theo kết cấu từ quá khứ đến hiện tại của sáng tác văn xuôi
truyền thống mà là lấy những điều tai nghe mất thấy trong hiện tại làm một điểm, để
cho “dòng ý thức” của nhân vật từ điểm này không ngừng tiến lên phía trước hoặc
nhảy về phía sau, dòng ý thức và hoạt động tâm lí của nhân vật trở thành sợi dây kết
cấu.
Thứ ba, biểu hiện nghệ thuật rõ nhất của thủ pháp “dòng ý thức” phần lớn là
vận dụng độc thoại nội tâm, và liên tưởng tự do,… Độc thoại nội tâm là thủ pháp
sáng tác biểu hiện nội tâm, tình cảm, thể nghiệm của nhân vật tiềm tàng trong những
tầng thứ mà ngôn ngữ nhiều khi bất lực, có thể là một tầng, có thể là nhiều tầng phức
tạp. Liên tưởng tự do là thủ pháp biểu hiện nghệ thuật của từ và tư tưởng trong đó
một từ hoặc một tư tưởng làm vật dẫn tạo ra một hệ thống quan hệ có thể có logic
hoặc không có logic. Thủ pháp “dòng ý thức” dùng để biểu hiện quá trình ý thức và
hoạt động tâm lí của nhân vật, đặc biệt là để biểu hiện tiềm thức nhân vật, phần lớn
dùng thủ pháp biểu hiện nghệ thuật là độc thoại nội tâm và liên tưởng tự do…biểu
hiện ra tình cảm nội tâm, thể nghiệm, liên tưởng của nhân vật. Ví dụ như Uylixo
của James Joyce đã dành bốn mươi trang của chương cuối cùng để viết về độc thoại
nội tâm miên man không dứt và hoàn toàn không có tiêu điểm của nhân vật.

14


Thứ tư, thủ pháp “dòng ý thức” cũng có nét đặc sắc trong việc vận dụng ngôn
ngữ. Thông thường, ngôn ngữ văn xuôi truyền thống đại đa số phù hợp với quy tắc
ngữ pháp và logic lí tính, thông qua sự chỉnh lí, tổ chức hành vi con người, nhưng
văn xuôi sáng tác theo thủ pháp “dòng ý thức” hướng tới biểu hiện chiều sâu ý thức
nhân vật, biểu hiện tinh thần cảm xúc phiêu hốt, bấn loạn, biểu hiện một cách sinh
động, chân thực ý thức, đặc biệt đặc điểm của tiềm thức, nên khi vận dụng ngôn ngữ
cũng thường là không phù hợp với quy phạm ngữ pháp, thiếu logic lí tính, thậm chí
hỗn loạn, đảo lộn. Thủ pháp “dòng ý thức” thuần túy trong một số sáng tác ở phương

Tây chạy theo “ngôn ngữ dòng ý thức” hoặc văn không có tiêu điểm, hoặc chữ đầu
mỗi câu không viết hoa, phần lớn sử dụng từ vựng ngoại lai, thậm chí dùng mấy loại
tổ hợp tự do ngôn ngữ, nhiều thể loại trong cùng một tác phẩm.
1.2. Thủ pháp “dòng ý thức” trong văn học thế giới
Thủ pháp “dòng ý thức” trong văn học thế giới đã xuất hiện từ sớm. Ngay từ
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nhiều nhà văn đã lấy thủ pháp “dòng ý thức” làm
nguyên tắc trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Nổi bật nhất là những thành tựu rực
rỡ ở phương Tây. Kế đến là một số thành tựu ở một vài nước ở phương Đông như
Trung Quốc, Nhật Bản,…trong đó có Việt Nam.
1.2.1. Một số thành tựu của văn học “dòng ý thức” ở phương Tây

Như đã trình bày ở phần trước, thủ pháp “dòng ý thức” đã phản ánh một cách
chân thật những dòng chảy tâm tư rối rắm, phức tạp của con người. Thủ pháp “dòng
ý thức” đi sâu vào cái bí ẩn bên trong tâm lý con người, phân tích một cách tinh tế
những tâm trạng và cả cái vô thức sâu kín trong con người bằng cách cấu tạo câu chữ
phức tạp, kéo dài, nhằm đạt tới mức tối đa sự thể hiện những biến động quanh co, rối
bời và rất khó nắm bắt của cõi lòng sâu thẳm, đặc biệt là cuộc đấu tranh nội tâm của
con người hiện đại – những hoài nghi, tranh cãi trong chính con người. Nói như
Faulknet – một nhà văn có nhiều thành tựu trong loại tiểu thuyết này – “dòng ý thức”
là nghệ thuật thể hiện “trái tim con người đang gây hấn với chính nó” [15; 493].
Trong văn học phương Tây, “dòng ý thức” được sử dụng nhằm biểu hiện tâm
trạng của con người trong xã hội tư bản hiện đại với một “căn bệnh mới của thế kỉ” –
15


sự cô đơn cực điểm cùng sự đứt gãy mối liên hệ với môi trường thực tại “sự bất lực
của con người, không thể giao tiếp nổi với kẻ khác” [15; 493]. Trong hình thức dòng
ý thức, các nhà văn đã có nhiều kĩ xảo độc đáo. Sử dụng thủ pháp đồng hiện kiểu
điện ảnh, phá vỡ các lớp thời gian vật lý, làm đứt đoạn dòng chảy ngôn từ và mạch
truyện, tính chất không liền mảnh của nhân vật, lối viết độc thoại nội tâm và phân

tích tâm lý… là những kỹ thuật tiêu biểu của tiểu thuyết “dòng ý thức”. Nhà văn đã
sử dụng phương pháp nội quan, lấy cảm xúc cá nhân và trực giác nhạy bén làm cách
thức khám phá và phản ánh thực tại khách quan vào trong tác phẩm nghệ thuật.
Các nhà văn tiêu biểu cho văn học “dòng ý thức” là Proust với Đi tìm thời
gian đã mất, Virginia Woolf với Sóng, James Joyce với Ulysses, Faulker với Âm
thanh và cuồng nộ… Mỗi nhà văn có những sáng tạo riêng trong việc biểu đạt “dòng
ý thức”, ví dụ ở Proust: “cốt truyện tan ra để tái kết lại phục vụ cho một kết cấu thời
gian tâm lí” [6; 530], còn ở Faulknet “sự khai triển và liên kết các chủ đề với nhau
theo đủ kiểu làm đảo lộn mọi trật tự thời gian đến mức dường như truyện kể vừa biểu
hiện những gì đến đâu là thường lại chôn vùi, nhận chìm ngay đến đấy” [6; 530].
Trong số đó, thành công nhất là James Joyce với tác phẩm Ulysses. Ulysses la
câu chuyện xảy ra trong một ngày – ngày 16 tháng 6 năm 1904, xoay quanh ba nhân
vật: Leopold Bloom, vợ Leopold Bloom và Stephen Dedalus. Sử dụng kĩ thuật “dòng
ý thức”, câu chuyện diễn ra với cấu trúc song song của những sự kiện chính trong
hành trình trở về nhà của Odyssey. Bloom đã thực hiện cuộc hành trình dưới trần thế
của mình, đấu tranh trước những thử thách thường ngày, trong một ngày bình thường.
Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng
tượng của Bloom, vợ anh ta – Molly và Stephen Dedalus trong một ngày trọn vẹn ở
Dublin. Được xem là trung tâm và đỉnh cao của văn học “dòng ý thức”, Ulysses đã đi
đến cùng những khả năng nghệ thuật của xu hướng này: sự nghiên cứu đời sống nội
tâm con người kết hợp với sự xói mòn ranh giới tính cách, sự phân tích tâm lý đôi khi
trở thành mục đích tự thân.
Văn học Âu Mỹ sau Thế chiến thứ hai đã chứng kiến sự nở rộ của thủ pháp
“dòng ý thức” ở những mức độ khác nhau trong sáng tác của trường phái “tiểu thuyết
mới” (Nouveau roman) ở Pháp: Michel Butor, Nathalie Sarraute…, trong loại tiểu
16


thuyết "đề tài nhỏ" ở Anh: Anthony Powell, Paul Johnson…, trong thể nghiệm tiểu
thuyết tâm lý học ở Cộng hòa Liên bang Đức: Uwe Johnson, Alfred Andersch…

nhưng lại bị bác bỏ bởi một số nhà văn khác, nhất là các nhà văn tiếp tục xu hướng
hiện thực xã hội chủ nghĩa: C. P. Snow, Angus Wilson, Francois Mauriac, Wolfgang
Koeppen...
1.2.2. Một số thành tựu của văn học “dòng ý thức” ở phương Đông

Châu Á cũng chứng kiến sự thể nghiệm thành công của những sáng tác văn
học “dòng ý thức” trong tác phẩm của nhiều nhà văn, đặc biệt ở Nhật Bản với
Kawabata Yasunari với tác phẩm tiêu biểu là Người đẹp say ngủ và Haruki
Murakami với tác phẩm Biên niên kí chim vặn dây cót.
Trần Minh Sơn trong Phê bình văn học Trung Quốc đương đại đã nhận xét
“Bàn về nguyên nhân dẫn đến sự phồn vinh đa dạng của văn học Trung Quốc Thời kì
mới, không thể không nói đến vấn đề tiếp nhận văn học nước ngoài” [35; 34]. Chỉ
trong một thời gian ngắn, hầu hết các trào lưu sáng tác, trường phái lý luận, trào lưu
triết học lớn của phương Tây… đã tác động mạnh đến tư duy Trung Quốc. Các nhà
văn Trung Quốc liền cho ra đời một trào lưu sáng tác mới nhằm tìm tòi, thử nghiệm,
vận dụng các phương pháp và thủ pháp biểu hiện của văn học hiện đại phương Tây,
trong đó có thủ pháp “dòng ý thức”. Thủ pháp này sở dĩ có sức ảnh hưởng khá lớn
đối với các tác giả Trung Quốc vì nó gắn với tinh thần chủ đạo, với những vấn đề bức
thiết của văn học Trung Quốc đương thời: đó là vấn đề “nhân đạo và nhân tính chủ
nghĩa” như phát biểu của Lỗ Khu Nguyên “Xuất phát từ đặc tính của bản thân văn
học, tôi cho rằng, giá trị của văn học là ở chỗ can dự vào đời sống tâm linh của con
người. Theo tôi, văn học là sự kiếm tìm cái đẹp nơi sâu thẳm tâm hồn con người, văn
học là biểu hiện tự do của sự sáng tạo tâm hồn con người…” [35; 14], vấn đề “tính
chủ thể của văn học”… Văn học “dòng ý thức” in dấu trong sáng tác của nhiều nhà
văn Trung Quốc đương thời. Trong số đó, người vận dụng thành công nhất thủ pháp
“dòng ý thức” là nhà văn Vương Mông. Ông được coi là người đi tiên phong trong
việc cách tân thể loại tiểu thuyết của văn học Trung Quốc Thời kỳ mới. Từ năm 1979
đến 1980, sáu “tiểu thuyết mới” của ông đã gây chấn động văn đàn Trung Quốc, đó
là những cuốn tiểu thuyết theo lời của chính tác giả là “không tuân theo kết cấu của
17



bản thân cuộc sống, mà là tuân theo hình ảnh phản chiếu của cuộc sống tâm linh mọi
người, trải qua sự nhấm nháp nghiền ngẫm nhiều lần nơi tâm linh con người, trải
qua những ký ức, lắng đọng, hoài niệm, quên lãng rồi lại hồi ức lại” [35; 40]. Sự
thành công của Vương Mông ở chỗ tiểu thuyết “dòng ý thức” của ông không phải là
bản sao của phương Tây. Ông chỉ vận dụng thủ pháp “dòng ý thức” của văn học hiện
đại phương Tây còn đời sống và tư tưởng là hoàn toàn của Trung Quốc. Tiểu thuyết
“dòng ý thức” của Vương Mông thậm chí còn được xem là tiểu thuyết “dòng ý thức”
phương Đông. Nối tiếp sau thành công của Vương Mông trong việc vận dụng thủ
pháp “dòng ý thức” là hàng loạt tên tuổi đã tạo được tiếng vang không chỉ trong
phạm vi Trung Quốc như Thiết Ngưng với Những người đàn bà tắm, Vương An Ức
với Trường Hận ca, Mạc Ngôn với Tửu quốc, Rừng xanh lá đỏ,…
Một thành công rực rỡ của việc vận dụng thủ pháp “dòng ý thức” trên văn
đàn Trung Quốc là kiệt tác Linh Sơn của Cao Hành Kiện. Linh Sơn của Cao Hành
Kiện ra đời đánh dấu sự xuất hiện của một “kì thư” trong nền văn học Trung Quốc
cũng như một kiệt tác trong nền văn học nhân loại. Linh Sơn với sự đột phá về
phương diện nghệ thuật đã “mở ra nhiều nẻo đường mới cho nghệ thuật tiểu thuyết
Trung Quốc” [49; 647]. Mọi tìm tòi, thể nghiệm về một hình thức tiểu thuyết mới
trong Linh Sơn đều là sự nỗ lực, tâm huyết của một trái tim luôn sục sôi khát vọng
tìm hiểu bản thân và cuộc sống, khát vọng đi tới tận cùng hiện thực thế giới tâm hồn
con người cùng sự tìm tòi một kĩ thuật viết mới nhằm chuyển tải hiện thực này một
cách tự nhiên nhất. Khát vọng đó càng trở nên mãnh liệt đối với các văn nhân Trung
Quốc sau “mười năm động loạn” – mười năm cách mạng văn hóa. Trong số những
thủ pháp độc đáo làm nên sự đột phá của Linh Sơn, có thể nói, “dòng ý thức” là thủ
pháp hiện đại nhất, thể hiện sự ảnh hưởng của kĩ thuật viết phương Tây nhất nhưng
cũng lại là thủ pháp thể hiện trọn vẹn đời sống, tư tưởng, linh hồn dân tộc Trung Hoa
nhất. Cao Hành Kiện đã khéo léo vận dụng thủ pháp “dòng ý thức” để khai thác triệt
để những phức tạp, bí ấn trong nội tâm con người tương thông với đời sống dân tộc,
cộng đồng trong quá khứ, hiện tại và tương lai.


18


1.3. Hiện tượng thủ pháp “dòng ý thức” ở Việt Nam
Văn học Việt Nam đương đại đã có nhiều bước tiến vượt bậc về nội dung và
nghệ thuật để phù hợp với thời kì đổi mới. Khi bước vào thời kì đổi mới, trong không
khí dân chủ của đời sống văn học, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam thật sự thăng hoa,
đổi mới tư duy. Và để làm được điều này đòi hỏi nhà văn phải không ngừng sáng tạo,
mài mò, tiếp thu những thủ pháp nghệ thuật mới để có thể đưa đến cho người đọc
những tác phẩm hay, mới lạ. Thủ pháp “dòng ý thức” được tiếp thu từ bên ngoài
được xem như một công cụ hữu hiệu giúp nhà văn dễ dàng viết lên những trang văn
sống động về thế giới nội tâm con người. Một số thành tựu có thể kể Phiên chợ Giát
đến như: (Nguyễn Minh Châu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Chinatown
(Thuận), Thế giới xô lệch (Bích Ngân),…
1.3.1. Văn xuôi nghệ thuật Việt Nam từ 1975 đến nay

Cùng với những đổi thay có tính chất bước ngoặt của lịch sử, văn học Việt
Nam trong nước sau 1975 cũng có những bước chuyển mình rõ rệt. Người ta đọc lời
ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa và yêu cầu văn học phải được “cởi trói”,
thoát ra khỏi thứ văn học “phải đạo”. Cùng với tiến trình vận động của văn học dân
tộc, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam cũng có nhiều nỗ lực đổi mới, cách tân.
Theo các nhà nghiên cứu, văn học Việt Nam ba mươi năm qua đã đi qua ba
chặng đường: từ 1975 đến 1985 là thời kì chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến
tranh sang văn học thời hậu chiến; từ 1986 đến đầu thập kỉ 90 là thời kì văn học đổi
mới sôi nổi, mạnh mẽ, gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước; từ
năm 1993 đến nay, văn học trở lại với những qui luật bình thường và hướng sự quan
tâm hơn vào vấn đề cách tân nghệ thuật.
Có thể nói, từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn học
cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kì hậu chiến. Tính chất

chuyển tiếp thể hiện rõ ở nhiều phương diện: đề tài, cảm hứng, các phương thức nghệ
thuật và qui luật vận động của văn học. Ở nửa cuối thập kỉ 70, những năm liền ngay
sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, khuynh hướng sử thi vẫn
được tiếp tục nhưng mờ nhạt dần với những tiểu thuyết, kí sự, hồi kí về chiến tranh,
19


tiêu biểu như: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Tháng Ba ở Tây Nguyên
(Nguyễn Khải), Năm 75 họ đã sống như thế nào (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng
(Nguyễn Trọng Oánh), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu),…
Tất nhiên bên cạnh việc tiếp tục mảng đề tài lịch sử, tái hiện, khai thác “dữ
liệu” từ cuộc kháng chiến chống Mĩ oanh liệt, văn xuôi sử thi sau 1975 cũng có
những khác biệt nhất định so với trước. Nhà văn có tâm thế, điều kiện để nhìn lại quá
khứ, phân tích lí giải những chiến công rạng rỡ cũng như thấm thía những mất mát
đau thương - hệ quả tất yếu của chiến tranh mà trước đây họ phải tạm quên đi hoặc né
tránh. Một số cây bút cũng đã kịp thời phản ánh những bộn bề sau cuộc chiến, có
niềm vui, hạnh phúc, được đoàn tụ, được tự do, được sống trong hòa bình, nhưng
cũng có không ít những khó khăn, phức tạp, thậm chí cả những mâu thuẫn xung đột
trong cuộc sống ở một đất nước mới hồi sinh, thống nhất (Những khoảng cách còn lại
- Nguyễn Mạnh Tuấn, Miền cháy - Nguyễn Minh Châu,...). Bước vào những năm đầu
thập kỉ 80, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và
rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Văn học cũng chững lại, không ít người
lâm vào tình trang bối rối mất phương hướng trong sáng tác. Họ vẫn chưa thoát khỏi
quán tính của dòng chảy văn học thời trước, lúng túng trước một hiện thực mới,
không còn chiến tranh, không còn tiếng súng, không còn máu đổ nhưng cũng không
kém phần cam go, phức tạp muôn dạng hình, cùng với những đòi hỏi mới của người
đọc. Nhưng đây cũng là thời điểm “lửa thử vàng” của những người cầm bút. Những
tìm tòi, trăn trở, suy tư thầm lặng mà mãnh liệt ở một số nhà văn có tấm lòng và ý
thức trách nhiệm cao về nghề đã góp phần mở ra cho văn học nói chung và tiểu
thuyết nói riêng những hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là cái

hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức thế sự đang tồn tại nổi cộm, đòi hỏi
văn học phải nhận thức khám phá.
Từ đầu 1986 đến đầu những năm 90 là giai đoạn văn học đổi mới, tập trung
vào mô tả hiện thực với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Khuynh hướng nhận thức lại
hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản chiếm ưu thế chủ
đạo. Trong giai đoạn này, tiểu thuyết đã thực sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, bộc lộ
khả năng vượt trội của mình trong cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
20


thật, nói rõ sự thật”, bao quát được các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và con
người. Nhiều cây bút đã phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, lên án những lực
lượng, những thói quen, nếp sống, cách hành xử lạc hậu, lỗi thời làm cản trở quyền
sống, quyền mưu cầu hạnh phúc chính đáng của con người cũng như sự phát triển của
xã hội. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho
khuynh hướng này và đã trở thành một sự kiện văn học nổi bật của những năm 1986
– 1987. Tiếp đó là một loạt các tiểu thuyết và truyện ngắn xuất hiện cuối thấp kỉ 80
và 90 như: Mùa là rụng trong vườn, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Gặp gỡ
cuối năm, Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh),
Đứng trước biển vắng, Phố, Cuộc đời dài lắm (Chu Lai), Đời thường (Phùng Khắc
Bắc), Bến không chồng (Dương Hướng), Những thiên đường mù (Dương Thu
Hương), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Đi tìm
nhân vật, Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh),…Chiến tranh vẫn là một đề tài “nóng”
nhưng niềm tự hào rạng rỡ vì chiến thắng đã nhường chỗ cho những hệ lụy đau buồn,
những mất mát, hi sinh, những xót xa, đau đớn mà chiến tranh đã tác động đến mỗi
con người, đến cả dân tộc. Những “hòn vọng phu” trên khắp đất nước Việt nam,
những tham vọng quyền lực chà đạp lên tình đồng chí đồng đội, những nỗi buồn dai
dẳng của những thế hệ phải trải qua cuộc chiến ấy…đều được thể hiện rõ trong Cỏ
lau, Mùa trái cóc ở miền Nam (Nguyễn Minh Châu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh),…Các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp lại phơi bày sự khủng hoảng của xã

hội qua việc thay đổi các giá trị và lối sống (Tướng về hưu, Không có vua,…). Những
góc khuất lấp đáng sợ, tàn ác, lạnh lùng của con người, những mảng tối phơi bày
nhức nhối như một lời thức tỉnh. Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên bình diện thế
sự - đời tư đã được mở ra ở nửa đầu những năm 80, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện
những khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc
sống đời thường phức tạp.
So với những tác phẩm văn học trước đây, văn học giai đoạn này mang một
nhiệt tình phê phán dữ dội hơn rất nhiều. Tuy vậy, cảm hứng phê phán có lúc cũng
đẩy tới cực đoan, lệch lạc, nhiều cây bút bộc lộ một cái nhìn ảm đạm, hoài nghi. Sự
xuất hiện cảm hứng sự thật, quả thực là một tất yếu nhưng cũng là điều tất yếu mà
21


văn học phải vượt qua để tìm đến những chiều sâu mới. Người đọc chờ nhà văn qua
những vận động xã hội phức tạp đó đưa đến cho họ những tổng kết nhân văn sâu sắc,
lâu dài.
Từ cuối những năm 90 đến nay, trong xu thế ổn định của xã hội, văn học về cơ
bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường nhưng vẫn kiên trì đi theo
định hướng đổi mới đã hình thành từ những năm 80. Nếu như trước đó, động lực
thúc đẩy văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xã hội và khát vọng dân chủ, thì khoảng
mười năm trở lại đây, văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó. Vấn
đề đặt ra không còn là viết cái gì mà là viết như thế nào, như có người đã nói: “sáng
tạo nghệ thuật trước hết là sáng tạo hình thức”. Sự đổi mới này thể hiện trên nhiều thể
loại của văn học. Trong thơ, những cách tân theo hướng hiện đại đã thu hút được
nhiều cây bút thuộc các thế hệ khác nhau: Lê Đạt (Bóng chữ), Trần Dần (Cổng tỉnh,
Mùa sạch), Dương Tường (36 bài tình), Nguyễn Quang Thiều (Sự mất ngủ của
lửa),...Gần đây một số cây bút trẻ đã can đảm dấn thân tìm tòi những thể nghiệm mới
từ hình thức đến nội dung, nhiều khi đầy táo bạo trong hướng đi sâu vào những khát
vọng thầm kín, mãnh liệt, thành thực phơi bày trên trang giấy (Đồng Đức Bốn, Phan
Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,….).

Những thể nghiệm mạnh bạo để cách tân tiểu thuyết được các tác giả thực hiện
trong hàng loạt tiểu thuyết gần đây: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Hồ Quý Ly (Nguyễn
Xuân Khánh), Lạc rừng (Trung Trung Đỉnh), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà),
Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Người
sông Mê (Châu Diên), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Cõi người rung chuông tận thế,
Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Chinatown, T mất tích (Thuận).
Có thể nói văn xuôi Việt Nam là những nỗ lực thể nghiệm, có khi còn dang dở,
khó đọc, lạ lẫm, …những đặc điểm nổi bật là chúng đang nỗ lực khước từ truyền
thống, có thể thấy điều đó qua mấy phương diện: cách tân về qui mô, dung lượng;
cách tân về cấu trúc; cách tân về nhân vật; ngôn ngữ gia tăng lượng thông tin và cá
thể hóa cao độ;…

22


1.3.2. Sự tiếp thu thủ pháp “dòng ý thức”

Văn học Việt Nam cuối thế kỉ XX bước vào thời kì đổi mới và có nhiều thành
công rực rỡ. Nhiều nhà văn đã biết tìm đến những thủ pháp hiện đại để sử dụng một
cách linh hoạt và đạt hiệu quả cho những sáng tác của mình. Một trong số những thủ
pháp hiện đại đó có thủ pháp “dòng ý thức”. Và chính thủ pháp này cũng góp một
phần nhỏ trong việc rút ngắn khoảng cách giữa văn học Việt Nam với văn học thế
giới. Thủ pháp “dòng ý thức” là một thủ pháp hiện đại và thể hiện rõ nét trong các
sáng tác của giai đoạn này. Tuy nhiên, thật ra thủ pháp “dòng ý thức” đã được manh
nha từ lâu trong những sáng tác của Nam Cao, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu,....và hoàn thiện dần trong các sáng tác của Bảo Ninh, Nguyễn
Bình Phương, Châu Diên, Thuận, Bích Ngân,… Các nhà văn giai đoạn này đã thật sự
chú ý và sử dụng thủ pháp “dòng ý thức” với mục đích rõ ràng, cụ thể.
Trên cơ sở những sáng tác đi chệch quỹ đạo “phản ánh hiện thực” vốn quen
thuộc như trước đây đã có nhiều ý kiên đánh giá về những đổi mới trong bút pháp

nghệ thuật được các nhà văn sử dụng, đặc biệt là thủ pháp “dòng ý thức”. Nhà nghiên
cứu văn học Nguyễn Đăng Điệp nhận xét: “Ở Việt Nam, cũng từng có một số nhà
văn miêu tả dòng ý thức của nhân vật một cách tinh tế như Nguyễn Khải, Nguyễn
Minh Châu, Ma Văn Kháng,… Truyện ngắn Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu
cũng có thể được coi là một trong những thể nghiệm đầu tiên của thủ pháp “dòng ý
thức”. Nhưng với những cây bút này, kĩ thuật dòng ý thức chỉ tồn tại như một thủ
pháp nghệ thuật có tính cục bộ. Phải đến Nỗi buồn chiến tranh thì kĩ thuật dòng ý
thức mới được vận dụng một cách triệt để, trở thành nguyên tắc nghệ thuật chi phối
cách tổ chức kết cấu nhân vật” [16; 401]. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, được
các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam ghi nhận là một sự đóng góp nổi bật trong việc
ý thức đổi mới cách viết trong tiểu thuyết hướng đến dòng tâm tư nhân vật thể hiện
chiều sâu nhân vật. Xem đây như là một trường hợp của kiểu tiểu thuyết “dòng ý
thức” và đã được bạn đọc, những giới nghiên cứu quan tâm. Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh là một nỗi bật đáng ghi nhận cho loại tiểu thuyết “dòng ý thức” đã
manh nha và phát triển ở Việt Nam.

23


×