Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất nam kỳ với phương tây đến đầu thế kỉ xx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 167 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thế Trường

QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ
TRONG QUAN HỆ VĂN HÓA CỦA VÙNG ĐẤT
NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY
ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


3


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn này, tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến:
Quý Thầy, Cô Khoa Lịch sử Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình học tập, tôi đã nhận được từ quý Thầy, Cô những hướng dẫn tận tình
trong nghiên cứu lịch sử, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm… Quý Thầy Cô là những hình
mẫu về tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học và tận tâm trong giảng dạy.
TS. Trần Thị Thanh Thanh, người trực tiếp hướng dẫn khoa học để tôi thực hiện
Luận văn này. Trong quá trình thực hiện, tôi đã nhận được từ Cô sự động viên tinh
thần, sự hướng dẫn tận tình, cẩn trọng về phương pháp, sự hỗ trợ về tài liệu và tinh
thần nghiêm túc, trung thực trong nghiên cứu khoa học.
Tất cả các bạn học viên cao học khóa 23 chuyên ngành lịch sử Việt Nam cùng
một số bạn chuyên ngành Lịch sử thế giới, phòng Sau đại học Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014
NGUYỄN THẾ TRƯỜNG


4

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................6
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................7
3. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................9

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................12
5. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................................15
6. Cấu trúc luận văn .....................................................................................................16
Chương 1. BỐI CẢNH QUAN HỆ VĂN HÓA GIỮA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI
PHƯƠNG TÂY ............................................................................................................18
1.1. Văn minh phương Tây thời cận đại ......................................................................18
1.1.1. Khái niệm văn minh và sự phân biệt “phương Tây”,“phương Đông” ..........18
1.1.2. Những đặc trưng của văn minh phương Tây ..................................................20
1.2. Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây...........................25
1.2.1. Tình hình chính trị - xã hội xứ Đàng Trong – Tiền đề hình thành vùng đất
Nam Kỳ .....................................................................................................................26
1.2.2. Khái quát đặc điểm của văn hóa Đàng Trong trên nền văn hóa truyền thống
Việt Nam ...................................................................................................................32
1.3. Những con đường du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây .....................41
1.3.1. Bước chân các nhà truyền giáo .......................................................................41
1.3.2. Hoạt động buôn bán của các nước phương Tây..............................................47
1.3.3. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp ..................................................................53
CHƯƠNG 2. CHỮ QUỐC NGỮ - SẢN PHẨM CỦA QUAN HỆ VĂN HÓA
GIỮA NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY ......................................................................59
2.1. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ ......................................................................59
2.1.1. Thời kì sơ khai (thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII) .........................................59


5

2.1.2. Thời kì bước đầu phát triển (nửa sau thế kỉ XVII – cuối thế kỉ XVIII)..........62
2.1.3. Thời kì phát triển mạnh mẽ (từ thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX) .........................66
2.2. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ ........69
2.3. Chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và Nho học
ở Nam Kỳ ....................................................................................................................80

2.3.1. Tình hình Nho học và ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ..................80
2.3.1.1. Tình hình Nho học ...................................................................................80
2.3.1.2. Ứng xử của Nho gia đối với chữ quốc ngữ .............................................86
2.3.2. Chữ quốc ngữ trong các cải cách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ ...........94
Chương 3. VAI TRÒ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC
VĂN HÓA – XÃ HỘI Ở NAM KỲ ..........................................................................103
3.1. Giáo dục .............................................................................................................103
3.2. Báo chí ................................................................................................................111
3.3. Văn học...............................................................................................................125
3.4. Nghệ thuật sân khấu ...........................................................................................133
3.4.1. Tuồng ............................................................................................................133
3.4.2. Cải lương .......................................................................................................135
3.4.3. Kịch nói .........................................................................................................136
3.5. Di sản Hán – Nôm ..............................................................................................138
3.6. Quá trình đô thị hóa ............................................................................................141
3.7. Hoạt động đấu tranh cách mạng .........................................................................144
KẾT LUẬN ................................................................................................................155
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................160


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ văn hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây là một vấn đề lớn trong
tiến trình lịch sử văn hóa nói riêng và tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung.
Mối quan hệ này đã tạo ra những chuyển biến về mô hình văn hóa, hình thành các hình
thức sinh hoạt văn hóa mới ở Việt Nam, tạo nên những giá trị văn hóa mới, hiện đại
hơn. Quá trình tiếp xúc văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây cũng để lại nhiều sản
phẩm văn hóa có giá trị, trong đó có chữ quốc ngữ, một thứ ngôn ngữ viết ghi lại ngôn

ngữ nói của người Việt theo ký tự Latinh.
Trong khi đó, ngôn ngữ nói chung luôn đóng vai trò là một phương tiện truyền
đạt văn hóa, chuyển giao văn hóa, làm cho văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Ngôn ngữ là một hệ thống các tín hiệu, ký hiệu có ý nghĩa chuẩn, giúp cho
các thành viên trong xã hội có thể truyền đạt thông tin được với nhau. Ngôn ngữ là
phương tiện biểu đạt những suy nghĩ, những cảm nhận của con người về cuộc sống
xung quanh. Có hai dạng ngôn ngữ: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Lời nói thường có
trước, đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, chữ viết mới ra đời. Đó là
thành quả văn hóa quan trọng của toàn nhân loại và đối với mỗi dân tộc. Chữ viết có
thể được du nhập từ bên ngoài. Trong lịch sửViệt Nam, sự ra đời của chữ quốc ngữ là
một bước ngoặt lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa của dân tộc, kéo dài hàng
thế kỷ cho đến tận thời đại ngày nay.
Chính vì vậy, ngày nay, tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp của người
Việt trên mọi miền đất nước, mà còn là phương tiện giao tiếp chung của đại gia đình
các dân tộc Việt Nam, là phương tiện của Việt Nam trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Vì thế, tiếng Việt không những trở thành đối tượng học tập, nghiên cứu của người Việt
Nam, mà còn của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và bạn bè quốc tế. Do đó, là người
Việt Nam chúng ta không thể không quan tâm đến quá trình hình thành và vai trò của
chữ quốc ngữ đối với văn hóa người Việt.
Trong chương trình lịch sử ở bậc trung học phổ thông, những nội dung về văn
hóa, sự chuyển biến văn hóa nói chung và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam từ
khichữ quốc ngữ xuất hiện nói riêng hầu như chưa được chú trọng làm rõ. Vì vậy, thực


7

hiện đề tài này, người viết hy vọng khẳng định, làm rõ vai trò của chữ quốc ngữ và nêu
bật những biến đổi của văn hóa Việt Nam từ khi chữ quốc ngữ ra đời.
Ngoài ra, nghiên cứu quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa
của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây sẽ đóng góp một nguồn tư liệu phục vụ cho

việc nghiên cứu lịch sử nói chung và giảng dạy lịch sử ở trung học phổ thông nói
riêng, cụ thể ở các đơn vị bài học như: Bài 24 – Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI –
XVIII (Sách giáo khoa lịch sử 10 – cơ bản, NXB Giáo dục, 2009); bài 23 – Phong trào
yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914) (Sách giáo khoa lịch sử 11 – cơ bản, NXB GD, 2010)
Như vậy, việc tìm hiểu quá trình lịch sử của chữ Quốc ngữ trong quan hệ văn hóa
của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây, để làm rõ vị trí, vai trò của nó đối với văn hóa
Việt Nam là một mảng khá quan trọng và cần thiết trong lịch sử ngôn ngữ Việt Nam
nói riêng và lịch sử văn hóa người Việt nói chung.Trong đề tài này, người viết tập
trung vào vấn đề chính là quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ dưới góc độ là sản phẩm
của quan hệ văn hóa phương Tây với vùng đất Nam Kỳ, qua đó nhấn mạnh vai trò, sự
tác động trở lại của chữ quốc ngữ đến một số loại hình văn hóa ở Nam Kỳ.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, danh từ “quốc ngữ” được dùng để chỉ hai loại
văn tự khác nhau của người Việt. Khi chữ Nôm xuất hiện, danh từ “quốc ngữ” cũng
được dùng để chỉ chữ Nôm, có ý nói chữ Nôm là “tiếng nói nước mình”. Hiện nay và
trong luận văn này, “quốc ngữ” được hiểu là chữ viết tiếng Việt theo mẫu tự Latinh,
được các các giáo sĩ phương Tây hồi thế kỉ XVI - XVIII sáng chế ra nhằm mục đích
truyền giáo, cùng với sự giúp sức của một số người Việt. Dùng mẫu tự của châu Âu để
ghi âm của người Việt. Do vậy, sư ra đời của chữ quốc ngữ được xem là sản phẩm trực
tiếp của mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây
“Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ” được tái hiện trong luận văn này là các
bước tiến, các bước phát triển của chữ quốc ngữ từ lúc mới xuất hiện, còn rất sơ khai
cho đến khi trở thành một thứ chữ hoàn chỉnh, trơn bén như ngày nay. Đây là một quá
trình lâu dài, gắn liền với những thời kì lịch sử khác nhau tương ứng với những vị trí
khác nhau của chữ quốc ngữ, từ một thứ chữ chỉ dùng trong các nhà thờ cho đến một


8


công cụ chính trị và cuối cùng là chữ viết chính thức của một quốc gia độc lập. Tìm
hiểu “quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ” có thể phản ánh được bức tranh giao lưu văn
hóa giữa Việt Nam và Phương Tây trên một số lĩnh vực văn hóa.
“Nam Kỳ” là tên gọi trước kia của Nam Bộ ngày nay, được đặt từ năm 1834 dưới
triều Nguyễn. Theo chỉ dụ năm Minh Mệnh 15 (1834), ngoài Kinh sư gồm kinh đô và
phủ Thừa Thiên, cả nước được chia thành các khu vực quản lý hành chính bao gồm:
Tả trực (Quảng Nam, Quảng Ngãi), Hữu trực (Quảng Trị, Quảng Bình), Tả kỳ (Bình
Định, Khánh Hòa), Hữu kỳ (Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa), Bắc kỳ (Hà Nội, Ninh
Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên
Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng) và Nam kỳ (Gia Định, Biên
Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Dân gian thường dùng tên gọi
“Nam Kỳ Lục tỉnh”, hoặc chỉ gọi tắt là Lục tỉnh. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, Lục
tỉnh được chia đặt nhiều lần, cuối cùng thành 21 tỉnh.
“Phương Tây” là thuật ngữ có nguồn gốc hoàn toàn từ châu Âu, phương Tây của
châu Âu. Trong thời kì cổ đại, “phương Tây” được dùng để chỉ khu vực phía Tây Địa
Trung Hải, về sau có thêm Bắc Mỹ. Dưới góc độ của người phương Đông, “phương
Tây” ở đây còn để chỉ các vùng đất châu Âu trong buổi đầu khi có sự tiếp xúc của
người châu Âu với người châu Á. “Phương Tây” được hiểu trong đề tài này là những
quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ [43,tr.15]
“Quan hệ văn hóa” là một hiện tượng văn hóa phổ biến, được nhiều ngành khoa
học xã hội quan tâm nghiên cứu. Ngay khi xã hội loài người chưa đạt đến trình độ văn
minh, các mối giao lưu, quan hệ văn hóa của nhân loại cũng đã diễn ra một cách lâu
dài và bền bỉ. Có nhiều loại quan hệ văn hóa với những dạng thức khác nhau và đem
lại những kết quả khác nhau: Tiếp biến văn hóa (acculturation), Đồng hóa văn hóa
(assimilation), Hỗn dung văn hóa hay lai tạo văn hóa (amalgamation, hybridization).
“Mối quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam Kỳ với phương Tây” được hiểu là sự
tiếp nhận những yếu tố bên ngoài của yếu tố chủ thể là Nam Kỳ trên cơ sở tiếp nhận,
kế thừa những thành tựu văn hóa nổi bật của phương Tây, làm phong phú, hiện đại
thêm cho văn hóa Nam Kỳ, từ việc biến đổi mô hình văn hóa đến việc xuất hiện các
loại hình văn hóa mới theo hướng phương Tây hóa (chữ viết, báo chí, kịch nói, đô thị



9

hóa), hoặc làm biến đổi những loại hình văn hóa truyền thống ở Nam Kỳ (giáo dục,
văn học, nghệ thuật, hoạt động yêu nước)
Luận văn xem xét quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối quan hệ văn hóa
giữa Nam Kỳ với phương Tây từ khi có những cuộc tiếp xúc đầu tiên của người châu
Âu khi họ đặt chân đến Nam Kỳ với người Việt, cho đến những năm đầu thế kỉ XX
khi mà chữ quốc ngữ đã trở nên hoàn chỉnh, thay thế hoàn toàn chữ Nho và tiếp tục tạo
ra những chuyển biến mới theo hướng phương Tây hóa cho văn hóa Nam Kỳ, có thể
đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX. Tất cả những vấn đề liên quan được luận văn
tập trung làm rõ ngay chính trên không gian là vùng đất Nam Kỳ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chính, kết
hợp với phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh để tìm hiểu vấn đề.
Phương pháp lịch sử là phương pháp trình bày những sự kiện cụ thể theo trình tự
thời gian. Theo đó, người viết trình bày quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối
quan hệ văn hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây theo trình tự thời gian. Quá
trình hình thành vùng đất Nam Kỳ được trình bày từ khi chúa Nguyễn lập nên xứ
Đàng Trong cho đến khi lãnh thổ Đàng Trong được mở rộng đến tận Nam Bộ ngày
nay. Quá trình hình thành chữ quốc ngữ được trình bày từ thế kỉ XVI khi nó manh nha
xuất hiện trong các tài liệu của những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đến đầu thế kỉ XX
khi quốc ngữ trở thành một chữ viết hoàn chỉnh và thống nhất trong cả nước Việt
Nam. Chữ quốc ngữ trong chính sách giáo dục của chính quyền Nam Kỳ cũng dược
trình bày thông qua các chủ trương, chính sách cải cách giáo dục của người Pháp theo
trình tự từ 1862 cho đến đầu thế kỉ XX khi quốc ngữ đã góp phần xác lập nền giáo dục
mới trên đất Nam Kỳ.
Phương pháp logic là phương pháp khái quát các sự kiện lịch sử trên những nét
chung, theo từng vấn đề, nhằm rút ra đặc điểm và bản chất của sự kiện. Do vậy, khi

tìm hiểu quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong mối quan hệ văn hóa của Nam Kỳ
với phương Tây, tác giả luận văn cũng tuân thủ theo đúng phương pháp logic. Khi
trình bày về văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Kỳ, tác giả lựa chọn những đặc trưng
tiêu biểu, từ đó lý giải nguồn gốc những đặc trưng đó, so sánh, đối chiếu những đặc


10

điểm văn hóa Đàng Trong với đặc trưng văn hóa truyền thống của người Việt, để rút ra
những thuận lợi và khó khăn khi nó tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Cũng tương tự
như vậy khi tác giả luận văn trình bày những đặc trưng của văn hóa phương Tây và rút
ra những tác động của những đặc trưng đó đối với cuộc tiếp xúc và giao lưu của văn
hóa ở Nam Kỳ. Những con đường dẫn đến quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương
Tây cũng được người viết trình bày theo từng vấn đề: công cuộc truyền giáo, hoạt
động thương mại, công cuộc xâm lăng của người Pháp; mỗi vấn đề tác giả đều có lý
giải bối cảnh, biểu hiện và tác động của nó đến sự ra đời của chữ quốc ngữ, đến cuộc
tiếp xúc văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây. Chữ quốc ngữ trong chính sách văn
hóa của người Pháp cũng được trình bày theo từng chính sách của người Pháp trên các
lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều thể hiện những mục đích, những biện pháp của
chính quyền thực dân khi sử dụng chữ quốc ngữ, để đi đến nhận thức về mục đích
chung của chính quyền thực dân là thiết lập ảnh hưởng lâu dài của văn hóa Pháp ở
Nam Kỳ, loại bỏ ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Khi trình bày ảnh hưởng, vai trò
của chữ quốc ngữ đến một số lĩnh vực văn hóa xã hội Nam Kỳ, người viết cũng lựa
chọn theo từng loại hình văn hóa tiêu biểu để làm rõ nguyên nhân chuyển biến hay
xuất hiện mới của nó, biểu hiện của sự chuyển biến, và rút ra nhận thức về tác động
của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Việt Nam.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp nghiên cứu gắn
bó chặt chẽ với nhau. Muốn hiểu bản chất và quy luật của sự vật thì phải biết về quá
trình phát sinh, phát triển của nó. Mặt khác có nắm được bản chất và quy luật của sự
vật mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp

lịch sử cũng phải nắm lấy cái logic, phải rút ra sợi dây logic chủ yếu của lịch sử thông
qua việc phân tích các sự kiện và hiện tượng cụ thể. Còn phương pháp logic phải dựa
trên các tài liệu lịch sử để khái quát, chứng minh và cuối cùng đem lại lịch sử trong
tính bản chất của nó. Lịch sử mà thiếu logic sẽ mù quáng, còn logic mà thiếu lịch sử
thì không có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tự biện. Do vậy, tác giả luận văn luôn sử
dụng kết hợp hai phương pháp lịch sử và logic.
Phương pháp chuyên gia mà người viết sử dụng biểu hiện ở những quan điểm,
nhận định về chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây và


11

vai trò của nó đối với văn hóa người Việt của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, thể
hiện trong các chuyên khảo, công trình nghiên cứu. Đây là những cơ sở để tác giả luận
văn tìm hiểu và trình bày vấn đề, đồng thời nêu lên ý kiến tán đồng hay phản biện, bổ
sung do sự hạn chế về tài liệu gốc mà tác giả chưa có điều kiện tiếp cận.
Phương pháp so sánh được tác giả luận văn sử dụng khi trình bày bối cảnh của
mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây để chỉ ra sự khác nhau về điểm
xuất phát, về đặc trưng của hai nền văn hóa, từ đó đánh giá, nhận định về cách thức
tiếp nhận yếu tố văn hóa bên ngoài của người Việt, về bản chất của văn minh phương
Tây và nhìn nhận về điểm xuất phát của chữ quốc ngữ. Phương pháp so sánh còn được
người viết sử dụng khi đối chiếu chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính
quyền thực dân với chữ quốc ngữ trong ứng xử của Nho gia, của những nhà cách mạng
Việt Nam, từ đó đánh giá sự khác nhau về mục đích của hai đối tượng này khi họ sử
dụng chữ quốc ngữ, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế trong hành động của họ đối
với chữ quốc ngữ.
Các phương pháp trên được tác giả luận văn vận dụng liên tục, đan xen trong
suốt quá trình thực hiện đề tài theo trình tự như sau: Mở đầu là bối cảnh dẫn đến cuộc
tiếp xúc và giao văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây, ba con đường chính để thực
hiện mối quan hệ văn hóa này, trong đó đặc biệt quan trọng là bước chân của các nhà

truyền giáo, những người trực tiếp sáng chế ra chữ quốc ngữ; tiếp đến là sự hình thành
chữ quốc ngữ với tư cách là một sản phẩm của quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với
phương Tây, từ trong tay các nhà truyền đạo, quốc ngữ trở thành công cụ chiến lược
trong chính sách văn hóa của người Pháp, một cơ chế được áp đặt trong giáo dục, đồng
thời cũng là phương tiện đấu tranh hữu hiệu của giới sĩ phu Nho học. Cuối cùng là ảnh
hưởng mạnh mẽ của quốc ngữ đến đời sống văn hóa – xã hội Nam Kỳ trên những lĩnh
vực tiêu biểu: giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, di sản Hán – Nôm, quá trình đô
thị hóa và đấu tranh cách mạng, để chứng minh quốc ngữ đã là chữ viết hoàn chỉnh và
thống nhất, một phương tiện năng động và tạo ra sự chuyển biến lớn trên nhiều lĩnh
vực văn hóa – xã hội ở Nam Kỳ.


12

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các vấn đề liên quan đến quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn
hóa của vùng đất Nam Kỳ với phương Tây đã được các nhà khoa học quan tâm,
nghiên cứu, thể hiện qua một số công trình sau:
Công trình Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 – 1659của Đỗ Quang Chínhnăm 1972 có
có 167 trang, bàn về lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ giai đoạn 1620 – 1659 hầu hết
dựa trên các tài liệu viết tay của các giáo sĩ bấy giờ với 4 phần lớn: Trình bày những
nhận xét của một số người Tây phương về tiếng Việt; khái quát các giai đoạn hình
thành chữ quốc ngữ từ 1620 đến 1648, chủ yếu giới thiệu hình dạng của chữ quốc ngữ
được thể hiện trên các tài liệu viết tay của giáo sĩ phương Tây ; giới thiệu chữ quốc
ngữ dưới thời của Linh mục Alexandre De Rhodes thông qua Từ điển Việt – Bồ - La
và sách Phép giảng tám ngày dượ xuất bản năm 1651 ; giới thiệu chữ quốc ngữ trong
các tài liệu viết tay năm 1659 của hai linh mục người Việt Nam.
Nguyễn Văn Trung với công trình Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc
được nhà xuất bản Nam Sơn ấn hành năm 1975 gồm 73 trang là một công trình tập
hợp khá đầy đủ những bước tiến của chữ quốc ngữ từ lúc người Pháp áp đặt guồng

máy cai trị của họ tại Nam Kỳ thông qua những thông tư, nghị định, quyết định của
nhà cầm quyền Pháp. Đó cũng là lúc chữ quốc ngữ vượt ra khỏi nhà thờ, lan tỏa sang
các lĩnh vực hành chính, văn hóa, giáo dục. Tác giả nhìn nhận quá trình phát triển của
chữ quốc ngữ trong sự liên hệ mật thiết với chính sách cai trị của chính quyền Pháp,
những người làm công việc áp đặt văn minh phương Tây lên Nam Kỳ.
Tác giả Đặng Đức Siêu trong công trìnhChữ viết trong các nền văn hoáxuất bản
năm 1982 dài 179 trang sau khi đã giới thiệu về chữ viết từ thời cổ đại ở cả phương
Đông lẫn phương Tây cũng dành một phần cuối của công trình để bàn về các loại chữ
viết ở Việt Nam, có cả chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ đã được tác giả Đặng Đức Siêu
dành cho một vị tríngang hàng với các loại chữ viết khác ở những nền văn minh lớn.
Tác giả làm rõ chữ quốc ngữ từ lúc mới hình thành cho đến khi trở thành một vũ khí
cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của tác giả Hoàng Tiến có tênChữ
Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ 20 được nhà xuất bản Thanh niên ấn


13

hành năm 2003 là một công trình có giá trị khi nghiên cứu về quá trình hình thành và
hoàn thiện của chữ quốc ngữ trong tất cả 281 trang. Sau phần dẫn luận, và giới thiệu
về chữ Hán, chữ Nôm, tác giả đi thẳng vào giải thích nguồn gốc của chữ quốc ngữ, ra
đời trong bối cảnh người phương Tây đến châu Á và Việt Nam để truyền đạo, buôn
bán. Tiếp đến,tác giả đề cập đến cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỉ XX để đưa quốc
ngữ trở thành một chữ viết ngày càng hoàn thiện và đi sâu vào quần chúng. Quá trình
này được thực hiện thông qua các tờ báo đầu tiên, trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hội
dịch sách, việc sáng tác, in ấn… để cuối cùng quốc ngữ tác động trở lại. Ở phần này,
tác giả Hoàng Tiến chỉ nêu những tác động của chữ Quốc ngữ đến một số lĩnh vực văn
hóa xã hội Việt Nam mà chưa đi sâu lý giải và nêu rõ biểu hiện của sự tác động ấy.
Công trình Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ của tác giả Hoàng Xuân Việt được
xuất bản năm 2007 dài479 trang là một cuốn sách có ích trong việc cung cấp những sử

liệu ngôn ngữ học về sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ trong cái nhìn so
sánh với chữ Nôm, đặc biệt là chữ quốc ngữ ở Nam Bộ. Nhìn chung, công trình này
được chia làm bốn nội dung chính. Đầu tiên, tác giả giới thiệu về bối cảnh lịch sử của
chữ quốc ngữ, tiếp đến là giới thiệu những dạng chữuốc ngữ đầu tiên được ghi âm theo
hệ thống kí hiệu Ý – Bồ Đào Nha. Liên tục như vậy, tác giả trình bày những cuộc
chỉnh lý của chữ quốc ngữ từ 1772 đến 1838 dần trở thành một thứ chữ hoàn chỉnh
như ngày nay. Cuối cùng, tác giả Hoàng Xuân Việt phân tích sự bùng phát của chữ
quốc ngữ kể từ năm 1865 trở đi, khi Gia Định báo ra đời, hình thành nên một mặt trận
văn hóa mới mà chữ quốc ngữ đóng vai trò chủ đạo, thể hiện qua văn học, báo chí, tư
tưởng, giáo dục… Tác giả luận văn tham khảo ở tài liệu này từ phần hai trở đi, nhiều
nhất là ở phần bốn để làm rõ tầm ảnh hưởng của chữ quốc ngữ đến văn hóa xã hội
Nam Kỳ.
Tác giả Nguyễn Phú Phong có công trình Việt Nam – chữ viết, ngôn ngữ và xã
hội được nhà xuất bản Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2005là
một công trình trước hết mô tả sự hình thành của chữ Nôm và chữ quốc ngữ, hai thứ
chữ viết của tiếng Việt và một cái nhìn đối chiếu được đưa ra. Việc nhìn nhận và áp
dụng chữ quốc ngữ như chữ viết chính thức của tiếng Việt, những tranh cãi của nhà
cầm quyền Pháp xoay quanh vấn đề này, các chặng đường từ lúc hình thành cho tới


14

khi thắng lợi hoàn toàn để trở thành quốc tự Việt Nam đều được tác giả đề cập đến với
khá nhiều chi tiết dưới những khía cạnh khác nhau. Cuộc hành trình của chữ quốc ngữ
qua không gian và thời gian, qua cảm nhận và tác động của những nhân vật lịch sử
suốt gần một thế kỉ Pháp thuộc đều được tác giả ghi nhận đầy đủ.Những nội dung
đóđược tác giả trình bày trong 144 trang với hai phần lớn. Phần I (gồm ba chương) tác
giả đặt trọng tâm vấn đề vào mặt kĩ thuật chữ viết, nghiên cứu tiếng Việt và những
cuộc tranh luận chung quanh chữ quốc ngữ. Phần II (gồm năm chương), tác giả giới
thiệu sự phát triển của chữ quốc ngữ, trong đó hướng về các đề tài như chữ viết và

ngôn ngữ, chữ viết và văn học, chữ viết và giáo dục. Đây là phần tham khảo chính của
tác giả luận văn.
Tác giả Đoàn Thiện Thuật có công trình Chữ quốc ngữ thế kỉ XVIII ấn hành năm
2008 tuy hơi thiên về lĩnh vực ngôn ngữ học, nhưng đây cũng có thể được xem là một
tập tư liệu quý cho việc nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ thế kỉ XVIII, bởi thế kỉ
XVIII chúng ta chỉ có tư liệu để lại là cuốn “Từ điển Việt – Latinh” của P. de Béhaine.
Tác giả công bố các tư liệu dưới dạng ảnh nên có tính trung thực cao. Ngoài giá trị về
mặt nghiên cứu chữ quốc ngữ, tài liệu này cũng rất cần cho nghiên cứu lịch sử ngữ âm,
lịch sử từ vựng, lịch sử ngữ pháp tiếng Việt với độ dài 509 trang.
Gần đây nhất, năm 2013, nhà báo, nhà vănTrần Nhật Vy cho tập hợp những bài
viết của mình đăng trên báo Tuổi trẻ và xuất bản thành cuốnChữ quốc ngữ - 130 năm
thăng trầm. Đây là một công trình biên khảo gồm 259 trang. Tác giả đã sưu tầm,
nghiên cứu về sự ra đời của chữ quốc ngữ từ nhiều nguồn tư liệu dồi dào và ghi nhận
chữ quốc ngữ đã phát triển qua bao thăng trầm, sóng gió. Qua tập sách này, tác giả còn
cho người đọc biết việc sáng tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với mục
đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Tất nhiên, những sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây
không thể không có sự góp phần của người bản xứ. Tác giả còn khẳng định giá trị của
chữ quốc ngữ trong một nền báo chí và văn học mớiở Nam Kỳ từ năm 1865 cho đến
đầu thế kỷ XX.
Cũng trong năm 2013, tác giả Đỗ Quang Hưng và Trần Viết Nghĩa có công trình
Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại do nhà xuất bản
chính trị quốc gia ấn hành, gồm 388 trang. Trong đó, các tác giả đã khẳng định cuộc


15

tiếp xúc văn hóa Đông – Tây ở Nam Kỳ là một vấn đề lớn của lịch sử dân tộc. Quá
trình đó đã dần tạo ra những chuyển biến văn hóa – xã hội ở Nam Kỳ, làm xuất hiện
những hình thức sinh hoạt văn hóa mới. Chữ quốc ngữ được các tác giả thừa nhận là
một trong những loại hình văn hóa mới đó, là sản phẩm của cuộc tiếp xúc với văn

minh phương Tây đã tạo ra những chuyển biến lớn đến các hình thức sinh hoạt văn
hóa khác ở Nam Kỳ: giáo dục, báo chí, kịch nói, văn học.
Các công trình nghiên cứu vừa nêu là nguồn tài liệu tham khảo hết sức hữu ích
để người viết thực hiện luận văn này và có nhìn nhận toàn diện hơn về vấn đề đang tìm
hiểu. Hầu hết các công trình trên đều tập trung làm rõ nguồn gốc và quá trình hình
thành chữ quốc ngữ, khẳng định chữ quốc ngữ là một phương tiện chuyển tải văn hóa
phương Tây, một số có đề cập đến vai trò của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Việt Nam
trên các lĩnh vực như văn học, báo chí, giáo dục… nhưng vẫn chỉ ở mức độ khái quát
mà chưa có sự cụ thể, chi tiết và hệ thống, chưa làm rõ biểu hiện của những chuyển
biến văn hóa xã hội. Vì vậy, luận văn này hy vọng bước đầu góp phần tìm hiểu sâu
hơn về những tác động của chữ quốc ngữ đối với văn hóa Nam Kỳ trên một số lĩnh
vực chủ yếu.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn có sự tổng hợp từ những nguồn tài liệu phong phú, bao gồm tư lệu
gốc, chuyên khảo, các bài nghiên cứu có giá trị khoa học, trình bày đầy đủ các vấn đề
thuộc lĩnh vực chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với phương Tây,
góp thêm nhận định về nguồn gốc của chữ quốc ngữ, tính chất của nó qua từng thời kì,
từng đối tượng sử dụng, và nhấn mạnh những chuyển biến văn hóa – xã hội do nó
mang lại, công lao của quốc ngữ đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng, đóng góp
thêm một số nhận định và nhận thức về các vấn đề lịch sử Việt Nam.
- Luận văn cũng góp phần mô tả về quá trình giao lưu và tiếp xúc văn hóa Việt
Nam - phương Tây trên lĩnh vực giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, hành chính mà
chữ quốc ngữ đóng vai trò là người trung gian.
- Kết quả và tư liệu của luận văn góp phần cung cấp thêm nguồn tài liệu tham
khảo cho học viên cao học, giáo viên, sinh viên, học sinh trung học phổ thông và


16

những người quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử chữ quốc ngữ, lịch

sử công cuộc tiếp xúc văn hóa Việt Nam với phương Tây nói riêng.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh quan hệ văn hóa giữa vùng đất Nam Kỳ với phương
Tây
Nam Kỳ được hình thành trong quá trình xác lập lãnh thổ Đàng Trong của chúa
Nguyễn. Tính cởi mở, năng động của vùng đất mới là cơ hội để Nam Kỳ dễ dàng tiếp
nhận những yếu tố văn hóa bên ngoài, nhất là văn hóa phương Tây đang trên đà lan
tỏa, mở rộng. Hai nền văn hóa gặp nhau thông qua các con đường: truyền giáo, thương
mại và xâm lược. Chữ quốc ngữ được sản sinh ra trong bối cảnh đó. Do vậy, chương I
được tác giả luận văn trình bày thành 3 vấn đề: Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc
với văn hóa phương Tây; sự phát triển của văn minh phương Tây; những con đường
du nhập vào Nam Kỳ của văn hóa phương Tây.
Chương 2: Chữ quốc ngữ - Sảnphẩm của quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ với
phương Tây
Là sản phẩm trực tiếp của cuộc tiếp xúc văn hóa phương Tây ở Nam Kỳ, chữ
quốc ngữ hình thành qua một quá trình lâu dài, gắn liền với nhu cầu truyền đạo của các
giáo sĩ phương Tây. Tuy nhiên, vừa mới ra đời, chữ quốc ngữ đã được chính quyền
thực dân tìm cách biến thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho chính sách văn hóa, giáo
dục, nhằm khẳng định ảnh hưởng của văn minh phương Tây lên đất Nam Kỳ, ý định
xóa bỏ Nho học đang trên đà suy đồi. Giới sĩ phu Việt Nam cũng nhận ra lợi thế của
chữ quốc ngữ, nên đã ra sức cổ vũ học tập quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vì thế càng được
dịp lan tỏa. Chương II được tác giả chia thành 3 phần nhỏ: quá trình hình thành chữ
quốc ngữ; chữ quốc ngữ trong chính sách văn hóa của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ;
chữ quốc ngữ trong quá trình tồn tại song song của giáo dục Âu hóa và Nho học ở
Nam Kỳ.
Chương 3: Vai trò của chữ quốc ngữ trong một số lĩnh vực văn hóa – xã hội
ở Nam Kỳ



17

Sau khi đã hoàn thiện và trở thành chữ viết thống nhất, được áp đặt cho một nền
giáo dục mới, bắt buộc trong các cơ quan hành chính, báo chí, chữ quốc ngữ được dịp
chứng tỏ sức ảnh hưởng của mình đến hầu hết mọi lĩnh vực văn hóa – xã hội của
người Việt, làm chuyển biến những loại hình văn hóa truyền thống theo hướng phương
Tây hóa, đồng thời du nhập những loại hình văn hóa mới có nguồn gốc từ phương
Tây. Do vậy, ở chương III, tác giả luận văn làm rõ vai trò của chữ quốc ngữ trên các
lĩnh vực: giáo dục, báo chí, văn học, nghệ thuật, di sản Hán – Nôm, quá trình đô thị
hóa, đấu tranh cách mạng.


18

Chương 1.
BỐI CẢNH QUAN HỆ VĂN HÓA
GIỮA VÙNG ĐẤT NAM KỲ VỚI PHƯƠNG TÂY
Nam Kỳ là tên gọi của vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Trước khi có cuộc
tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Nam Kỳ được hình thành trong bối cảnh của những
biến động chính trị - xã hội ở Đại Việt, dẫn đến công cuộc mở cõi của các chúa
Nguyễn về phía Nam. Vớivị trí địa lý mang tính chiến lược trên con đường hàng hải
quốc tế, Nam Kỳ nhanh chóng tỏ ra là một địa điểm thu hút đông đảo người phương
Tây đến giao lưu buôn bán, tìm kiếm thị trường, nhất là trong bối cảnh châu Âu đang
phát triển mạnh mẽ về kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự bùng nổ của nền văn minh công
nghiệp.
1.1. Văn minh phương Tây thời cận đại
1.1.1. Khái niệm văn minh và sự phân biệt “phương Tây”,“phương Đông”
Từ “văn minh” (civilisation, civilization) trong các ngôn ngữ phương Tây đều có
nguồn gốc Latinh là civitas, nghĩa là trạng thái đã được khai hóa, thoát khỏi trạng thái
nguyên thủy, không còn trong tình trạng ăn lông ở lỗ, hái lượm... mà đã định cư thành

những cộng đồng. Civitas cũng có nghĩa là tình trạng đã có quốc gia, chính quyền, luật
pháp.
Theo GS. Trần Quốc Vượng, văn minh là khái niệm được dùng để chỉ trình độ
phát triển về vật chất và tinh thần của con người ở vào trạng thái phát triển cao nhất
của nền văn hóa, trong một thời kì lịch sử nào đó [121, tr.19-20]. Các yếu tố căn bản
của văn minh bao gồm: “sự phóng xa về kinh tế, sự tổ chức chính trị, những truyền
thống luân lý và sự tăng tiến tri thức, phát triển nghệ thuật” [123, tr.32].
Trên thế giới, các nền văn minh không đứng cô lập và bất biến mà thường xuyên
diễn ra sự tiếp xúc và giao lưu. “Xuyên suốt và điển hình nhất” [70, tr.12] là quá trình
tiếp xúc và giao lưu giữa các nền văn hóa và văn minh phương Đông với phương Tây.
Để có cái nhìn toàn diện về quá trình này, cần có sự phân biệt các thuật ngữ “phương
Tây”, “phương Đông”.


19

Thuật ngữ “phương Tây” có nguồn gốc hoàn toàn từ châu Âu. Thời cổ đại, khi
vùng ven Địa Trung Hải có nhiều trung tâm buôn bán, người ta dùng thuật ngữ
“phương Tây” để chỉ khu vực phía Tây Địa Trung Hải.
Trong buổi đầu của sự tiếp xúc Đông – Tây, trong cái nhìn của người phương
Đông, các thuật ngữ phương Tây, Tây Âu, Tây Dương, Thái Tây… có một ý nghĩa đơn
giản và liên hệ nhiều đến phương hướng, để chỉ các vùng đất châu Âu của người châu
Âu với các đặc điểm về chủng tộc như: da trắng, tóc và lông màu hung đỏ, mà trước
đây người phương Đông thường hay gọi là “bạch quỷ” hay “hồng mao”…có những
tập tục, truyền thống, lối sống khác hẳn với người phương Đông. Do vậy, khái niệm
phương Tây còn được người phương Đông dùng với ý nghĩa chỉ chủng tộc người da
trắng mà không cần phân biệt người đó là người Âu hay người Mỹ.
Theo thời gian, do hoàn cảnh lịch sử, thuật ngữ “phương Tây” bao gồm thêm cả
Bắc Mỹ. Có cách hiểu như vậy vì người ta thấy có sự tương đồng về các yếu tố của
văn minh như: lý luận và tổ chức chính trị, lý luận và tổ chức kinh tế, hoàn cảnh sinh

hoạt xã hội.
Trong thời kì chiến tranh lạnh, sau khi các nước Đông Âu tuyên bố đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa và sau bài diễn văn của Tổng thống Mỹ H. Truman (3 – 1947),
các nước Tây Âu đã tập hợp lại với nhau thành một khối để chống lại “nguy cơ chủ
nghĩa xã hội”. Từ đó, thuật ngữ “phương Tây” thường được dùng để chỉ các nước tư
bản chủ nghĩa, là một thế giới đối lập với thế giới cộng sản.
Khái niệm “phương Tây” được dùng trong luận văn này với nghĩa bao gồm
những quốc gia châu Âu và Bắc Mỹ.
“Phương Đông” cũng là một khái niệm có nội dung rất rộng. Từ thời cổ - trung
đại, cư dân hai bên bờ Địa Trung Hải dùng thuật ngữ “phương Đông” để chỉ vùng đất
nằm ở phía Đông Địa Trung Hải, nghĩa là vùng đất phía Mặt trời mọc. Dần dần cùng
với thời gian, tầm mắt và hiểu biết của con người cũng được mở rộng ra. Người châu
Âu với ưu thế phát triển của mình, qua các cuộc khám phá, những phát kiến địa lí, họ
thấy rằng vùng đất Mặt trời mọc không chỉ là vùng đất chật hẹp nằm ở phía Đông Địa
Trung Hải, mà còn là những vùng đất xa xôi bên kia các đại dương. Họ gọi là vùng đất


20

Tân thế giới. Từ đó còn có một cách hiểu mới về phương Đông: phương Đông là khu
vực các nước ngoài châu Âu và Bắc Mĩ.
Trong thế kỉ XIX, xuất phát từ quan điểm “lấy châu Âu làm trung tâm”, làm
điểm chuẩn, các học giả châu Âu đã gọi các khu vực Tây Á, Trung Á, Đông Á và
Đông Nam Á bằng những tên gọi “không chính xác” [43, tr.15] là Cận Đông (Near
East, Proche-Orient), Trung Đông (Middle East, Moyen-Orient) và Viễn Đông (Far
East, Extreme Orient).
Trong luận văn này, thuật ngữ “phương Đông” được hiểu là những quốc gia
thuộc các khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh.
Như vậy, vấn đề “phương Đông”, “phương Tây” là một vấn đề thuộc về nhận
thức, lúc đầu đơn thuần dùng để chỉ phương hướng, sau đó nó gắn liền với yếu tố lịch

sử và màu sắc chính trị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, sự phân biệt
hai khái niệm phương Đông và phương Tây về mặt văn hóa - văn minh cũng dần hình
thành và “mang một ý nghĩa tương đối, theo quy ước” [43, tr.15]. Khi đó, nhắc đến
Phương Đông, người ta nghĩ ngay đến một nền văn minh của những dòng sông lớn,
nền kinh tế nông nghiệp, những quốc gia quân chủ chuyên chế và những tôn giáo, hệ
tư tưởng đóng kín, không thay đổi. Văn hóa phương Đông thường chứa một tư duy
tổng hợp, cầu tính, duy linh, một hệ giá trị thiên về tinh thần, đạo đức tình nghĩa, mang
tính truyền thống cộng đồng, trong đó con người hòa đồng với tự nhiên, xã hội và tâm
linh. Văn hóa Đàng Trong – văn hóa Nam Bộ của người Việt cũng mang những đặc
điểm chung của văn hóa phương Đông. Trong khi đó, văn minh phương Tây dựa trên
nền kinh tế thương mại đường biển, những thể chế chính trị đa dạng sớm tiếp cận đến
nền cộng hòa dân chủ, những trào lưu văn hóa tư tưởng luôn biến động và mang tính
chất mở. Văn hóa phương Tây thiên về lối tư duy phân tích, tuyến tính, duy lý, một hệ
giá trị đề cao sự tiến bộ, phát triển kinh tế vật chất, một con người cá nhân có ý thức
đấu tranh cho tự do và sự giải phóng. Thời cận đại, phương Tây thường gắn liền với
nền văn minh tư bản chủ nghĩa, một nền văn minh mang nhiều nét đặc trưng.
1.1.2. Những đặc trưng của văn minh phương Tây
Sau khi giành được thắng lợi trong các cuộc cách mạng tư sản, châu Âu đã tiến
hành cách mạng công nghiệp tạo nên một bước chuyển biến to lớn của lịch sử nhân


21

loại, làm xuất hiện nền văn minh công nghiệp, được xem là một nền văn minh tiên
tiến, lấn lướt cả nền văn minh nông nghiệp phương Đông “bị coi là thủ cựu, là lạc
hậu” [69, tr.361]. Văn minh phương Tây thời cận đại tiếp tục phát triển nhanh chóng
và hình thành những đặc trưng cơ bản.
Thứ nhất, đây là một nền văn minh công nghiệp và nhà nước hiện đại.
Châu Âu là nơi thực hiện thành công và trở thành trung tâm của cuộc cách mạng
công nghiệp, một sự kiện quan trọng của lịch sử xã hội loài người, đưa châu Âu đến

với văn minh công nghiệp. Khởi đầu là sự ra đời của máy móc và cải tiến kĩ thuật,
trước hết là trong ngành dệt, chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy.
Giai cấp tư sản Anh là những người đi đầu trong các phát minh và sử dụng máy móc.
Những kết quả bước đầu đó của nền văn minh công nghiệp nhanh chóng lan tỏa
khắp các nước Âu – Mỹ. Trình độ kĩ thuật ngày càng hoàn thiện với năng suất và độ
chính xác ngày càng cao đánh dấu những bước tiến rất cơ bản trong nền văn minh
công nghiệp châu Âu. Một hệ thống kĩ thuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt
thay cho hệ thống cũ dựa trên nước và gỗ tạo ra những đột biến với hiệu quả và chất
lượng cao hơn gấp bội, như năng lượng máy hơi nước so với năng lượng cối xay nước
và cối xay gió, vật liệu sắt so với vật liệu gỗ, nhiên liệu than so với củi gỗ, lao động
máy móc so với lao động thủ công, khuyến khích sản xuất mở rộng, các xí nghiệp lớn
xuất hiện, đẩy nhanh sự phát triển của hầu hết các ngành công nghiệp ở châu Âu: vận
tải đường thủy, đường sắt, luyện gang,…
Tuy nhiên, giá trị của nền văn minh công nghiệp phương Tây trong các thế kỉ
XVII – XIX đối với giao lưu và tiếp xúc văn minh Đông – Tây được thể hiện “trước
hết ở ngành hàng hải” [40, tr.52]. Cuối thế kỉ XV, tàu biển của Bồ Đào Nha đã có thể
vượt đại dương đi xa, vòng qua châu Á đến mũi Phi châu và khám phá ra châu Mỹ vào
năm 1492. Hà Lan là nước đã vượt lên Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong thế kỉ XVI
về hàng hải, trở thành bá chủ của nghề biển. Các nguyên tắc về ngân hàng, kế toán,
ngoại giao cũng phát triển nhằm phục vụ hàng hải. Công nghiệp hàng hải là phương
tiện để các nước phương Tây chuyên chở văn minh đến phương Đông, trong đó có cả
Nam Kỳ - Việt Nam. Giới thương nhân và các giáo sĩ là những người đã đem kĩ thuật,
máy móc, những tri thức khoa học từ châu Âu đến với phương Đông.


22

Cùng với sự phát triển của công nghiệp, văn minh phương Tây còn gắn liền với
những hình thức tổ chức nhà nước hiện đại, đó là thiết chế nhà nước tam quyền phân
lập. Từ thời Hy Lạp và La mã cổ đại, trên cơ sở tự nhiên và xã hội đã xuất hiện chế độ

chính trị và chính quyền dân chủ. Montesquieu (1689 - 1755) một nhà khai sáng Pháp
đã đưa ra tư tưởng về sự phân lập quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Các cuộc
cách mạng tư sản châu Âu sau khi lật đổ chế độ phong kiến đã xây dựng thể chế nhà
nước theo chế độ tam quyền phân lập. Đây là một thành tựu của nền văn minh nhân
loại được ra đời và áp dụng ở phương Tây tuân thủ nguyên tắc là quyền lực phải được
chế ngự bằng quyền lực. Không ai và không một đảng phái, tổ chức chính trị nào có
thể vượt lên trên hiến pháp và pháp luật, nhằm duy trì trật tự xã hội một cách công
bằng và bình đẳng.
Tóm lại, châu Âu là nơi khởi xướng và là trung tâm của cuộc cách mạng công
nghiệp, nơi tiến hành công nghiệp hóa sớm nhất. Sự phát triển kinh tế và kĩ thuật của
châu Âu với đầu tàu là các đô thị đã phá vỡ khuôn khổ nhà nước lãnh địa phong kiến
để hình thành nhà nước hiện đại.
Thứ hai, một nền văn minh mang đặc trưng Kitô giáo.
Từ đầu thế kỉ IV, khi Công giáo trở thành quốc giáo của đế chế La Mã, tôn giáo
này đã trở thành động lực lịch sử và văn hóa của nền văn minh châu Âu, “là sức mạnh
vật chất và tinh thần thúc đẩy quá trình hình thành các cộng đồng dân tộc và nhà
nước” [40, tr.53] ở châu Âu.
Từ thế kỉ XVI, cùng với các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, Kitô giáo đã hình
thành bốn nhóm phái tương ứng với các “khu vực văn hóa” của nền văn minh châu
Âu: Tây Âu với nét đặc trưng của Công giáo La Mã; Bắc Âu và một vài quốc gia Tây
Âu như Đức với nét đậm của Tin lành; Đông Âu, Nam Âu và Hy Lạp với Chính thống
giáo và Anh giáo trước hết của nước Anh. Vai trò của Kitô giáo ở mỗi khu vực tuy có
khác nhau nhưng đều có vị trí như một đặc trưng của văn minh châu Âu, “là thành
phần lớn nhất của tư tưởng châu Âu” [21, tr.471-472].
Trong thời cận đại, vai trò của Kitô giáo đối với văn minh phương Tây càng to
lớn khi làn sóng truyền đạo Kitô ra “các vùng đất ngoại” diễn ra ồ ạt, đặc biệt là sang
phương Đông, có cả Nam Kỳ. Việc truyền giáo một mặt nó là sự “mở nước Chúa” của


23


Công giáo La Mã sang các vùng đất ngoài châu Âu; mặt khác, ở bất cứ khu vực truyền
giáo nào, Công giáo La Mã luôn đóng vai trò là “sự hiện diện, cái cầu nối” [40, tr.54]
đầu tiên của nền văn minh châu Âu bất kể đó là các giáo sĩ thuộc dòng Tên
(Compagnie de Jesuites) của Bồ Đào Nha, dòng Đa Minh (Dominico), dòng Phan Sinh
(Phanxico) của Tây Ban Nha, dòng Âu Tinh (Augustino) của Italia hay của Hội truyền
giáo nước ngoài Paris (MEP) của Pháp. Các giáo sĩ không chỉ là người truyền giáo mà
họ còn đem đến cho vùng đất phương Đông những vật dụng hấp dẫn của nền văn minh
“Thái Tây” như đồng hồ, la bàn, sách vở, vải vóc cho đến thuốc lá, khoai tây và thuốc
súng. Các giáo sĩ khi đến Đàng Trong cũng dâng những vật dụng này lên các chúa
Nguyễn như là những món quà ra mắt.
Văn minh châu Âu không thể tách khỏi ảnh hưởng của Kitô giáo và ngược lại.
Trong suốt chiều dài lịch sử phương Tây, Kitô giáo “vẫn nằm ở vị trí trung tâm của
nền văn minh mà nó thúc đẩy, thậm chí ngay cả khi nó để cho nền văn minh đó cuốn
hút làm biến dạng” [21, tr.471-472]. Thông qua việc truyền bá đạo Thiên chúa, những
dấu ấn đầu tiên của nền văn minh phương Tây đã được in dấu ở phương Đông, đặc
biệt trong khu vực tam giác truyền giáo Goa (Ấn Độ) – Macao (Trung Quốc) – Manila
(Philippin). Nam Kỳ cũng là một vùng đất nằm trong khu vực truyền giáo ấy.
Thứ ba, một nền văn minh in đậm vai trò của cá thể.
Văn hóa truyền thống người Việt nói chung và Nam Kỳ nói riêng “không có chỗ
cho sự hình thành cá thể” [40, tr.56]. Đó là xã hội của cộng đồng, làng xóm, tộc họ. Cá
nhân tồn tại trong sự phụ thuộc vào cộng đồng làng xã, vào hệ quy chiếu đạo đức Nho
giáo.
Trong khi đó, đề cao con người và sự sáng tạo là một điểm nhấn trong văn hóa
phương Tây, được kế thừa từ truyền thống dân chủ thời Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa nhân
văn trong phong trào văn hóa Phục hưng, và tư tưởng của các nhà Khai sáng thế kỷ
XVIII. Tự do cá nhân là một trong những bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng tư sản
châu Âu, là bước tiến lớn của lịch sử tư tưởng và xã hội hiện đại, được thể hiện tập
trung và tiêu biểu ở ngọn cờ “Tự do – Bình đẳng – Bác ai”, ở Tuyên ngôn Độc lập của
nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền trong Cách mạng tư sản Pháp..



24

Chính nhân tố cá nhân và duy lý đã thúc đẩy sự ra đời của các phát minh, sáng chế
khoa học, buộc các thành viên trong xã hội phải nỗ lực vận động và tiến lên.
Khi tính cá thể được du nhập vào Nam Kỳ, đầu thế kỉ XX, những trí thức, các
nhà cải cách và những người cách mạng ở Việt Nam cũng đã khéo léo khai thác yếu tố
độc đáo, mới lạ về vai trò cá nhân của văn minh phương Tây để khắc phục một điểm
yếu quan trọng của văn hóa truyền thống người Việt, đó là quá đề cao tính cộng đồng
mà bỏ quên tính cá thể của con người.
Thứ tư, một nền văn hóa giáo dục phát triển.
Châu Âu là nơi có truyền thống giáo dục lâu đời và đã đạt được những thành tựu
to lớn trong giáo dục, hình thành một nền giáo dục tiến bộ, vừa là động lực vừa là
phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển ổn định và chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc, nhu cầu về phát triển kinh tế - xã hội đã buộc các nước
tư bản phải chú trọng về phát triển giáo dục. Mục đích giáo dục phương Tây trong giai
đoạn này là chuẩn bị cho trẻ em có đủ trình độ và năng lực để đảm nhận việc quản lý
nhà nước và quản lý nền sản xuất hiện đại. Trong mối quan hệ văn hóa giữa Nam Kỳ
với phương Tây, việc áp dụng mô hình giáo dục phương Tây lên vùng đất này sẽ là
vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất của nhà cầm quyền Pháp, nhất là việc lựa chọn chữ
viết cho nền giáo dục.
Thứ năm, một nền văn minh gắn liền và lan tỏa nhờ chủ nghĩa thực dân.
Chủ nghĩa thực dân được hình thành ngay từ buổi đầu tích lũy nguyên thủy của
chủ nghĩa tư bản. Cùng với chủ nghĩa tư bản, nó là yếu tố quan trọng, phổ biến trong
việc tiếp xúc văn minh phương Tây của các nước phương Đông, là một trong những
yếu tố quyết định nhất của việc thực hiện “công nghiệp hóa cưỡng bức” đối với các xã
hội châu Á từ thế kỉ XIX.
Việc chinh phục châu Mỹ ở thế kỉ XVI, việc mở tung cánh cửa lục địa Ấn Độ

(1757) và thị trường Trung Quốc rộng lớn (1842) là những sự kiện lớn đánh dấu sự
bành trướng của chủ nghĩa thực dân châu Âu mà qua đó các nước phương Đông bắt
đầu đối diện với nền văn minh phương Tây “vừa hấp dẫn, vừa tàn bạo”. Qua đó, văn
minh châu Âu không những có thêm những không gian rộng lớn để thực hiện công


25

cuộc di dân, mà còn có thể khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và sức lao động rẻ
mạt ở các xứ thuộc địa, làm giàu thêm cho nền văn minh chính quốc. Chủ nghĩa thực
dân trở thành “cơ hội” khách quan để văn minh phương Tây dần in dấu trong các xã
hội châu Á, đồng thời, là sức mạnh, điều kiện để tạo ra những “hình thái” kinh tế - xã
hội mới cho sự hiện diện của văn minh phương Tây, lẫn mô hình “văn minh phương
Tây cưỡng bức” [40, tr.48] ở các nước thuộc địa.
Về phương diện xã hội, nhờ có sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân phương Tây
thông qua các cuộc khai thác thuộc địa, đã làm cho mô hình xã hội cổ truyền ở nhiều
nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á dần đi đến giải thể nhanh chóng và quyết
liệt hơn, làm xuất hiện nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là giai cấp tư sản,
tiểu tư sản và giai cấp công nhân - là những giai cấp sẽ “tạo nên một cơ sở xã hội cần
thiết cho việc tiếp nhận văn minh phương Tây một cách sâu rộng và phổ biến” [40,
tr.48-49]
Văn minh công nghiệp phương Tây là một bước tiến vĩ đại của nhân loại. Nó đã
đưa lao động cơ giới thay thế cho lao động cơ bắp, chuyển nền sản xuất nông nghiệp
lạc hậu sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại, chuyển thiết chế phong kiến sang thiết
chế dân chủ tư sản và tự do hóa cá nhân. Chính trong sự hào nhoáng đó của văn minh
phương Tây, người châu Âu đã tự gắn cho mình “sứ mệnh khai hóa văn minh”
(mission civilisatrice) đối với các dân tộc phương Đông, nơi gắn liền với nền kinh tế
nông nghiệp khép kín, với chế độ quân chủ chuyên chế kéo dài hàng nghìn năm và
truyền thống cộng đồng đã bám rễ trong ý thức con người. Do vậy, chắc chắn, sự đụng
độ giữa hai nền văn hóa Đông – Tây sẽ diễn ra, mở đầu bằng các con đường truyền

giáo, thương mại, xâm lược…
1.2. Vùng đất Nam Kỳ trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa là “một hiện tượng văn hóa phổ biến” [43, tr.13],
“là quy luật phát triển của văn hóa, văn minh, một nhu cầu tự nhiên của con
người”[70, tr.20], nó “xảy ra khi những nhóm người có nền văn hóa khác nhau, tiếp
xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi nhận thức văn hóa ban đầu của một hay cả
hai nhóm” [121, tr.21] và được gọi bằng nhiều thuật ngữ: tiếp biến văn hóa, tiếp xúc


×