Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

sự chuyển biến của một số tác giả thơ mới trong thơ ca cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 157 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN DIÊN XƯỚNG

SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ
THƠ MỚI TRONG THƠ CA CÁCH MẠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2005





LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án do bản thân tôi thực hiện. Nếu có gì gian dối, vi phạm quy
chế trong quá trình thực hiện luận án, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

NCS. Nguyễn Diên Xướng

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 3
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Tính cần thiết và mục đích, ý nghĩa của đề tài: ...........................................................5
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu: ....................................................................5


3. Lịch sử vấn đề: ................................................................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................................22
5. Đóng góp của luận án: ..................................................................................................23
6. Cấu trúc của luận án: ...................................................................................................23

CHƯƠNG 1: SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC ...................... 24
1.1. Quan niệm sáng tác của các nhà thơ mới trước năm 1945: ..................................24
1.2. Quan niệm sáng tác của các nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng Việt Nam từ
sau 1945: ............................................................................................................................30

CHƯƠNG 2: SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ CẢM HỨNG SÁNG TÁC ...................... 43
2.1. Quan niệm về cảm hứng: ..........................................................................................43
2.2. Sự chuyển biến về cảm hứng sáng tác trong thơ các nhà thơ mới từ sau 1945: ..44
2.2.1. Sự chuyển biến từ cảm hứng về cái tôi cá nhân đến cảm hứng công dân: ...........44
2.2.2. Sự chuyển biến cảm hứng từ tình yêu riêng tư đến cảm hứng về tình yêu gắn với
cộng đồng dân tộc: ..........................................................................................................68

CHƯƠNG 3. SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ GIỌNG ĐIỆU, HÌNH ẢNH VÀ NGÔN
NGỮ THƠ .................................................................................................................. 81
3.1. Sự chuyển biến về giọng điệu: ..................................................................................81
3.1.1. Quan niệm về giọng điệu: .....................................................................................81
3.1.2. Sự chuyển biến giọng điệu trong thơ các tác giả: .................................................82
3.2. Sự chuyển biến về hình ảnh thơ: ..............................................................................93
3.2.1. Quan niệm về hình ảnh thơ: ..................................................................................93
3.2.2. Sự chuyển biến về hình ảnh thơ trong thơ các tác giả: .........................................95
3.3. Sự chuyển biến về phương diện ngôn ngữ: ...........................................................106
3.3.1.Quan niệm về ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ thơ ca: ............................................106
3.3.2. Sự chuyển biến về ngôn ngữ thơ trong thơ các nhà thơ mới: .............................108

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 134

TƯ LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 139
4


MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết và mục đích, ý nghĩa của đề tài:
1.1. Tính cần thiết của đề tài:
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, phần lớn các nhà thơ trong Phong trào Thơ mới đều
chuyển biến, đi theo cách mạng và tiếp tục sáng tác. Tìm hiểu sự chuyển biến cụ thể của họ
bằng một công trình nghiên cứu nghiêm túc, luận án sẽ góp phần làm rõ những nguyên tắc
tư tưởng và nghệ thuật mà các tác giả đã chọn lựa. Qua đó, luận án sẽ lý giải mối quan hệ
giữa quan niệm sáng tác với thực tế sáng tác, giữa tài năng, bản lĩnh của các tác giả với yêu
cầu của thực tiễn đời sống.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Từ tính cần thiết nêu trên, mục đích và ý nghĩa của luận án hướng đến hai vấn đề cụ
thể sau:
Xem xét sự chuyển biến của các nhà thơ mới đã đem lại bài học gì về nhận thức, sự
sáng tạo nghệ thuật và đâu là lý do của những thành công, hạn chế của các tác giả.
Do sự chuyển biến của các nhà thơ mới diễn ra đồng thời với quá trình hình thành một
kiểu tác giả mới, nên luận án có dịp thấy rõ qui luật vận động, đặc điểm và thành tựu của
thơ Việt Nam sau 1945.

2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu:
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Sự chuyển biến của một số nhà thơ mới trong thơ
ca Cách mạng Việt Nam từ sau 1945. Thơ ca cách mạng nói ở đây là dòng thơ ca chịu ảnh
hưởng ý thức hệ vô sản được bắt đầu từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và phát triển phong
phú trong cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc 30 năm (1945-1975)
- Từ tiêu đề luận án, có thể xác định “Sự chuyển biến” là đối tượng trung tâm. Sự
chuyển biến này rõ ràng là từ phạm trù Thơ mới, thơ lãng mạn đến thơ cách mạng. Sự

chuyển biến như thế, tất phải khảo sát nội dung lẫn hình thức..
5


- “Sự chuyển biến” còn thường xuất hiện vào các thời kỳ giao thời, thời kỳ “bản lề”
của trước và sau một biến thiên lớn, nên luận án xem thời kỳ Cách mạng tháng Tám 1945 là
có ý nghĩa quan trọng. Đây là một thời kỳ lịch sử rất đặc biệt của dân tộc và văn học với
nhiều dấu ấn riêng của chính trị, xã hội cùng các khuynh hướng văn hóa, tư tưởng khác
nhau đã tác động đến sự chuyển biến của các nhà thơ mới.
- “Sự chuyển biến” theo nghĩa rộng hãy còn tiếp tục ở các nhà thơ mới vào các thời kỳ
sau. Tuy nhiên, suy cho cùng, các thời kỳ tiếp sau vẫn thuộc phạm trù thơ Cách mạng Việt
Nam. Những chuyển biến về sau này của họ, thực ra cũng là quá trình điều chỉnh, phát triển
con đường thơ của từng tác giả và tất nhiên điều này vẫn có sự chi phối từ những bình diện
cơ bản đã được xác lập từ thời điểm sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Sự chuyển biến của các nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng là một đề tài rộng, đòi
hỏi khảo sát trên nhiều bình diện khác nhau. Từ điều kiện thực hiện luận án, chúng tôi giới
hạn việc nghiên cứu đối với những vấn đề cơ bản như: Sự chuyển biến về quan niệm sáng
tác, về cảm hứng, về giọng điệu, về hình ảnh thơ và ngôn ngữ. Những vấn đề này sẽ được
triển khai trên cơ sở sự chuyển biến trong sáng tác thơ ca của các tác giả. Quan niệm rằng
những ai có chuyển biến trong sáng tác và chuyển biến đến cùng trong nền thơ ca cách
mạng (từ 1945 - 1975) mới có cơ sở để khảo sát đối với những bình diện cụ thể của sự sáng
tạo, nên luận án, tuy có nói đến nhiều nhà thơ mới khác nhau, nhưng chủ yếu sẽ khảo sát,
phân tích đối với các nhà thơ: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh. Đây là những
nhà thơ có sự chuyển biến nhanh hoặc chậm, nhưng đều có nhiều sáng tác nhất. Một số tác
phẩm sáng tác từ sau 1945 của họ đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn đưa vào giảng dạy
trong chương trình văn học ở nhà trường các cấp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông và
cũng được nhiều nhà nghiên cứu tham gia bàn luận. Do vậy, chắc chắn khảo sát sự chuyển
biển của các nhà thơ nói trên, luận án có thể tìm thấy một số điểm riêng của từng nhà thơ và
một số vấn đề chung đối với tất cả các nhà thơ mới đi theo cách mạng và tiếp tục sáng tác.
2.2. Phạm vi tư liệu:

- Các nhà thơ mới lãng mạn chuyển biến thành những nhà thơ Cách mạng, nên những
sáng tác trước năm 1945 của họ là tư liệu cần thiết để so sánh đối với sáng tác sau 1945. Và
chính những sáng tác tiêu biểu từ sau 1945 của họ là phạm vi tư liệu cơ bản.

6


- Các tài liệu, công trình có tính chất hồi ức, kỷ niệm về quá trình chuyển biến của các
nhà thơ mới cũng là tư liệu cần thiết.
- Tạp chí Tiên phong (1945 - 1946) với 34 số, tạp chí Văn nghệ (1948 - 1954) với 56
số sẽ là tư liệu tin cậy để tìm hiểu vấn đề.
- Những bài viết, công trình của các cá nhân, tập thể khác (cả Miền Nam trước năm
1975) có liên quan đến đề tài, đều là tư liệu được tham khảo.

3. Lịch sử vấn đề:
Cho đến nay, chưa có công trình chuyên sâu nào bàn về sự chuyển biến của các nhà
thơ mới trong thơ ca cách mạng từ sau 1945. Nhưng nhìn một cách rộng rãi thì vấn đề ít
nhiều đã được bàn đến từ thời kháng chiến chống Pháp cho đến nay qua nhiều bài viết, công
trình khác nhau. Qua các giai đoạn, có thể thấy các nhà nghiên cứu quan tâm đến hai mặt cơ
bản: chuyển biến về quan niệm sáng tác và sự chuyển biến về thực tế sáng tác (cả nội dung
và hình thức).
3.1. Giai đọan 1945 - 1954:
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, trên tạp chí Tiên Phong (1945 - 1946) và sau đó, trên
báo Văn Nghệ (1948 - 1954), các nhà nghiên cứu - phê bình, các nhà văn như Đặng Thai
Mai, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đình Lạp... đều ghi nhận sự
chuyển biến của các nhà thơ mới trong đời sống văn nghệ cách mạng. Các bình diện như
nhận thức - tư tưởng, quan niệm sáng tác và thực tế sáng tác đều ít nhiều được đề cập đến.
Trong bài: Nguồn sống mới của văn hóa Việt Nam, in ở tạp chí Tiên Phong số 3,
Nguyễn Đình Thi ghi nhận sự chuyển biến của văn nghệ sĩ lớp trước 1945, trong đó có các
nhà thơ mới đã “can đảm nhận cái lầm của mình, và quả quyết đem đời sống riêng đặt vào

đời đoàn thể” [184; 162]. Chính nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng nói: “Tôi có cảm giác là duy trì
cuộc sống riêng biệt là không được nữa, chỉ có cuộc sống chung là đáng duy trì thôi” [119;
860]. Những nhận thức trên đây là một bước ngoặt quan trọng, có ý nghĩa lâu dài đối với
quan niệm sáng tác về sau của họ. Khi được phỏng vấn về “Những nỗi băn khoăn của tư
tưởng và nghệ thuật”, Lưu Trọng Lư trả lời với Nguyễn Đình Lạp như sau: “Từ ngày ở đấy
về (ở Quảng Ngãi - TGLA), cái quan niệm văn chương của tôi như biến đổi hẳn từ trong căn
7


bản. Tôi thích sự thực. Và hơn hết, sự thành thực” [119; 861]. Đối với Lưu Trọng Lư, có thể
hiểu rằng, ông đã muốn chuyển biến từ sự “mơ mộng” đến với những gì thiết thực của đời
sống. Tất nhiên là “phải biết đợi”, biết “rung động theo nhịp điệu của đoàn thể”, biết “dân
tộc hóa một cách đầy đủ, chín chắn” [119; 866 - 868].
Trên phương diện sáng tác thơ ca, Nguyễn Đình Thi điểm lại chuyển biến rõ rệt của
Trận Huyền Trân qua “điệu thơ sáu tám”, Vũ Hoàng Chương “hát lên những lời mới mẻ” và
đặc biệt tác giả khẳng định “sự biến cải” của Xuân Diệu cùng với những sáng tác nhiều sự
“hứa hẹn” của ông như Miền Nam ruột thịt, Đã đứng lên, Ngọn Quốc Kỳ [184; 163]. Cắt
nghĩa những thành công mới mẻ của Xuân Diệu trên đây, Đặng Thai Mai cho rằng chính
“cuộc tổng khởi nghĩa và những trận kháng chiến đã cấp cho Xuân Diệu một nguồn thi
hứng rất giàu và rất khỏe” [122; 661]. Nhà nghiên cứu cũng xác nhận có một sự thay đổi lớn
lao trong tâm hồn và nghệ thuật của Nguyễn Xuân Sanh [122; 661] qua những bài thơ đăng
báo thời kỳ này.
Như vậy, trên các bình diện nhận thức - tư tưởng, quan niệm sáng tác và thành tựu thơ
ca, các nhà nghiên cứu - phê bình đều đã nói đến sự chuyển biến của các nhà thơ mới. Tuy
chưa được chi tiết, nhất là chưa có cái nhìn đối với sự chuyển biến từ thơ lãng mạn đến thơ
sau Cách mạng tháng Tám, nhưng những ý kiến trên là bước khởi đầu rất đáng ghi nhận
trong lịch sử nghiên cứu sự chuyển biến của các nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng từ sau
1945.
3.2. Giai đoan 1954 - 1975:
Giai đoạn này đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ xã hội khác nhau. Sự

đánh giá về quá trình chuyển biến của các nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng còn là vấn đề
quan điểm, thiên kiến chính trị và phương pháp nghiên cứu.
3.2.1. Ở Miền Nam:
Ở Miền Nam, từ cuối những năm năm mươi đã có một số tác giả đề cập đến khía cạnh
văn nghệ sĩ tiền chiến đi theo cách mạng. Những ý kiến của họ đều nói đến nhận thức - tư
tưởng, quan niệm sáng tác và thực tế sáng tác thơ ca, nhưng ít cụ thể và khá phân hóa về
quan niệm.
8


- Loại ý kiến thiếu khách quan đối với sự chuyển biển cửa các nhà thơ mới:
Trong bài: “Nguyễn Bính và những bước lỡ làng gieo neo trong cuộc sống”, tác giả
Sông Thai có ý phân biệt sự khác nhau trong cảm hứng và thành tựu thi ca của Nguyễn Bính
qua hai thời kỳ trước và sau 1954. Trước năm 1954, khi còn hoạt động kháng chiến và làm
thơ ở Miền Nam thì Nguyễn Bính “hết lòng với cách mạng, với tổ quốc” [179; 113] và sáng
tác được nhiều tác phẩm thành công. Còn từ sau 1954, khi Nguyễn Bính tập kết ra Miền Bắc
thì “tâm hồn nhà thơ đã hóa ra cằn cỗi, giá lạnh thiếu hẳn một ngọn lửa nhiệt tình làm cơ sở
cho việc sáng tác” [179; 113]. Cuối cùng, tác giả đã quy kết việc “đuối sức, khô khan” của
Nguyễn Bính “căn bản là vì chế độ Miền Bắc đã không có đủ yếu tố cần thiết tạo nên sinh
lực cho tâm hồn và trí tuệ của nhà thơ” [179; 113].
Ở bài viết: “Đi tìm thân thế và tác phẩm một thi sĩ ẩn danh: Chế Lan Viên”, Nguyễn
Phan nói từ sau 1945, Chế Lan Viên trở thành “một nhà thơ máy” [152; 03] của Miền Bắc.
Trong việc sáng tác cụ thể của Chế Lan Viên, Nguyễn Phan nói “Chế Lan Viên thấy làm thơ
ca tụng quá cũng nhàm lại bị bạn bè nói xỏ, nói xiên”, nên Chế Lan Viên đã chuyển cảm
hứng sang làm một bài thơ tình cách mạng là Tình ca ban mai. Không thấy đưa ra những cứ
liệu cụ thể nào của cơ quan in ấn hoặc đánh giá bài thơ tình nói trên, nhưng Nguyễn Phan
nói tiếp: sau khi bài thơ cho đăng báo ít lâu thì Đảng “hỏi thăm” Chế Lan Viên về tội “ủy
mỵ” trong bài thơ tình ấy và đòi đưa nhà thơ lên rừng cải tạo tư tưởng [152; ,04]. Cách nói
thiếu căn cứ và mang tính chủ quan như trên là thiếu thuyết phục đối với trường hợp có sự
chuyển biến đạt nhiều thành tựu trong nền thơ cách mạng như Chế Lan Viên.

Ngoài ra, những ý kiến khiếm danh của các Nhà xuất bản Thăng Long, Hoa tiên... khi
xuất bản lại một số công trình như Nhà văn hiện đại (Vũ Ngọc Phan) hay hàng loạt tập thơ
của các nhà thơ mới cũng đều cho rằng các nhà thơ mới không sáng tác được gì, từ khi đi
theo cách mạng. Những ý kiến trên đều có phần thiếu khách quan. Do thiền kiến chính trị
một chiều, cái nhìn của các tác giả chưa thấy hết được những chuyển biến cụ thể của các
nhà thơ mới từ thơ lãng mạn đến thơ ca cách mạng.
- Loại ý kiến có phần khách quan đối với sự chuyển biến của các nhà thơ mới:
Trong biên khảo: “Hai mươi năm văn nghệ miền Bắc, 1945- 1965” (1969), Sông Thai
có một số nhận xét tổng quát có phần khách quan về sự phát triển của văn nghệ Miền Bắc từ
9


1945 đến 1965 [178; 108 - 109]. Ở phần thơ ca, tác giả nói: trước hết phải kể đến những nhà
thơ tiền chiến, lớp người đã đoạn tuyệt với nếp rung cảm lãng mạn, yếu đuối, vàng vọt qua
cái cá nhân chủ nghĩa hoàn toàn bé nhỏ ích kỷ để hòa mình với cuộc kháng chiến rộng lớn
bao trùm lấy mọi sinh hoạt xã hội [178; 93]. Ý kiến này chứa đựng cả sự chuyển biến về tư
cách công dân và tư cách nghệ sĩ của các nhà thơ mới. Đối với hình thức và nội dung tác
phẩm thơ ca, Sông Thai chỉ có ý kiến khái quát. Với hình thức thì thơ ca đã sử dụng rộng rãi
nhiều hình thức [178; 93], với nội dung thì nói về những người bình thường nhưng cùng tâm
chí chiến đấu cho dân tộc [178; 93]. Trong khi phân tích thơ của nhiều nhà thơ, các nhà thơ
mới như Lưu Trọng Lư, Vân Đài, Anh Thơ cũng được tác giả dừng lại ở các điểm chuyển
biến rõ rệt. Đối với Lưu Trọng Lư, Sông Thai xem là người đã “tỉnh mộng trở về” để “theo
những cô thôn nữ quê mùa nhưng thật đáng yêu như hình ảnh khả ái của một O đi tiếp tế”.
Tác giả cũng cho Lưu Trọng Lư là người đã “bình tĩnh để giới thiệu những con người Bình
Trị Thiên hiên ngang bất khuất qua bài thơ xinh đẹp Ngò cải đơm hoa” [178; 91]. Tác giả
cũng nhận thấy: một “Vân Đài dịu dàng:”, một “Anh Thơ yếu ớt” cũng đã cố gắng theo bộ
đội hành quân, theo “Chị cán bộ kháng chiến” [178; 94- 98]. Các ý kiến của Sông Thai cho
thấy các nhà thơ mới được nhắc đến ở đây đều có sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức tư tưởng và sáng tác thơ ca. Tuy nhiên, ý kiến của Sông Thai tự bộc lộ sự bất nhất trong
quan điểm đánh giá đối với các nhà thơ mới đang ở miền Bắc lúc bấy giờ. Ý kiến của Sông
Thai về Nguyễn Bính trong bài: Nguyễn Bính và những bước lỡ làng gieo neo trong cuộc

sống nói ở trước và ý kiến ở phần này cho thấy điều đó.
Năm 1970, trong một bài viết gồm nhiều phần chủ yếu nói về cuộc đời và thơ văn của
Thâm Tâm trước 1945, Thiên Tướng có nói đến sự chuyển biến của Thâm Tâm trên phương
diện tư cách công dân đối với đất nước đang kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Tác giả
khẳng định: “Thâm Tâm đi với kháng chiến, tích cực dự phần chiến đấu cho tự do, độc lập
và dân chủ của đất nước” [211; 16]. Còn ở phương diện sáng tác, tuy Thiên Tướng biết
Thâm Tâm “vẫn làm văn nghệ” [211; 06], nhưng tác giả không có tư liệu cụ thể.
Có khác với ý kiến của Sông Thai nói về Nguyễn Bính ở bên trên, tác giả Thái Bạch
trong bài: “Nguyễn Bính- nhà thơ kháng chiến ở miền Nam Việt Nam” (1974), có một vài ý
kiến mang tính khách quan đáng ghi nhận. Tác giả xác định rằng, chính cuộc sống kháng
chiến, nhất là những thắng lợi liên tiếp trên mặt trận quân sự ở Miền Nam đã tạo cảm hứng
cho Nguyễn Bính viết được nhiều tác phẩm giàu sức rung động lòng người như: Những
10


người của ngày mai, Tiểu đoàn 307, Trường ca Đồng Tháp Mười... Thái Bạch cũng đánh
giá Nguyễn Bính là “nhà thơ đáng ghi vào văn học sử” và “chấp nhận” ở Nguyễn Bính
“những bài có chất phục vụ cho cuộc sống theo chiều hướng tiến lên của một dân tộc mà
thôi” [7; 20]. Tuy nhiên, tác giả Thái Bạch cũng không quên chỉ ra cái “không hiểu được”
[7; 19] của Nguyễn Bính về vai trò của nhân dân, của cách mạng ngay trong những ngày
nhà thơ tham gia kháng chiến và làm thơ. Ý kiến của Thái Bạch cho thấy sự chuyển biến
của Nguyễn Bính tốt hơn ở phần sáng tác, còn phần nhận thức - tư tưởng có một số hạn chế.
Trong hồi ký “Con người Chế Lan Viên” (1974), Hoàng Trọng Miên không nói đến sự
chuyển biến và sáng tác của Chế Lan Viên từ khi đi theo cách mạng, nhưng tác giả dành
nhiều trang thích đáng để nói về cảm hứng sáng tác dào dạt của Chế Lan Viên qua nhiều bài
thơ trong tập Ánh sáng và phù sa [129; 14 - 16].
Cách trình bày của Hoàng Trọng Miên chứng tỏ tác giả thừa nhận Chế Lan Viên đã có
những chuyển biến tích cực, dù sự thừa nhận này chưa được đối chiếu với tập thơ Điêu tàn
trước kia của Chế Lan Viên.
Tất cả những ý kiến thiếu khách quan hay có phần khách quan trên đây, thực ra vẫn

chưa đầy đủ, nhưng nó cũng mang lại vài nét chung nhất trong quan niệm của các tác giả
đối với vấn đề đang bàn:
- Thứ nhất: Các tác giả đều chỉ thấy sự chuyển biến từ sau Cách mạng tháng Tám, chứ
chưa xuất phát từ thơ ca của các tác giả trước 1945 để thấy sự đổi thay trong quá trình sáng
tạo,
- Thứ hai: Do phương pháp và thiên kiến chính trị, nên một số ý kiến phê phán sự
chuyển biến của các nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng, đánh giá thấp sự sáng tạo của họ.
ở loại ý kiến này, cả Nguyễn Phan, Sông Thai đều có chỗ giống nhau ở thái độ phủ định văn
nghệ ở miền Bắc. Điều này là do sự chi phối của thái độ chính trị của các tác giả và suy cho
cùng, đó là sự chống phá, xuyên tạc đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa..
- Thứ ba: Một số tác giả tôn trọng sự chuyển biến của các nhà thơ mới, đánh giá cao
những thành công mà họ đạt được, trong đó, ý kiến của Thái Bạch, nhà nghiên cứu từng
tham gia kháng chiến chống Pháp và được bố trí ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách
mạng là ý kiện đáng trân trọng.
11


3.2.2. Ở Miền Bắc:
Đối với sự chuyển biến của một số nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng, các nhà
nghiên cứu ở Miền Bắc đã nhìn nhận vấn để trên quan điểm cách mạng và dân tộc, đánh giá
cao sự chuyển biến và cống hiến của các nhà thơ mới trong đời sống cách mạng, kháng
chiến, ghi nhận những thành công của họ cả trong chuyển biến về nhận thức - tự tưởng lẫn
sáng tạo thi ca. Tuy nhiên, do phần nào thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, nên cũng có ý kiến
hạ thấp giá trị Thơ mới trong tương quan với thơ ca cách mạng, mà chưa chú ý đến vấn đề
có tính phương pháp luận: Thơ mới và thơ ca cách mạng là hai phạm trù thi Ca khác nhau.
Mặt khác, cũng có ý kiến chịu ảnh hưởng của quan niệm văn chương hiện thực mang tính
xã hội học dung tục, nên chưa thực sự khách quan đánh giá sáng tác của các nhà thơ mới
(giờ đã là những nhà thơ cách mạng) từ bình diện sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù vậy, các ý
kiến của các nhà nghiên cứu ở Miền Bắc giai đoạn này đã đánh dấu bước phát triển mới đối
với việc nghiên cứu sự chuyển biến của các nhà thơ mới nói riêng, sáng tác của họ trong nền

thơ ca cách mạng nói chung.
Từ năm 1956, trong bài viết: “Một vài ý kiến về tập thơ NGÔI SAO của Xuân Diệu”,
nhà phê bình Hoài Thanh đã thấy cách mạng càng tiến lên, Xuân Diệu càng thêm gắn bó với
quần chúng, nhất là nông dân [182; 208]. Xuân Diệu thu nhận nhiều niềm vui của cuộc đời
mà trước kia không có [182; 208-210]. Qua việc tham gia cải cách ruộng đất, Xuân Diệu có
“một sự chuyển biến mới trong tư tưởng và trong thơ” [182; 211]. Từ đó, trong thơ ông,
nhiều quan hệ cuộc đời được miêu tả “mặn mà, chu đáo” [182; 214]. Thái độ đả kích bọn
phản cách mạng của Xuân Diệu là một ưu điểm [182; 213]. Cũng theo Hoài Thanh, bước
biến trong tập thơ là nhờ sự “cố gắng chân thành” của tác giả và sự giáo dục của Đảng, của
nhân dân.
Năm 1970, khi nhìn lại quá trình thơ Xuân Diệu, Nguyễn Duy Bình xác định thơ Xuân
Diệu đã “lao vào giữa biển người cách mạng” ngay từ đầu và ông ca ngợi cách mạng nhân
dân, chĩa mũi nhọn vào bọn phá hoại chính quyền [9; 48-49]. Nguyễn Duy Bình cũng thấy
Xuân Diệu còn trăn trở trên đường cách mạng, vì còn tình trạng “cứ chùn dần, cứ cuốn lại”.
Đến sau cải cách ruộng đất, tình trạng này mới được khắc phục dần. Cảm xúc anh hùng,
theo Nguyễn Duy Bình, xuất hiện rất sớm trong thơ Xuân Điệu, nhưng nó còn đậm màu
“lãng mạn, tưởng tượng”, vì thực tế cách mạng trong Xuân Điệu còn ít [9; 53]. Tuy cuộc
12


sống có khi còn “ứ tràn”, chưa chín trong thơ tác giả, nhưng con đường thơ Xuân Diệu theo
Nguyễn Duy Bình sẽ còn “đâm chồi nảy lộc” [9; 60],
Phan Cự Đệ thấy trong tập thơ Riêng - Chung, Xuân Diệu đã đem tình cảm ca ngợi
Đảng và chế độ [37; 215]. Đem cái riêng của mình hòa với cái chung, nâng cái “tôi” cho
khớp với cái “ta” của thời đại là một cố gắng của Xuân Diệu. Phan Cự Đệ cũng thấy cái
nhìn của Xuân Diệu đối với thiên nhiên, con người có nhiều thay đổi, mang thêm tình cảm
tốt đẹp và điều này chính là nhờ cách mạng [37; 217]. Nhưng nhà phê bình cũng nói rằng
tình cảm ngợi ca con người lao động trong thơ Xuân Diệu như hãy còn “đứng ngoài” mà ca
ngợi, chưa nói hết những vất vả, buồn vui trong cuộc đời của những người cần lao [37; 219220].
Các ý kiến trên đây thấy được sự chuyển biến của Xuân Diệu về lập trường tư tưởng

lẫn sáng tác là đều nhờ cuộc sống cách mạng. Về tư tưởng, dù Xuân Diệu rất quyết tâm tự
cải tạo mình, nhưng vẫn có tình trạng “chùn chân”, “cuốn lại”, tức cuộc đấu tranh nội tâm
vẫn còn phức tạp, dai dẳng. Còn sáng tác của Xuân Diệu đã đóng góp tích cực vào nền thơ
ca mới, dù vẫn chưa nói hết được mọi mặt của đời sống. Tuy nhiên, việc nhìn sự chuyển
biến cụ thể của Xuân Diệu từ nội dung đến hình thức từ trước 1945 đến sau Cách mạng
tháng Tám chưa được các tác giả chú ý.
Cuối năm 1959, Minh Dương đã thấy Lưu Trọng Lư có “tiến lên về tư tưởng và nghệ
thuật” qua tập thơ tỏa sáng đôi bờ. Minh Dương cho rằng tư tưởng, tình cảm của Lưu Trọng
Lư đã “quần chúng hóa” [31; 316].
Đến tập thơ Người con gái sông Gianh của Lưu Trọng Lư, Hà Minh Đức, Vũ Đình
Phòng đều xác định đề tài chống Mỹ có vị trí quan trọng trong thơ của Lưu Trọng Lư và nhà
thơ đã ca ngơi những người anh hùng trong các cuộc chiến đấu. Cũng theo hai nhà nghiên
cứu trên, hình ảnh người phụ nữ rất được Lưu Trọng Lư quan tâm [47; 326][145; 350].
Những con người như cô con gái Sông Gianh, chị út Tịch, chị Lý, chị Định, chị Khương,
chị Viễn ... đều được nhà thơ trân trọng diễn đạt bằng bút pháp “lãng mạn hoa”. Dù tập thơ
còn dùng từ ngữ, hình ảnh cũ, có chỗ chưa nhuần nhuyễn như các nhà nghiên cứu nói,
nhưng Lưu Trọng Lư luôn gắn bó với sự nghiệp của nhân dân.

13


Những ý kiến nêu trên cho thấy sự chuyển biến về đối tượng sáng tác của Lưu Trọng
Lư đã đổi mới, nhưng hình thức thể hiện vẫn còn chịu ảnh hưởng của thơ lãng mạn. Cái
nhìn của các tác giả chủ yếu vẫn tập trung vào phần sáng tác thơ sau Cách mạng tháng Tám,
chứ chưa so sánh với tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư trước 1945.
Đọc Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ đều xem những
chuyến đi công tác thực tế của Huy Cận đã “xúc tiến sự nở rộ trong tâm hồn Huy Cận”
[222; 78]. “đưa lại một sự chuyển biến lớn trong sáng tác của nhà thơ” [92; 96], Bên cạnh
ưu điểm ngợi ca cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa, các tác giả cũng thấy tình cảm của nhà thơ
có khi còn “tịch mịch” [92; 96] và còn có cái phần “sự sống chưa lên đến tận độ” [222; 83]

ở một số bài thơ. Đến Bài thơ cuộc đời, Lê Đình Kỵ, Đào Xuân Quý thấy tập thơ có tính
cách “nở hoa, kết trái” [160; 107], làm đầy đặn thêm cho “chủ đề lao động kiến thiết đất
nước [93; 98], và nhờ đó, tâm hồn thơ Huy Cận trở nên giàu có hơn [160; 112], hào hứng,
lãng mạn hơn [160; 99]. Mặc dù tập thơ còn cái nhìn “thuận chiều” [160; 113], chưa hài hoa
giữa tư tưởng và tình cảm [93;103], [160; 113], nhưng các tác giả đều khẳng định Huy Cận
có chuyển biến tốt [160; 99] và đi vào cuộc sống với “bước chân ngày một vững vàng” [93;
106].
Nghiên cứu những sáng tác của Huy Cận, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức đều
khẳng định cảm hứng về đất nước, thiên nhiên, tạo vật vẫn hiện ra tươi đẹp, hài hoa trong
thơ Huy Cận [128; 118], [49; 128 -129] qua hai tập thơ: Những năm sáu mươi, Chiến
trường gần đến chiến trường xa. Đến tập thơ: Ngày hằng sống, ngày hằng thơ, Nguyễn Văn
Long cũng thấy cái đẹp của thiên nhiên, tạo vật được Huy Cận đặt trong tương quan, hòa
nhập với cuộc sống của con người [115; 141]. Nhưng quan trọng hơn, các tác giả đều thấy
cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược đã trở thành chủ đề nổi bật trong hai tập thơ thời
chống Mỹ nói trên. Hướng thơ về phía chính luận, suy tưởng [49; 127], tạo cho thơ cách
nghĩ mang tầm dân tộc và thời đại [128; 122] cũng là một cố gắng của Huy Cận, theo các
tác giả. Tuy nhiên, do phong cách có tính chất “lành, thấm” của mình mà Huy Cận “yêu
thương thiết tha nhưng ít diễn đạt căm thù mãnh liệt” [128; 121]. Các nhà nghiên cứu cũng
thấy có lúc “chất liệu chưa hoa thân đầy đủ” [49; 128] trong thơ, cảm xúc hơi đuối [128;
115] và chữ nghĩa còn lập lại đơn điệu [115; 145].

14


Dù cái nhìn nghệ thuật của Huy Cận còn tránh những mặt phức tạp của đời sống,
nhưng ý kiến của các tác giả nói trên đều có điểm chung: từ việc thâm nhập thực tế, Huy
Cận đổi mới hồn thơ, phản ánh được những vấn đề nổi bật của cuộc sống mới. Quan niệm
của các tác giả chủ yếu được nhìn theo hướng ủng hộ sự phát triển của hồn thơ Huy Cận.
Thực ra, Huy Cận có gần mười năm tính từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có tình
trạng không đồng hành giữa con người công dân, cán bộ và con người thi sĩ. Sự chuyển biến

chậm chạp này chưa được các tác giả đi sâu phân tích.
Chế Lan Viên xem sự chuyển biến về lập trường - tư tưởng của Tế Hanh. là lẽ dĩ nhiên
trong mười lăm năm tính từ sau 1945. Trong thời gian này, Chế Lan Viên nhận thấy Tế
Hanh có sự chuyển biến từ cảm xúc đến đề tài, chủ đề, cách diễn đạt. Theo Chế Lan Viên,
từ đầu cách mạng, Tế Hanh đã là “nhà thơ hiện thực” và ông đã từ việc chuyên viết về
mình, nay chuyển sang viết về người, về “nhân vật ngoài mình”. Qua tập thơ Tiếng sóng, Tế
Hanh có một sự chuyển biến mới trong cách nhìn hiện thực [221; 76].
Nghiên cứu một số tác phẩm xuất hiện trong mười lăm năm ấy, các tác giả Thiếu Mai,
Mã Giang Lân, Hà Minh Đức đều ghi nhận Tế Hanh giàu có về tâm hồn hơn, biết yêu cả
những điều mà trước kia tưởng như không có quan hệ với mình và mỗi ngày, thơ Tế Hanh
đã lớn lên thêm, cao thêm một chút [106; 115]. Hà Minh Đức, Mã Giang Lân cho rằng Tế
Hanh có ý thức xoa bỏ những khoảng cách giữa nhà thơ và cuộc đời [50; 227], tự giác hoa
nhập vào cách mạng. Hà Minh Đức, Ngô Quân Miện thống nhất xém phần thơ ca của Tế
Hanh từ sau Cách mạng tháng Tám mới là phần thơ có nhiều hương vị và nổi trội nhất [50;
247], [130; 250]. Với các trang viết chu đáo, tinh tế về nhiều bài thơ của Tế Hanh, nhà
nghiên cứu Lê Đình Kỵ cho rằng cái nhìn nghệ thuật của Tế Hanh chỉ có thể là của nhà thơ,
nhà văn dưới chế độ chúng ta [94; 304]. Bên nhiều cái đáng yêu thích của tập thơ Tiếng
Sóng, Lê Đình Kỵ còn nói đến cái dễ dãi, “cái cảm tưởng bằng phẳng” trong một số bài thơ
của Tế Hanh.
Khi xem xét Khúc ca mới, Đi suốt bài ca, Lê Tố, Nguyễn Xuân Nam, Thiếu Mai đều
ghi nhận tính kịp thời của thơ Tế Hanh đối với những vấn đề thời sự - chính trị. Theo Vũ
Quần Phương, ngoài những đề tài đã có, trong tập Theo nhịp tháng ngày, Tế Hanh đã “bám
sát những đề tài của Miền Nam” [155; 379]. Vũ Quần Phương cũng thấy Tế Hanh không né

15


tránh việc đả kích kẻ thù, nhưng ông “ca thì tâm tình” còn “rủa không độc níiệng” [155;
375].
Đọc những ý kiến trên, thấy các tác giả đều thống nhất nhận xét Tế Hanh là nhà thơ có

sự chuyển biến rõ rệt trong tình cảm, nhận thức và đã sáng tác được một số thơ ca. Cuộc đấu
tranh với con người cũ của mình cũng như quá trình “mò mẫm” trong sự sáng tạo của Tế
Hanh là điều chưa được các tác giả quan tâm một cách cụ thể.
Năm 1961, khi nghiên cứu Ánh sáng và phù sa, Lê Đình Kỵ và Xuân Diệu đều cho
rằng thơ Chế Lan Viên đã “hồi sinh” bằng nhiều bài thơ cảm động về cuộc sống và con
người [90; 113], đã đến được những vấn đề lớn của cuộc vui chung [27; 306]. Các tác giả
thấy rõ Chế Lan Viên biến chuyển từ việc viết về “Chiêm nương, bóng tháp” đến viết về
lãnh tụ, về Đảng [90; 313], biết “tự vượt mình để nghĩ đến mọi người” [27; 307]. Xuân Diệu
nhận ra cách mạng và kháng chiến đã đưa Chế Lan Viên về với cái suy nghĩ và ăn nói bình
thường của đông đảo con người [27; 304]. Lê Đình Kỵ lại phát hiện Chế Lan Viên xưng
“ta” khi nói về cuộc sống mới, nhưng vẫn hiện rõ cái “tôi” của nhà thơ [90; 314]. Điều này
chứng tỏ cái tôi cá nhân của nhà thơ vẫn tồn tại và được tôn trọng.
Năm 1968, trong bài viết Những biển cồn hãy đem đến trong thơ, Lê Đình Kỵ xem tập
thơ Hoa ngày thường, Chim báo bão của Chế Lan Viên đã chuyển mạnh sang phong cách
chính luận [91; 331]. Chế Lan Viên làm một cuộc chuyển quân, tiến sát tới những tuyến đầu
của cuộc chiến đấu của dân tộc và cửa thời đại [91; 334]. Cảm hứng anh hùng, cảm hứng
dân tộc, cảm hứng thời đại đã nâng thơ Chế Lan Viên lên rất nhiều [91; 339]. Qua tập thơ,
Lê Đình Kỵ thấy phần tự biểu hiện bị đẩy lùi ra sau và phẫn hiện thực đấu tranh của nhân
dân để lên hàng đầu, trở thành cảm nghĩ và thể hiện [91; 341-342]. Theo Lê Đình Kỵ, đó
cũng là bước phái triển quan trọng của thợ Chế Lan Viên theo hướng hiện thực chủ nghĩa
[91; 342]. Tuy nhiên, Lê Đình Kỵ cũng nói Chế Lan Viên chưa có nhiều xót xa, “xế ruột xé
lòng” [91; 344] trong những vần thơ chống Mỹ.
Năm 1970, Nguyễn Văn Hạnh nghiên cứu đặc điểm thơ ca của Chế Lan Viên và cho
rằng: tuy Chế Lan viên chuyển biến chậm, vất vả nhưng khi chuyển được thì “sâu và thấm
thía” [63; 70]. Nhà nghiên cứu cũng thừa nhận Chế Lan Viên là người băn khoăn nhiều
nhất, nói da diết nhất về mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa hạnh phúc và đau khổ [63;
74]. Theo Nguyễn Văn Hạnh, Tổ quốc là điểm tựa lớn cho các cảm xúc của Ghế Lan Viên.
16



Từ tình yêu Tổ quốc mà nhà thơ nghĩ đến nhiều vấn đề, nhiều phương hướng của dân tộc,
thời đại và phân tích sâu sắc về chúng [63; 71]. Cũng năm này Nguyễn Lộc thấy tập thơ
Hoa ngày thường, Chim báo bão đã bớt đi việc gắn liền với cái riêng (như ở Ánh sáng và
phù sa) mà đã chuyển biến theo hướng hòa nhập vào cái chung [116; 66].
Hà Minh Đức nhận thấy trong Ánh sáng và phù sa, cách mạng đã đưa Chế Lan Viên
về với thực tế, sáng tác dưới ánh sáng của Đảng, lòng tin của quần chúng [48; 321]. Tình
yêu Tổ quốc là một cảm xúc mạnh mẽ trong thơ Chế Lan Viên. Theo Hà Mình Đức, tuy thơ
Chế Lan Viên có khi chưa bắt sâu vào “mạch tâm linh” của quần chúng, nhưng luôn cố
gắng hòa nhập cái tôi riêng vào cái ta chung của nhân dân, hướng về các vấn đề hiện tại của
đất nước [48; 323]. Hà Minh Đức quan niệm quá trình chuyển biến của Chế Lan Viên cũng
như các nhà thơ cùng thời là một hiện tượng tốt đẹp, rất có ý nghĩa trong văn học chúng ta
từ sau Cách mạng tháng Tám [48; 323].
Năm 1974, Vũ Tuấn Anh xem Hoa ngày thường, Chim báo bão là một bước phát triển
của Chế Lan Viên. Đó là chất thời sự, chính trị nổi bật đã thay thế cho sắc thái trữ tình trước
đó [3; 81]. Theo Vũ Tuấn Anh, do Chế Lan Viên “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” nên
thơ ông có bề rộng và chiều sâu [3; 84]. Gần gũi với các ý kiến nói trên, Vũ Tuấn Anh xem
niềm tự hào về Tổ quốc, dân tộc là cảm hứng chủ đạo trong thơ Chế Lan Viên [3; 85]. Cũng
như Vũ Tuấn Anh và Phong Lan, trước đó (1973) Nguyễn Xuân Nam ghi nhận Những bài
thơ đánh giặc của Chế Lan Viên tập trung cao độ vào dã tâm của giặc Mỹ và tập thơ cũng
phản ánh những gian khổ, anh hùng của nhân dân ta [133; 358]. Chủ đề chống Mỹ, theo Vũ
Tuấn Anh đã được nhà thơ đào sâu thêm, nhận thức và phản ánh khái quát hơn qua hai tập:
Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới [3; 88]. Còn Hoàng Lan nói thêm: sự nghiệp đánh
giặc ấy đã đi từ sức mạnh truyền thống [98; 347]. Thơ Chế Lan Viên cũng đã vượt biên giới
tổ quốc để đến với quốc tế [98; 348]. Theo Hoàng Lan, vẻ đẹp trong, hình tượng thơ Chế
Lan Viên là vẻ đẹp của một chủ thể trữ tình có hoạt động trí tuệ đầy năng động và sắc bén
[98; 354].
Những ý kiến về thơ Chế Lan Viên trên đây rất phong phú. Các nhà nghiên cứu đều
ghi nhận Chế Lan Viên đã làm một cuộc chuyển biến trong thơ ca khá kịp thời đối với các
vấn đề thời sự của sự nghiệp cách mạng. Sự vận động của thơ Chế Lan Viên, theo các tác
giả đã đi từ cái riêng đến cái chung và dù có khi day dứt, xót xa trong việc đấu tranh với

17


“cái cũ” cũng như có khi tình cảm chưa theo kịp với lý trí, nhưng những thành tựu Chế Lan
Viên đạt được rất đáng ghi nhận. Dù vậy, xem xét sự chuyển biến của Chế Lan Viên trong
sự so sánh với thời viết Điêu tàn vẫn còn là một khoảng trống trong các bài nghiên cứu của
các tác giả.
Phần ý kiến của các nhà nghiên cứu trong giai đoạn 1954 - 1975 trên đây cho thấy mấy
điểm chung nhất về sự chuyển biến của các nhà thơ mới như sau:
- Thứ nhất:
Do quá trình chuyển biến của các nhà thơ mới từ sau 1945 có tình trạng không giống
nhau, nên các tác giả không nghiên cứu đối với-tất cả-họ, mà chỉ nghiên cứu đối với một số
nhà thơ mới có sự chuyển biến rõ rệt, kiên trì, trong đó Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Chế
Lan Viên được tập trung nhiều hơn.
- Thứ hai:
Tuy là những bài viết riêng biệt và theo cách cảm thụ, đánh giá của từng tác giả,
nhưng nhìn chung, các tác giả đều thống nhất cho rằng các nhà thơ mới đi theo cách mạng
đã có một sự chuyển biến ngày càng tích cực, luôn có ý thức gắn bó với nhân dân, cách
mạng và không ngừng đem thơ ca mình phản ánh, biểu hiện về cuộc sống cách mạng của họ
qua các thời kỳ lịch sử. Ca ngợi cách mạng, thể hiện tình yêu Tổ quốc, nhân dân, thơ ca của
các tác giả cũng đã bảo vệ những giá trị ấy bằng những tiếng thơ đả kích, vạch mặt tội ác
của các loại kẻ thù.
- Thứ ba:
Dường như các tác giả đều xem sự chuyển biến về lập trường - tư tưởng để đi theo
Cách mạng và tiếp tục sáng tác thơ ca là lẽ đương nhiên của các nhà thơ mới đi theo
cách.mạng. Điều này đúng như Chế Lan Viên nói, vì nếu các nhà thơ mới không có chuyển
biến gì, vẫn “cứ nằm ỳ” như trước 1945 thì không lấy gì để bàn luận [221; 65]. Do vậy, hầu
hết các nhà nghiên cứu chủ yếu bàn về quá trình phát triển nội dung và hình thức thơ ca của
các nhà thơ cụ thể, chứ chưa xem Sự chuyển biến như một đối tượng để nghiên cứu.
- Thứ tư:

18


Cũng do cái nhìn thuận chiều, xem trọng sự phát triển của các tâm hồn thơ thông qua
các thành tựu từ sau 1945, nên việc xem xét đối với những gì tạm gọi là được - mất, ở các
nhà thơ mới chưa được các nhà nghiên cứu chú ý một cách chi tiết.
3.3. Giai đọan từ năm 1975 đến nay:
Đất nước được thống nhất, vấn đề sự chuyển biến của các nhà thơ mới vẫn được nhiều
nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm. Sau thời kỳ đổi mới, vấn đề cũng được nói đến một cách
thỏa đáng hơn. Điều này,nhờ ở sự trưởng thành của tư duy khoa học, của quan điểm,
phương pháp và cả sự công bằng trong việc nhìn nhận lại “vốn cũ” để xét trong tương quan
với “cái mới”. Nhiều nhà thơ mới được đánh giá đúng đắn trong bối cảnh lịch sử cụ thể của
Phong trào thơ mới và những vấn đề về sự thành công hay chưa thành công của các nhà thơ
mới trong hệ thống thi pháp thơ ca cách mạng được nghiên cứu khoa học hơn. Từ đó, việc
sáng tác của các nhà thơ mới trước và sau cách mạng đã được xem là một quá trình và sự
chuyển biến của nhiều nhà thơ mới là bước phát triển có tính tất yếu.
Năm 1979, khảo luận “Ba mươi năm phát triển của thơ ca cách mạng”, Hà Minh Đức
ghi nhận các nhà thơ mới như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Văn
Cừ, nhất là Xuân Diệu, đã kịp thời có thơ ca ngợi, chào đón Cách mạng tháng Tám [41; 81].
Quan sát quá trình hòa nhập của các nhà thơ mới vào đời sống cách mạng, Hà Minh Đức
thấy cuộc đâu tranh với các con người cũ, tâm tình cũ của các nhà thơ cũng khá đằng co,
phức tạp. Theo nhà nghiên cứu, cuộc đấu tranh tự thân đó còn kéo dài đến những năm đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc [41; 136]. Chế Lan Viên được Hà Minh Đức xem là
nhà thơ thể hiện sâu sắc nhất cuộc hành trình “từ chân trời một người đến chân trời tất cả”
[41; 136]. Đến khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thì các nhà thơ
mới hòa nhập được vào cuộc đời chung rộng lớn [41; 175] và thơ ca của họ “đã vượt lên
hơn những trang viết thuộc giai đoạn trước cách mạng” [41; 177]. Cuộc đấu tranh nội tâm
ấy có thể xem là quá trình chuyển biến về mặt nhận thức - tư tưởng. Gòn xét quá trình
chuyển biến về mặt sáng tác, Hà Minh Đức nhận ra ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các nhà
thơ mới tiêu biểu đều có những sáng tác thơ ca phản ánh và biểu hiện đối với cuộc sống.

Hà Minh Đức nhận thấy trong những năm kháng chiến và kiến quốc các nhà thơ mới
như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh “đều tự đổi khác đi nhiều trong cách
biểu hiện”, đã tìm đến những điều cụ thể của cuộc đời “để tạo cảm hứng, chọn lọc những
19


cảm xúc và tâm trạng gần gũi phổ biến với những hình thức thể hiện giản di, quần chúng”.
Đó là hướng phấn đấu của các tác giả [41; 111].
Hà Minh Đức nhận ra sự thay đổi của Chế Lan Viên về phong cách thơ trong những
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là kết hợp chất trữ tình với những suy nghĩ lắng sâu; còn
“Huy Cận thành công với nhiều bài thơ về mỏ và vùng biển Hạ Long, với đời sống nông
thôn trong nhịp sống mới đi lên chủ nghĩa xã hội”; Tế Hanh “sáng tạo được nhiều bài thơ có
giá tri trên đề tài đấu tranh thống nhất đất nước” [41; 121]. Trong khi đó, Xuân Diệu mở
rộng diện phản ánh của thơ với nhiều đề tài và chất liệu mới qua thơ viết về Miền Nam và
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa [41; 122].
Theo Hà Minh Đức, đến thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Chế Lan Viên đặc biệt khởi sắc
với những “câu thơ đanh, gọn, cháy bỏng căm thù” đối với đế quốc Mỹ. Thơ ông đi về phía
trí tuệ, suy tưởng để tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng [41; 162]. Hà Minh
Đức cho rằng “yếu tố chính luận và suy luận sắc sảo hòa lẫn với những hình ảnh chọn lọc và
mạch cảm xúc làm cho hình tượng thơ luôn biến hóa nhiều màu sắc” [41; 163]. Xuân Diệu
vẫn năng động sáng tạo, cảm xúc thơ chân thực, thiết tha, khi viết về cảm xúc và nhân dân
anh hùng. Theo Hà Minh Đức, thơ Xuân Diệu mở rộng về nhiều phía, nhưng chưa chú ý
đến sự chọn lọc tinh tế.[41; 163]. Còn thơ Tế Hanh thời kỳ này chuyển nhanh từ nơi nhớ
quê Nam sang dòng thơ đấu tranh [41; 163].
Do quan niệm xem sự đóng góp của các nhà thơ mới vào nền thơ ca cách mạng là căn
bản, nên ý kiến của Hà Minh Đức chưa có dịp đi sâu vào những hạn chế cụ thể của quá trình
chuyển biến của các nhà thơ mới , nhất là về phương diện hình thức thể hiện. Cũng trong ý
kiến của Hà Minh Đức, các nhà thơ mới như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh
được xem là những nhà thơ có sự chuyển biến liên tục qua các thời kỳ lịch sử và do vậy sự
chuyển biến của họ có ý nghĩa tiêu biểu cho nhiều nhà thơ mới khác cùng đi theo cách

mạng.
Năm 1985 - 1986, trong phần viết: “Cuộc tái sinh màu nhiệm và lớp văn nghệ sĩ
kháng chiến”, Hoàng Như Mai xác nhận nhà thơ mới lãng mạn Xuân Diệu là cây bút sôi
nổi, phong phú nhất, đã tìm cảm hứng trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử dân tộc và
phong trào cách mạng qua hai bài thơ dài: Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông. Hoàng Như
Mai đánh giá việc Xuân diệu từ bỏ nguồn cảm hứng cá nhân như trước kia để đi đến những
20


vấn đề lớn của đất nước như vậy thật đáng quý [123; 21]. Ngay từ đầu cách mạng, Xuân
Diệu đã nhận thức được nguồn thơ chân chính chỉ có thể là cuộc sống của nhân loại, của
dân tộc và những người đọc thơ chân chính là nhân dân lao động [123; 23]. Ý kiến của
Hoàng Như Mai cho thấy Xuân Diệu có chuyển biến cả ở nhận thức - tư tưởng và thơ ca
ngay trong năm đầu Cách mạng tháng Tám.
Đến 1998, các nhà nghiên cứu: Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Trác - Trần Hữu Tá,
đều thống nhất xem các nhà thơ mới lãng mạn tiêu biểu đã trở về với cách mạng. [147; 44]
Trong công trình: Văn học Việt Nam (1945 - 1954), Mã Giang Lân xem các nhà thơ mới
giữ vai trò nòng cốt trong sáng [147; 29]. Các tác giả cùng nhận xét rằng cách mạng đã làm
thay đổi cả nhận thức và tình cảm của các nhà thơ mới [147; 31], làm họ náo nức chào cách
mạng, mừng sự ra đời của chế độ xã hội mới bằng những vần thơ giàu không khí đấu tranh
và tự hào dân tộc [147; 44]. Xuân Diệu là nhà thơ được các tác giả đánh giá cao về nhận
thức đối với cách mạng cũng như tác dụng thơ ca của ông đối với tinh thẩn thời đại lúc bấy
giờ [147; 45].
Gần đây, năm 2001, khi bàn “Về cách tiếp cận để đánh giá Văn học Việt Nam sau
cách mạng tháng Tám”, trong công trình: Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nguyễn
Văn Long đã xem những nhà thơ mới như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh,
Anh Thơ và nhiều người khác đã có những thành công lớn, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của thơ ca hiện đại, nhất là từ sau 1954 (sách trên, Nxb Giáo dục, trang 12).
Nét chung trong ý kiến của Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn trác, Trần
hữu Tá, Mã Giang Lân, Nguyễn Văn Long là đều xem các nhà thơ mới lãng mạn tiêu biểu

đều đi theo Cách mạng tháng Tám, ủng hộ chế độ xã hội mới bằng những vần thơ mang ý
nghĩa thời sự, trong đó, Xuân Diệu là trường hợp tiêu biểu. Do khuôn khổ của giáo trình
lịch sử văn học nên sự chuyển biến cụ thể của các nhà thơ mới chưa trở thành đối tượng cần
chuyên chú khám phá của các tác giả.
Nhận xét chung:
Tình hình nghiên cứu sự chuyển biến của một số tác giả thơ mới trong thơ ca cách
mạng như nêu trên là phong phú. Tuy nhiên, việc xem sự chuyển biến là đối tượng khoa học
trực tiếp để khảo sát hầu như chưa có công trình nào chú ý đúng mức. Nhìn chung các nhà
21


nghiên cứu đều xem sự chuyển biến là một quá trình tất yếu và chủ yếu ghi nhận thành tựu
sáng tác của họ từ sau 1945, chứ chưa đi thật sâu vào những hạn chế về nội dung lẫn hình
thức thể hiện trong thơ ca của họ. Cũng có một vài tác giả xem sự chuyển biến về tư tưởng,
chính tri quan trọng hơn sự chuyển biến về sáng tạo nghệ thuật. Các nhà nghiên cứu ở Miền
Nam chú ý đến những nhà thơ mới có sự chuyển biến không lâu đài, trong khi đó, các nhà
nghiên cứu ở Miền Bắc có ý thức tập trung nghiên cứu sự chuyển biến có tính chất lâu dài,
kiên trì của một số nhà thơ mới như Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Huy Cận. Nhìn sự
chuyển biến của các nhà thơ mới theo hướng ngày càng thuận thành cùng với nền thơ ca
cách mạng, các nhà nghiên cứu có phần xem nhẹ giá trị thơ mới trong tương quan với thơ
cách mạng. Do vậy, sự khảo sát, so sánh cụ thể ở các bình diện nội dung, hình thức cũng
chưa được các tác giả luận bàn sâu sắc. Các bài viết ít nhiều thấy được sự so le giữa nhận
thức, tư tưởng với sáng tác, giữa người công dân với người thi sĩ ở các nhà thơ mới, nhưng
ý kiến của các tác giả chưa đào sâu hơn vấn đề phức tạp này. Sự chuyển biến của các nhà
thơ mới vốn không ai giống ai, có người thuận lợi, thành công, có người khó khăn vất vả, có
người kiên trì đến cùng, lại có người chỉ thể nghiệm hoặc chuyển hướng hoạt động sang lĩnh
vực khác. Cái được và mất của họ trong quá trình chuyển biến ấy cũng chưa được các nhà
nghiên cứu làm sáng rõ. Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với những nhà thơ được
nhắc đến ở trên là hợp lý, nhưng việc tiếp tục đi sâu hơn, chi tiết hơn vẫn cần thiết. Luận án
không có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề, nhưng bằng một hệ thống riêng, luận án sẽ

cố gắng, đi sâu thêm vào quá trình chuyển biến ấy ở một số phương diện như đã giới thiệu
trong phần đối tượng nghiên cứu của luận án, từ đó góp phần rút ra những kết luận khái quát
có tính lý luận và thực tiễn của sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ mới trong thơ ca cách
mạng.

4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Quan điểm và hướng tiếp cận:
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét quá trình
chuyển biến của các tác giả.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:

22


- Phương pháp lịch sử: Nhìn nhận sự chuyển biến của các nhà thơ mới trong quá trình
phát triển cách mạng và văn học của dân tộc từ sau 1945.
- Phương pháp so sánh: Nhằm làm nổi bật những đặc trưng có tính khu biệt trong sáng
tác của các nhà thơ mới khi chuyển từ phạm trù Thơ mới sang phạm trù thơ ca cách mạng.
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng những phương pháp và thao tác khác như khảo sát,
thống kê.

5. Đóng góp của luận án:
5.1. Luận án là công trình nghiên cứu chuyên biệt đầu tiên tương đối có hệ thống về
quá trình chuyển biến của các nhà thơ mới trong thơ ca cách mạng.
5.2. Luận án góp phần tìm hiểu thực tiễn sáng tác của các nhà thơ mới trước và sau
cách mạng trên bình diện nội dung và thi pháp thể hiện.
5.3. Từ quá trình chuyển biến của một số nhà thơ mới được chọn nghiên cứu, luận án
khái quát nên những luận điểm có tính lý luận về mối quan hệ giữa tư tưởng nhận thức và
sáng tạo nghệ thuật, giữa quan niệm và thực tiễn sáng tác.
5.4. Luận án có những đóng góp mới trên một vài bình diện nghiên cứu lâu nay ít được

chú ý như vấn đề đổi mới hình ảnh thơ, nhịp điệu thơ, kiểu câu thơ ... của các nhà thơ mới
trong nền thơ ca cách mạng.

6. Cấu trúc của luận án:
Ngoài phần Mở đầu (24 trang), phần Kết luận (6 trang) và với 230 danh mục Tư liệu
tham khảo, nội dung của luận án được tổ chức thành 3 chương:
Chương 1: Sự chuyển biến về quan niệm sáng tác (23 trang)
Chương 2: Sự chuyển biến về cảm hứng sáng tác (46 trang)
Chương 3: Sự chuyển biến về giọng điệu và một số hình thức nghệ thuật (65 trang)

23


×