Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

phong trào duy tân ở nam kỳ những năm đầu thế kỷ xx (1905 1930)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 213 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hà

PHONG TRÀO DUY TÂN Ở NAM KỲ NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX (1905-1930)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hà

PHONG TRÀO DUY TÂN Ở NAM KỲ NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX (1905-1930)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ THU NGA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014



LỜI CAM ĐOAN

Đề tài Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ XX (1905-1930)
là công trình nghiên cứu và biên soạn của riêng tôi trong thời gian theo học lớp Cao
học khóa 23, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung đề tài trước Hội đồng bảo vệ luận văn.

Tác giả

Nguyễn Thị Hà


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Khoa Lịch sử và Phòng Sau Đại học Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình
học tập tại trường.
Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm Thị Thu Nga, người
đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài. Và TS. Lê
Huỳnh Hoa, Cô đã luôn động viên và nhắc nhở, giúp đỡ em trong quá trình học tập
cũng như làm luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô cũng như các anh, chị làm việc tại thư
viện trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh, Thư viện Tổng Hợp, Thư viện KHXH, đã giúp
đỡ em trong quá trình tìm tài liệu thực hiện luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và các chị - các bạn học viên cao
học lớp Lịch sử Việt Nam, Khóa 23 – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh đã luôn động viên và khích lệ tôi trong học tập cũng như làm luận văn này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Bảng danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG TRÀO
DUY TÂN Ở NAM KỲ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX (1905 1930). ......................................................................................................... 11

1.1. Điều kiện tác động đến sự ra đời của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ
những năm đầu thế kỉ XX (1905-1930). ....................................................... 11
1.1.1. Tình hình thế giới và trong nước. ......................................................... 11
1.1.2. Tình hình Nam Kỳ. ............................................................................... 20
1.2. Sự ra đời của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ
XX. ................................................................................................................ 28
1.2.1. Những tiền đề cho sự ra đời của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ. ....... 28
1.2.2. Sự ra đời của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ. ..................................... 38
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 43
Chương 2. PHONG TRÀO DUY TÂN Ở NAM KỲ NHỮNG NĂM ĐẦU
THẾ KỈ XX (1905 - 1930) ....................................................................... 45

2.1. Khuynh hướng Duy Tân ở Việt Nam và Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ
XX (1905-1930). ........................................................................................... 45
2.1.1. Về chính trị. ........................................................................................... 45
2.1.2. Về kinh tế. ............................................................................................. 48
2.1.3. Về văn hóa – xã hội............................................................................... 51
2.1.4. Về giáo dục. .......................................................................................... 53
2.2. Hoạt động của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ (1905-1930). ..................... 56

2.2.1. Hoạt động trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. ........................................ 56


2.2.2. Hoạt động trên lĩnh vực kinh tế. ........................................................... 70
2.2.3. Hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội. ................................................. 84
2.2.4. Hoạt động trên lĩnh vực giáo dục. ........................................................... 102
Tiểu kết chương 2. ....................................................................................................... 109
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM, TÁC ĐỘNG VÀ BÀI HỌC CỦA PHONG TRÀO
DUY TÂN Ở NAM KỲ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX (19051930) ........................................................................................................ 111

3.1. Đặc điểm của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ........................................... 111
3.1.1. Sự kết hợp chặt chẽ giữa trí thức Nho học với trí thức Tây học......... 111
3.1.2. Báo chí công khai cổ vũ lòng yêu nước. ............................................. 112
3.1.3. Từ Đông Du đến Tây Du. ................................................................... 113
3.1.4. Minh Tân - Duy Tân: con đường đổi mới, con đường cách mạng. .... 115
3.2. Tác động của phong trào đối với Nam Kỳ. ................................................ 116
3.2.1. Tác động đối với lĩnh vực chính trị -xã hội. ....................................... 116
3.2.2. Chuyển biến kinh tế. ........................................................................... 118
3.2.3. Tác động đối với lĩnh vực văn hóa...................................................... 119
3.2.4. Tác động đối với lĩnh vực giáo dục. ................................................... 120
3.3. Bài học rút ra từ phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ. ..................................... 121
3.3.1. Nhìn nhận rõ bản chất của đế quốc thực dân. ..................................... 121
3.3.2. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cần chú ý tới lực
lượng cơ bản đông đảo, quan trọng nhất là nông dân. ........................ 122
3.3.3. Gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. ............................... 123
3.3.4. Bài học về sự đổi mới tư duy .............................................................. 124
3.3.5. Bài học: lý thuyết phải đi đôi với thực hành. ...................................... 125
3.3.6. Bài học “khai dân trí, chấn dân khí”. .................................................. 126
3.3.7. Bài học về việc khai thác tiềm năng về vật và lực của Nam Kỳ. ....... 127
Tiểu kết chương 3. ....................................................................................................... 128

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 135

PHỤ LỤC


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NCMĐ : Nông Cổ Mín Đàm
LTTV : Lục Tỉnh Tân Văn
PTDT : Phong trào Duy Tân
PTĐD : Phong trào Đông Du
PTMT : Phong trào Minh Tân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tương quan ruộng đất và dân số ở Nam Kỳ từ 1900-1914 ................ 21
Bảng 1.2. Diện tích trồng lúa tại Nam Kỳ (1872-1908) ..................................... 22
Bảng 1.3. Xuất khẩu gạo qua cảng Sài Gòn 1870-1915 ..................................... 23


1

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Cuối thế kỉ XIX, các nước tư bản đế quốc phương Tây tiến hành xâm lược các
nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước lạc hậu ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ
Latinh. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam cũng phải đương đầu với sự xâm lược, với sức
mạnh thực dân và trong cuộc chiến không cân sức này với sự bạc nhược của triều đình

phong kiến, Việt Nam đã trở thành xứ thuộc địa Pháp. Sự thất bại này không chỉ là thất
bại về kinh tế, quân sự mà còn ánh dấu sự thất bại của ý thức hệ của người Việt Nam
trong điều kiện lịch sử mới. Ý thức hệ phong kiến đã hoàn toàn bất lực trong việc giải
quyết những nhiệm vụ của lịch sử dân tộc. Ý thức hệ dân chủ tư sản phương Tây bắt
đầu du nhập vào Việt Nam nhưng chưa hội đủ lượng và chất để có thể giải quyết
những vấn đề lý luận và thực tiễn của tình hình Việt Nam lúc đó. Nhưng với truyền
thống yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất, người Việt Nam đã không
ngừng tìm cơ hội để chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập, chấn
hưng đất nước. Những nho sĩ tiến bộ của Việt Nam đã tiếp thu, đổi mới tư tưởng và xã
hội. Họ đã đứng lên phát động, lãnh đạo một phong trào yêu nước theo khuynh hướng
mới được gọi là PTDT, mở ra một thời kì mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân ta. Phong trào đã tạo ra những chuyển biến về tư tưởng chính trị,
phương pháp đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc, cho nên từ rất lâu PTDT
đã trở thành đối tượng nghiên cứu lịch sử.
PTDT nổ ra ở Trung Kỳ, sau đó lan ra Bắc Kỳ và Nam Kỳ. PTDT ở mỗi miền
mang những đặc điểm riêng vì vậy đã có nhiều quan điểm, nhận định khác nhau khi
đánh giá về phong trào. Nhưng khi nói tới PTDT thì thường các học giả, nhà nghiên
cứu chỉ nói tới PTDT ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ còn ở Nam Kỳ lại chưa được quan tâm
đúng mức, nếu có đề cập đến thì cũng rất sơ sài hoặc không có trong những công trình
nghiên cứu về PTDT: “Việc Duy Tân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, sự hoạt động của ông
Phan Bội Châu đã được nói đến nhiều. Riêng PTDT ở Nam Kỳ Lục tỉnh mãi đến nay
dường như không đặt đúng mức quan trọng”[58, tr.173]. Mặc dù, PTDT ở Nam Kỳ
(còn gọi là PTMT) hoạt động rất sôi nổi và có những đóng góp hết sức to lớn cho


2
PTDT chung cả nước. Vì vậy việc nghiên cứu về PTDT ở Nam Kỳ những năm đầu thế
kỉ XX, sẽ có những ý nghĩa nhất định.
- Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu, tìm hiểu để biết rõ hoạt động, đặc điểm, tác động của PTDT ở Nam

Kỳ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - giáo dục, chính trị không những giúp người đọc
hiểu sâu sắc, toàn diện hơn về PTDT ở Nam Kỳ mà còn góp phần bổ sung vào sự hiểu
biết toàn diện lịch sử dân tộc, lịch sử vùng đất Nam Kỳ thời kì này.
- Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ là nguồn tài liệu bổ sung cho việc học tập, giảng
dạy, nghiên cứu lịch sử ở các trường phổ thông, cao đẳng, đại học.
Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức tự lực, tự cường của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: PTDT ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ XX .
- Nhiệm vụ của đề tài cần làm sáng tỏ những vấn đề sau:
+ Làm rõ điều kiện tác động đến sự ra đời của PTDT ở Nam Kỳ và hoạt động
của phong trào này; tác động của PTDT đối với Nam Kỳ, với PTDT cả nước.
+ Trên cơ sở nghiên cứu rút ra bài học kinh nghiệm cho công cuộc đổi mới đất
nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian nghiên cứu PTDT là ở Nam Kỳ mà hiện nay bao gồm các tỉnh:
Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí
Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu
Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, và thành phố Cần Thơ.
+ Thời gian: thời gian nghiên cứu chủ yếu của đề tài là từ năm 1905 đến năm
1930, tức sau khi Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội (1904) và phát động phong
trào Đông Du trong cả nước cho đến năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời –
từ đây phong trào giải phóng dân tộc chuyển sang xu hướng vô sản; đây là khoảng thời
gian PTDT ở Nam Kỳ có những hoạt động mạnh mẽ nhất. Bên cạnh đó, đề tài cũng sẽ


3
đề cập tới một số sự kiện diễn ra trước đó để có cái nhìn đầy đủ hơn về sự hình thành
cũng như hoạt động của phong trào.

+ Nội dung: Nghiên cứu những điều kiện tác động đến sự ra đời và hoạt động của
PTDT ở Nam Kỳ. Qua đó rút ra một số đặc điểm cũng như tác động, bài học rút ra từ
phong trào.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Vấn đề nghiên cứu về PTDT thì từ rất lâu đã được các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước quan tâm, nghiên cứu dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, trực tiếp
cũng như gián tiếp với rất nhiều công trình đã được công bố. Nhưng chưa có công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu và đầy đủ về PTDT ở Nam Kỳ những năm đầu
thế kỉ XX.
 Đối với các công trình trình bày chung về tiến trình lịch sử Việt Nam như Lê
Mậu Hãn (chủ biên) (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội; Trương Hữu Quýnh (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập: từ thời nguyên
thủy đến năm 2000, Nxb Giáo Dục, Hà Nội; Huỳnh Công Bá (2008), Lịch sử Việt
Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế… trình bày những nét lớn, khái quát về tiến trình lịch sử
của cả nước, trong đó có đề cập tới PTDT. Nhưng đây là những công trình mang tính
chất đại cương nên các vấn đề, sự kiện, trong đó có PTDT, chỉ được trình bày khái
quát.
 Các công trình nghiên cứu về PTDT:
- Phong trào Duy Tân ở Bắc Kỳ: Đông Kinh Nghĩa Thục của Đào Trinh Nhất;
“Đông Kinh Nghĩa Thục, Phong trào Duy Tân đầu tiên ở Việt Nam” của Nguyễn Hiến
Lê. Hai cuốn sách này đề cập đến tình hình nước ta ở đầu thế kỷ XX và quá trình
thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can lãnh đạo. Đặc biệt là những
chính sách tiến bộ trong giáo dục, mở mang kiến thức, chấn hưng lại nền kinh tế và
phát huy các nền công nghiệp khai mỏ. Phong trào đạt nhiều thành tựu to lớn, nhưng
bị thực dân Pháp đàn áp nên phong trào bị dập tắt.
- “Phong trào Duy Tân” của Nguyễn Văn Xuân (1995), Nxb Lá Bối, Sài Gòn và
Nxb Đà Nẵng in lại năm 1970. Đây là cuốn sách đề cập đến các sĩ phu yêu nước là



4
Nguyễn Lộ Trạch, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, là trong những người tham gia
vào đường lối canh tân ở Viêt Nam. Trình bày khái quát về PTDT ở Việt Nam bắt đầu
từ tiền phong trào, phong trào, hậu phong trào, chú ý nhất là giai đoạn 1905-1908.
Nhưng các tác phẩm này chỉ nói về PTDT ở Bắc - Trung Kỳ còn PTDT ở Nam Kỳ thì
không nhắc tới.
- Sơn Nam,(1971), miền Nam đầu thế kỉ XX - Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân,
Nxb Lá Bối và Sơn Nam (1975), phong trào Duy Tân ở Bắc – Trung - Nam, Nxb
Đông Phố. Cả hai tác phẩm được Nxb Trẻ, Tp HCM tái bản năm 2003. Tác giả đã giới
thiệu những nét cơ bản về phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi cả nước, cung
cấp khá nhiều thông tin có giá trị về diễn biến PTDT ở Việt Nam, đặc biệt là cuộc Duy
Tân ở Nam Kỳ. PTDT ở Nam Kỳ thất bại nhưng đã thể hiện được tinh thần yêu nước
của nhân dân ta và thành quả đáng kể là việc xây dựng ngành sân khấu cải lương, do
những chiến sĩ của PTDT góp công tiền phong. Trong cuốn sách này, tác giả đã trích
dẫn nguyên văn những bài báo đăng trên LTTV– cơ quan ngôn luận của PTDT ở Nam
Kỳ. Đây là những tài liệu quý cho các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về PTDT ở Nam
Kỳ.
- Phương Hữu (1950), Phong trào Đại Đông Du, Nxb Nam Việt; Chương Thâu
(1982), Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỉ XX, Nxb Hà
Nội…có đề cập tới PTĐD và PTDT ở Nam Kỳ nhưng rất sơ sài.
- Năm 2007, nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn và Tạp chí Xưa & Nay đã xuất bản
cuốn sách Phong trào Đông Du ở miền Nam. Tác phẩm bao gồm nhiều bài viết của
các học giả viết về PTĐD ở Nam Kỳ, qua đó đã cung cấp rất nhiều những thông tin
quan trọng về PTMT. Tuy nhiên, trong giới hạn của bài báo cáo tham luận các tác giả
chỉ đề cập đến phong trào ở những cá nhân, địa phương nhất định chứ chưa thể hiện
được hết hoạt động của phong trào.
 Các công trình nghiên cứu về những cá nhân có ảnh hưởng lớn đến PTDT
cũng đã gián tiếp đề cập tới PTDT ở Nam Kỳ:
- Nguyễn Quang Thắng (2006), Phong trào Duy Tân – các khuôn mặt tiêu biểu,
Nxb Văn Hóa Thông Tin. Đây là cuốn sách đề cập đến những gương mặt tiêu biểu cho

PTDT ở Việt Nam và những biểu hiện điển hình của những phong trào đó, về tư tưởng


5

cải cách hay các phong trào cải cách mới. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thắng quan
niệm Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, Đông Du, Duy Tân đều là một phong trào dân
tộc được áp dụng thí điểm ở những nơi có sinh hoạt khác biệt, trường Dục Thanh,
công ty Liên Thành…chỉ là một và có một lãnh tụ là Phan Châu Trinh. Đây là một
cuộc vận động dân chủ đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam mang tính chất
quần chúng mà các chí sĩ gọi là PTDT. Thời gian của phong trào theo tác giả là từ năm
1903 đến năm 1908. Tác giả đã giới thiệu khái quát thân thế và sự nghiệp của các nhà
cải cách duy tân Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX. Tác giả cũng đã viết về các nhân vật
tiêu biểu của PTDT Nam Kỳ như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Khương, Nguyễn
Thị Xuyên, nói rõ tôn chỉ của hội Minh Tân là chấn hưng công, nông thương nghiệp
để cạnh tranh, tẩy chay Tàu và Ấn Độ. Nam Kỳ còn là nơi hội ngộ của hai xu hướng
“tự trị” và “bài Pháp” với hai hoạt động cơ bản là hoạt động kinh tế và báo chí.
- Phan Bội Châu (2001), Phan Bội Châu niên biểu, Nxb Văn nghệ, Thành phố
Hồ Chí Minh. Tác phẩm là tập tự truyện có giá trị lịch sử hết sức quan trọng đối với
việc tìm hiểu về con người, cuộc đời hoạt động cách mạng và tư tưởng của nhà yêu
nước Phan Bội Châu, cũng như đối với việc nghiên cứu lịch sử phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỉ XX nói chung. Từ trước đến nay, tác phẩm đã
được các nhà nghiên cứu sử dụng khá phổ biến và coi nó là một tài liệu gốc rất quý.
Những công trình nghiên cứu về văn thơ, về hoạt động cứu nước, về tư tưởng Phan
Bội Châu, cũng như về giai đoạn lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX đã dựa vào những tư
liệu rất đáng tin cậy của Phan Bội Châu niên biểu.
- Nguyễn Văn Hầu (2002), Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu - một lãnh tụ trọng yếu
trong phong trào Đông Du miền Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả giới
thiệu về tiểu sử của Nguyễn Quang Diêu và các tác phẩm thi ca của ông cùng với đó là
các bài viết liên quan tới các chí sĩ của PTĐD, PTDT ở Nam Kỳ: Trần Chánh Chiếu,

Lý Liễu, Nguyễn Thần Hiến.
- Lý Tùng Hiếu (2003), Lương Văn Can và phong trào Duy tân, Đông Du, Nxb
VH SG. Từ việc giới thiệu nhân vật Lương Văn Can mà PTDT và Đông Du được tái
hiện một cách tổng quát nhưng thông tin về PTDT ở Nam Kỳ rất ít.
- Một số cuốn sách viết về hoạt động của Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường


6
như Nguyễn Thị Minh (2001), Nguyễn An Ninh-“tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb Trẻ,
Tp Hồ Chí Minh; Nguyễn An Tịnh (1996), Nguyễn An Ninh, Nxb Trẻ; Nguyễn Phan
Quang - Phan Văn Hoàng (1995), Luật sư Phan Văn Trường, Nxb thành phố Hồ Chí
Minh…đã cung cấp rất nhiều tư liệu về cuộc đời, tư tưởng, hoạt động của hai nhà trí
thức Tây học hồi đầu thế kỉ XX.
 Một số công trình nghiên cứu về phong trào yêu nước ở Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX: Shiraishi (2000), Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật
Bản và châu Á: tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới (tập 1), Nxb
Chính trị quốc gia; Đinh Xuân Lâm - Chương Thâu (2012), Phong trào yêu nước cách
mạng đầu thế kỉ XX: nhân vật và sự kiện, Nxb Lao động; Đinh Trần Dương (2006), Sự
chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
trong 30 năm đầu thế kỉ XX, Nxb ĐHQG, Hà Nội;…Những cuốn sách này tuy có đề
cập tới PTDT, Đông Du nhưng chủ yếu nói về PTDT, Đông Du ở Bắc - Trung Kỳ còn
Nam Kỳ chỉ đề cập tới rất ít thông qua nhân vật Trần Chánh Chiếu, một vài câu so
sánh, nhận xét hay số người ở Nam Kỳ qua Nhật trong PTĐD.
 Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về mảng tư tưởng Việt Nam
nửa đầu thế kỉ XX, đề cập tới sự chuyển biến tư tưởng của các nho sĩ duy tân,trong đó
có nói tới tư tưởng chủ đạo của PTDT: Trần Thị Hạnh (2012), Quá trình chuyển biến
tư tưởng của nho sĩ Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỉ XX, Nxb Chính trị quốc gia-Sự
thật, Hà Nội; Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh (2007), Quá trình chuyển biến tư tưởng
chính trị Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX qua các nhân vật tiêu biểu, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội…

 Một số cuộc hội thảo khoa học có nội dung liên quan tới đề tài được tổ chức
ở trong và ngoài nước:
- Hội thảo “Nhà nho yêu nước Nguyễn Quang Diêu”, được tổ chức vào năm
2003 tại Đồng Tháp. Tham gia hội thảo có giáo sư Lê Trí Viễn, nhà nghiên cứu Trần
Bạch Đằng, Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Đình Đầu, phó giáo sư Huỳnh Lứa cùng
nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học xã hội, Hội Khoa học Lịch
sử, các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh và An Giang, các môn sinh, đại diện
họ tộc Nguyễn Quang. Với hơn 20 tham luận và những tài liệu, chứng cứ khoa học,


7
xác thực đã góp phần làm sáng tỏ thêm về bối cảnh lịch sử trên vùng đất Sa Đéc - Cao
Lãnh (Đồng Tháp), trong đó có cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Quang Diêu.
- Hội thảo “Phong trào Đông Du ở miền Nam” được tổ chức vào đầu năm 2006
tại Cần Thơ, với sự có mặt của các đại biểu ở các tỉnh Nam Bộ, gia đình của các chí sĩ
tham gia PTĐD…Hội thảo đã tập hợp được rất nhiều những bài tham luận có giá trị về
mặt tư liệu, là cơ sở để giúp cho các nhà nghiên cứu có những nhận định, đánh giá xác
thực về hoạt động của PTĐD ở miền Nam mà trước đây sử sách đề cập rất sơ sài…Hội
thảo đã tập chung làm rõ được hành trạng và tôn vinh các chí sĩ trọng yếu của phong
trào như: Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Quang Diêu, Trương Duy
Toản, Nguyễn Háo Vĩnh…Và tạp chí Xưa & Nay đã tổ chức xuất bản sách Phong trào
Đông Du ở miền Nam, năm 2007. Cuốn sách là tập hợp những bài tham luận tại Hội
thảo, để giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về PTĐD ở miền Nam.
- Hội thảo Quốc tế với chủ đề “Việt Nam thời điểm duy tân (1905-1908)”, được
tổ chức tại thành phố Aixen Provence (cộng hòa Pháp) vào tháng 7 năm 2007, thu hút
nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu nước ngoài xung quanh vấn đề cội nguồn xã hội
của PTDT
Ngoài ra còn có nhiều công trình luận văn, luận án; công trình nghiên cứu được
đăng trên các báo, tạp chí …
- Luận văn Thạc sĩ của Trần Ngọc Sáng (2010), Các xu hướng trong phong trào

yêu nước ở Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX. Đề tài đề cập tới các xu hướng yêu nước ở
Nam Bộ từ đầu thế kỉ XX đến trước khi thành lập Xứ Ủy Nam Kỳ; phong trào yêu
nước ở Nam Bộ sau khi có sự lãnh đạo của Đảng đến cách mạng tháng Tám (19301945); đặc điểm và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa yêu nước ở Nam Bộ. Tác
giả có đề cập tới phong trào yêu nước theo xu hướng tư sản mà cụ thể là PTDT, Đông
Du, trong chương I nhưng dưới góc độ khái quát.
- Luận án Tiến sĩ của Trần Viết Nghĩa (2011), Trí thức Việt nam đối diện với văn
minh phương Tây thời Pháp thuộc. Tác giả đã phân tích những thái độ tiếp nhận văn
minh phương Tây của tầng lớp sĩ phu đầu thế kỉ XX có nhiều mức độ khác nhau.
Trong đó có một bộ phận đã tiếp nhận trên cơ sở duy tân đất nước, đó là một trong
những lí do dẫn đến sự ra đời của PTDT.


8
- Luận văn Thạc sĩ của Mai Thị Hà (2007), Phong trào Duy tân ở Việt Nam trong
những năm đầu thế kỉ XX (1903-1908). Tác giả trình bày một số tiền đề hình thành
PTDT, diễn biến của PTDT ở Việt Nam ở 3 kỳ, từ đó rút ra đặc điểm và vai trò của
PTDT ở Việt Nam. Tác giả kết luận phong trào này diễn ra sôi nổi trên cả nước dưới
sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân, phong trào ở mỗi địa phương có sự liên kết với
nhau, tính chất giống nhau, được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
- Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Dương (2012), Phong trào Duy Tân ở Việt Nam
đầu thế kỉ XX (1903-1908). Tác giả đã trình bày về bối cảnh lịch sử và những tiền đề
của PTDT; tư tưởng Duy Tân và các hoạt động của PTDT; tính chất, đặc điểm, vị trí,
ảnh hưởng của PTDT ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
- Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Ánh (2012), Trí thức Sài Gòn – Gia Định với
phong trào yêu nước và cách mạng từ 1859 đến 1930. Luận văn trình bày về hoạt
động cũng như vai trò của trí thức Sài Gòn – Gia Định trong phong trào yêu nước,
cách mạng giai đoạn 1858-1930, trong đó tác giả cung cấp một số thông tin về hoạt
động của các trí thức (Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường) cùng
với vai trò của các tờ báo (NCMĐ, LTTV, Chuông rè, Nước Nam) trong PTDT ở Nam
Kỳ.

- Gần đây nhất là Luận văn Thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Tư Tường Minh (32014) viết về Phong trào Minh Tân ở Nam Kì đầu thế kỉ XX. Luận văn đã trình bày
khá cụ thể về PTMT: quá trình hình thành và phát triển của phong trào; hoạt động của
phong trào; đặc điểm và vai trò của phong trào đối với cuộc vận động giải phóng dân
tộc đầu thế kỉ XX. Nhưng giới hạn nghiên cứu của luận văn về phong trào chỉ giới hạn
trong khoảng thập niên đầu của thế kỉ XX, trong khi phong trào đã kéo dài cho tới
trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1908, sau hai sự kiện: Chính phủ
Nhật trục xuất du học sinh Việt Nam khỏi Nhật và Trần Chánh Chiếu bị bắt thì PTDT
ở Nam Kỳ đã lắng xuống và đứng trước nguy cơ thất bại. Nhưng cho tới trước khi xuất
hiện Nguyễn An Ninh thì các chí sĩ duy tân vẫn tìm mọi cách hoạt động dẫu rằng
không còn sôi nổi như trước. Và với sự xuất hiện của Nguyễn An Ninh, Phan Văn
Trường cùng với báo Chuông rè, Nước Nam thì hoạt động duy tân lại sôi nổi, thậm chí
còn hoạt động mạnh mẽ hơn, nhất là trong lĩnh vực chính trị. Đảng Cộng sản Việt


9
Nam ra đời (1930), đã đưa phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sang một hướng
khác – cách mạng vô sản.
- Trên một số tạp chí, báo như: Tạp chí Xưa & Nay, Tạp chí Bách Khoa, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, Tạp chí văn học, Báo Sài Gòn Giải Phóng…có đăng những bài viết
về một số nhân vật, cơ sở kinh doanh, PTĐD…của PTDT ở Nam Kỳ qua đó đã cung
cấp một số thông tin về phong trào.
Như vậy, có thể thấy từ rất sớm, những năm đầu thế kỉ XX, cho đến nay PTDT
đầu thế kỉ XX ở nước ta đã được rất nhiều các học giả, nhà nghiên cứu quan tâm mà
bằng chứng là hàng loạt các cuốn sách đã được xuất bản; những bài báo, bài tham luận
được trình bày và công bố trên các báo, tạp chí và các cuộc Hội thảo được tổ chức ở
trong và ngoài nước, trong đó chỉ có Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Tư Tường Minh
trình bày khá cụ thể, rõ ràng về PTDT ở Nam Kỳ nhưng tác giả chỉ khoanh vùng thời
gian nghiên cứu trong thập niên đầu thế kỉ XX trong khi phong trào đã diễn ra cho đến
trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Cho nên cần phải tiếp tục nghiên
cứu về PTDT ở Nam Kỳ để có cái nhìn tổng thể về phong trào.


Nguồn tài liệu.
Nguồn tài liệu được khai thác tại thư viện Tổng Hợp, thư viện Khoa Học Xã
Hội, thư viện trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.
- Các sách nghiên cứu về PTDT.
- Các công trình nghiên cứu của các nhà sử học đăng trên các báo, tạp chí khoa
học, tài liệu trên internet liên quan tới đề tài.
- Các sách nghiên cứu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị…của cùng đất
Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ XX.
Thông qua các nguồn tài liệu này tôi có thể nắm rõ những vấn đề đã, đang và
chưa nghiên cứu từ đó định hướng nghiên cứu đề tài.

Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử giúp hệ thống hóa
tất cả các hoạt động của phong trào và phương pháp logic nhằm thể hiện rõ bản chất và


10
tác động của PTDT ở Nam Kỳ.
- Đồng thời đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp…để
làm rõ vấn đề cần nghiên cứu: hoạt động, đặc điểm, tác động…của PTDT ở Nam Kỳ.
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp liên nghành.

Đóng góp của đề tài.
- Đề tài sẽ phục dựng một cách có hệ thống và tương đối toàn diện PTDT ở Nam
Kỳ những năm đầu thế kỉ XX.
- Đề tài cũng chỉ ra những đặc điểm, tác động của PTDT ở Nam Kỳ trên các lĩnh
vực chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục ở Nam Kỳ. Và qua PTDT ở Nam Kỳ
rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.


Cấu trúc của luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung: gồm ba chương
Chương 1. Bối cảnh lịch sử và những điều kiện tác động tới sự ra đời của phong
trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ XX (1905 - 1930).
Chương 2. Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ những năm đầu thế kỉ XX (1905 1930).
Chương 3. Đặc điểm, tác động và bài học của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ
những năm đầu thế kỉ XX (1905 - 1930).
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


11

Chương 1.BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG
TRÀO DUY TÂN Ở NAM KỲ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX
(1905 -1930).
1.1. Điều kiện tác động đến sự ra đời của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ
những năm đầu thế kỉ XX (1905-1930).
1.1.1. Tình hình thế giới và trong nước.
1.1.1.1. Tình hình thế giới.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Các nước tư
bản trên thế giới đang dần phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Trong các nước này,
mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc, giai cấp công nhân đã chuyển mình
mạnh mẽ hơn một bước trong việc “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản”. Trong khi đó ở
phương Đông mới đang “thức tỉnh”, những tư tưởng cách mạng đã sớm phát sinh ở
các nước phương Tây từ thế kỉ trước thì giờ đây phát triển mạnh và tác động đến các
nước phương Đông thuộc địa, nửa thuộc địa. Tư tưởng đó thể hiện rõ ở cuộc duy tân

của Nhật Bản, Trung Quốc. Và từ cuối thế kỉ XIX, giữa các nước tư bản phương Tây
diễn ra sự cạnh tranh gay gắt trong việc xác lập vị trí kinh tế và vị thế chính trị. Điều
đó làm nảy sinh nhu cầu xâm chiếm thuộc địa để tìm nguồn nhiên liệu và nhân công rẻ
mạt. Mục tiêu xâm lược của các nước đế quốc là những nước có trình độ thấp kém, lạc
hậu như châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La Tinh, trong đó châu Á là mục tiêu chính.
Trước nguy cơ bị chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược, mỗi nước châu Á đã chọn
cho mình những biện pháp và con đường riêng: Philippin chọn con đường học theo
phương Tây với cuộc cách mạng tiêu biểu năm 1868 đã thực hiện cải cách giáo dục và
ban hành những quyền dân chủ. Nhưng cuộc cách mạng đã bị thực dân Tây Ban Nha
thủ tiêu. Thái Lan (Xiêm), từ cuối thế kỉ XVIII đã là đối tượng dòm ngó của thực dân
phương Tây nhất là Anh. Trước tình hình đó vua Thái Lan đã cho áp dụng những tiến
bộ khoa học kĩ thuật để canh tân toàn diện đất nước. Kết quả là Xiêm thoát khỏi số
phận là thuộc địa của các nước phương Tây, trong khi đó Việt Nam đóng cửa, những
dự án canh tân không được thực hiện. Vì vậy, cuộc cải cách ở Xiêm đã minh chứng


12
cho các sĩ phu Việt Nam thấy duy tân có thể tăng tiềm lực đất nước, nó cổ vũ tinh
thần, động viên các sĩ phu Việt Nam phát động PTDT ở nước ta. Ngoài ra còn một số
nước khác nữa như Singapo, Indonesia, Mianma, Trung Quốc, Nhật Bản…Nhưng
nước có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến PTDT ở Việt Nam là Nhật Bản và Trung Quốc.
Phong trào Duy Tân ở Trung Quốc
Trung Quốc, một nước phong kiến, đất rộng, dân đông, tài nguyên phong phú
nhưng cho đến cuối thế kỉ XIX, vẫn là một nước nông nghiệp, tụt hậu xa so với các
nước phương Tây. Vì vậy, khi các nước tư bản phương Tây dòm ngó tới phương Đông
thì Trung Quốc chính là đối tượng chính. Nhưng trước sự dòm ngó và nguy cơ bị xâm
lược bởi chủ nghĩa thực dân phương Tây, chính phủ Mãn Thanh đã không có những
biện pháp cần thiết để tạo nên sức mạnh nội lực giúp đất nước vượt qua sóng gió mà
thay vào đó lại đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác với các nước tư bản phương
Tây dẫn đến việc bị các nước này đua nhau xâu xé và chia nhau phạm vi ảnh hưởng.

Trong quá trình khai thác bóc lột thuộc địa, các nước Âu Mỹ du nhập vào Trung Quốc
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thành phần kinh tế công thương nghiệp ở
Trung Quốc nảy sinh. Sự chuyển biến về kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa trong xã hội
Trung Quốc, tạo điều kiện cho trào lưu dân chủ tư sản nảy nở và phát triển. Từ cuối
thế kỉ XIX, những tư tưởng duy tân đã xuất hiện nhưng các nhà duy tân không dám
kiên quyết phản đối bọn xâm lược cũng không chủ trương lật đổ chế độ thống trị của
nhà Mãn Thanh mà chỉ dừng lại ở mức độ yêu cầu nhà cầm quyền sửa đổi về chính trị,
bỏ chuyên chế, khoa cử, đề xướng hiến pháp….Và chỉ sau hàng loạt các sự kiện: chiến
tranh Trung – Pháp (1885), chiến tranh Trung – Nhật (1894), Trung Quốc kí với Nhật
Hòa ước Mã Quan với những điều khoản nặng nề…thì một bộ phận sĩ phu Trung
Quốc đã thức tỉnh, quyết tâm tìm mọi cách để cứu đất nước; cùng lúc này, những tư
tưởng dân chủ tư sản phương Tây được du nhập vào Trung Quốc đã tác động không
nhỏ đến nhận thức của họ. Và họ đã hướng về phương Tây để tìm đường cứu nguy cho
đất nước, trong đó có Tiết Phúc Thành, Trịnh Quan Ứng, Khang Hữu Vi, Lương Khải
Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục…Họ đã viết sách báo, sáng lập các học đường, học
hội, hiệu sách, nhà xuất bản, ra báo chí…để giới thiệu nền văn minh, văn hóa phương
Tây và tuyên truyền cổ động cho sự nghiệp duy tân cải cách. Trào lưu tư tưởng cải


13
cách đó đã ảnh hưởng tới vua Quang Tự. Vua Quang Tự đã giao trách nhiệm nghiên
cứu thực hiện cuộc “biến pháp” cho Khang Hữu Vi. Tuy nhiên cuộc cải cách bị thất
bại do phái thủ cựu trong triều đình, đứng đầu là Từ Hi Thái hậu phản công kịch liệt.
Vua Quang Tự bị tống vào ngục, bỏ đói cho đến chết; Khang Hữu Vi và Lương Khải
Siêu trốn thoát sang Nhật Bản, còn Đàm Tự Đồng và 5 người nữa bị giết. Mặc dù
PTDT ở Trung Quốc thất bại nhưng đã cho thấy việc canh tân theo văn minh phương
Tây đang trở thành yêu cầu cấp thiết, sống còn đối với các nước phương Đông, kể cả
đối với Trung Quốc. Và những tâm huyết của các sĩ phu Trung Quốc đối với sự nghiệp
duy tân là một sự thôi thúc, một nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với sĩ phu Việt Nam lúc
bấy giờ. Từ cuộc biến pháp Mậu Tuất (1898), tên tuổi của những nhà cải cách nổi

tiếng của Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng,…cùng
với những tác phẩm như Đại Đồng thư, Ẩm Băng Thất văn tập, Tân dân thuyết, các
báo chí của Cường học hội, Thời vụ báo…đã được các sĩ phu yêu nước, tiến bộ của
Việt Nam đón nhận. Những học thuyết mới đó “đã lóe lên trong đầu óc họ, biến thành
những gợi ý hết sức hấp dẫn, để giúp họ giải đáp các vấn đề lịch sử đang đặt ra. Họ đã
đón nhận những lí luận chính trị, tư tưởng triết học mới mẻ ấy như là một thứ vũ khí
mới để sử dụng trong cuộc chiến đấu của mình” [5, tr.49].
Cải cách Duy tân ở Nhật Bản
Trước năm 1868, Nhật Bản là một nước phong kiến, thi hành chính sách bế quan
tỏa cảng, rơi vào tình trạng bế tắc, suy thoái, đứng trước nguy cơ bị các nước thực dân
phương Tây thôn tính đã tiến hành công cuộc duy tân đất nước trên tất cả các lĩnh vực
vào năm 1868 do Thiên hoàng Minh Trị đứng đầu. Công cuộc duy tân được thực hiện
thành công đã giúp nước Nhật thoát khỏi nguy cơ bị thực dân phương Tây xâm lược,
giữ vững quyền độc lập, tự chủ, trở thành một nước tư bản có nền công nghiệp phát
triển…, đặc biệt, Nhật Bản đã đánh thắng Nga (1905), chiến thắng này đã tạo nên một
tiếng vang lớn trên thế giới; lần đầu tiên một nước châu Á da vàng đã thắng một nước
châu Âu da trắng. Có thể nói những thành quả mà Nhật Bản đạt được đã thổi một
luồng sinh khí mới có tác động to lớn làm thức tỉnh nhiều dân tộc ở châu Á.Và tạo nên
một khuynh hướng học Nhật, xem Nhật như một tấm gương, một điểm đến, là niềm tự
hào của chủng tộc da vàng có khả năng chống lại sự xâu xé nô dịch của đế quốc


14
phương Tây. Một xu hướng thân Nhật đã phát triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái
Lan, Miến Điện, Ấn Độ…Xu hướng này ít nhiều có tác động đến tinh thần chống đế
quốc ở các nước thuộc địa và bán thuộc địa ở châu Á.
Như vậy, cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, trước nguy cơ bị chủ nghĩa thực dân
phương Tây xâm lược, mỗi nước có những ứng xử khác nhau: có nước mở cửa giao
lưu học hỏi, quan hệ mềm dẻo với phương Tây (như Nhật Bản); có nước đóng chặt
cửa, mang tính chất đề phòng (như Việt Nam). Nhưng nhìn chung, ở nhiều nước châu

Á đã xuất hiện phong trào giải phóng dân tộc theo trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản
dưới hai hình thức đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc và cải cách đất nước theo mô
hình phát triển của các nước phương Tây. Tuy nhiên trong cuộc cải cách, duy tân đất
nước đó có nước bị thất bại như Trung Quốc, Philippin và cũng có nước thành công
như Nhật Bản, Thái Lan. Tuy nhiên nước có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến PTDT ở Việt
Nam là Nhật Bản và Trung Quốc, bởi hai nước này được coi là những nước đồng văn,
đồng chủng, có nền văn minh gần gũi với Việt Nam. Sự thành công của một số nước
trong khu vực (tiêu biểu là Nhật Bản) khi thực hiện cải cách duy tân đất nước đã giúp
cho các sĩ phu tiến bộ Việt Nam nhận ra rằng: duy tân là một biện pháp cứu nước, cứu
cánh cho dân tộc. Mặc dù thất bại song PTDT ở Trung Quốc là một phương thức, một
con đường để truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản vào sâu trong quần chúng, thức tỉnh
tinh thần yêu nước trong nhân dân. Và từ Nhật Bản, Trung Quốc những Tân thư, Tân
văn được truyền sang Việt Nam, đã được những Nho sĩ hào hứng tiếp thu và trân
trọng. Mặc dù mớ trí thức “Tân học” này cũng còn hết sức lộn xộn, thiếu hệ thống và
rất sơ sài nhưng dù sao nó cũng là chất men kích thích, có tác dụng giải tỏa những ràng
buộc cũ trong suy nghĩ và hành động, hâm nóng lên bầu máu nóng của những người
yêu nước thức thời, tức bộ phận sĩ phu tiến bộ đầu thế kỉ XX. Và cũng từ sự ảnh
hưởng này mà ở Việt Nam đã rấy lên PTDT phát triển rộng khắp trên cả nước vào
những năm đầu thế kỉ XX, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước.
1.1.1.2. Tình hình trong nước.
Vào những năm cuối thế kỉ XIX, sau khi phong trào Cần Vương chống Pháp thất
bại, thực dân Pháp đã “bình định xong Việt Nam về mặt quân sự” thì chúng thiết lập
hệ thống chính quyền thống trị khắp ba miền và bắt đầu thực hiện kế hoạch “khai thác


15
thuộc địa lần thứ nhất” với mục đích khai thác một cách tối đa những điều kiện của
Việt Nam cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở chính quốc. Và từ đây Việt Nam từ
một xã hội phong kiến đã chuyển thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
a. Tình hình chính trị - xã hội.

Thực dân Pháp nắm quyền điều hành bộ máy cai trị và sử dụng bọn giai cấp
phong kiến đầu hàng phản động làm tay sai. Đứng đầu cai trị toàn Đông Dương là tên
toàn quyền người Pháp. Đứng đầu các xứ, kỳ là các thống đốc, thống sứ hoặc khâm sứ
người Pháp. Bên cạnh có chức kinh lược người Việt nhưng chức này khi có khi không.
Đứng đầu các tỉnh là các công sứ người Pháp. Bên cạnh có các tên tuần phủ hoặc tổng
đốc người Việt. Ở Nam Kỳ, có thời kì thực dân Pháp còn đưa người của chúng xuống
tới cấp huyện. Từ cấp tỉnh trở xuống, huyện có tri huyện, tổng có chánh tổng, xã có lí
trưởng… đều là người Việt, làm tay sai cho thực dân Pháp. Ngoài việc củng cố bộ máy
hành chính thì Pháp còn tăng cường lực lượng quân đội và nắm quyền chỉ huy cả quân
đội Pháp và quân đội Việt Nam. Pháp ra sức củng cố các cơ quan cảnh sát, mật thám,
nhà tù…ở các địa phương để sẵn sàng đàn áp phong trào cách mạng và những người
có hành động chống đối chúng. Thực hiện chính sách “chia để trị”, “dùng người Việt
trị người Việt”, thực dân Pháp đã chia Việt Nam thành ba kỳ với ba chế độ chính trị
khác nhau; gây chia rẽ giữa người Nam với người Bắc, người Trung; gây thù hằn dân
tộc giữa người dân tộc đa số với người dân tộc thiểu số.
Về mặt xã hội, chúng duy trì và phát triển những phong tục hủ bại thời phong
kiến; khuyến khích cờ bạc, uống rượu, hút thuốc phiện; phát triển mê tín dị đoan trong
nhân dân; khuyến khích việc thành lập, tuyên truyền rộng rãi các thứ tôn giáo và “tà
giáo” để ru ngủ nhân dân còn báo chí là một công cụ tuyên truyền đắc lực cho sự
thống trị của thực dân Pháp nên việc xuất bản sách báo, tranh ảnh, bản đồ…được chú
ý. Những người “đi ngược lại” với chính sách của Pháp thì đều bị chúng ngăn cấm và
trừng trị.
b. Tình hình kinh tế.
Trước khi Pháp xâm lược, kinh tế nước ta chỉ là một nền kinh tế nông nghiệp tự
nhiên, tự cấp, tự túc. Thương nghiệp chỉ là buôn bán nhỏ, trao đổi trong phạm vi từng
vùng, việc buôn bán với nước ngoài bị chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình ngăn


16
chặn. Sau khi hoàn thành việc bình định nước ta bằng quân sự, thực dân Pháp bắt tay

ngay vào công cuộc khai thác bóc lột kinh tế bản xứ. Khâu chủ yếu trong chương trình
khai thác thuộc địa của Đume là đầu tư vào một số ngành kinh tế khẳng định vị trí của
chủ nghĩa tư bản Pháp ở Việt Nam.
Trong nông nghiệp, tư bản Pháp tập trung vào hai lĩnh vực: vơ vét xuất khẩu lúa
gạo và kinh doanh đồn điền. Vì vậy, ngay từ khi đến Việt Nam, thực dân Pháp đã tìm
cách mở rộng diện tích để chiếm đất, lập đồn điền. Đặc biệt với chính sách tự do cướp
đoạt ruộng đất của thực dân Pháp thì số lượng và diện tích đồn điền tăng lên nhanh
chóng vào đầu thế kỉ XX. Cuối thế kỉ XIX, diện tích canh tác trong cả nước là
2.640.000ha nhưng đến năm 1913 lên tới 3.130.000ha [38, tr.53]. Và tất nhiên, kéo
theo tình trạng đó là người nông dân bị cướp đoạt hết ruộng đất, ngày càng bị đẩy vào
con đường bần cùng hóa. Mặc dù tính chất căn bản của một nền nông nghiệp lạc hậu
không hề thay đổi nhưng về khách quan, Pháp đã tạo ra những sự thay đổi đáng kể về
diện tích, sản lượng, khả năng xuất khẩu…Những yếu tố của nền nông nghiệp hàng
hóa đã bắt đầu nảy sinh.
Trong công nghiệp, thực dân Pháp đã cho xây dựng một số cơ sở công nghiệp.
Với chính sách hạn chế phát triển công nghiệp, Pháp chỉ đầu tư chủ yếu vào công
nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến và một số ngành công nghiệp nhẹ còn công
nghiệp nặng chưa được quan tâm xây dựng. Pháp cũng đã cho du nhập khoa học kĩ
thuật vào các ngành công nghiệp nhưng chỉ trong chừng mực nhất định nhằm phục vụ
cho cuộc khai thác. Nhìn chung, công nghiệp chỉ được phát triển trong giới hạn không
“phương hại” gì đến công nghiệp chính quốc và “đóng khung trong phạm vi cung cấp
cho chính quốc những nguyên liệu hay những sản vật mà chúng ta thiếu”[104, tr.16].
Cho nên xét về bản chất việc phát triển công nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam chỉ
là sự chiếm đoạt vơ vét tài nguyên, nhiên liệu cho công nghiệp chính quốc và công
nghiệp Việt Nam chịu sự lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp và thị trường nước
ngoài.
Trong thương nghiệp, thực dân Pháp đã thực hiện việc độc chiếm thị trường Việt
Nam và Đông Dương nói chung, độc quyền ngoại thương, thuế quan, xuất nhập khẩu.
Với hai đạo luật hải quan vào các năm 1887 và 1892, hàng hóa của Pháp đã tràn ngập



17
thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, những hoạt động buôn bán, cạnh tranh của tư bản
Pháp cũng đã góp phần mở mang nền thương mại ở Việt Nam.
Nguồn tài chính chủ yếu Pháp dựa vào nguồn thuế: thuế trực thu (thuế đinh, thuế
điền), thuế gián thu (thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện) và nhiều thuế khác.
Nhưng “thuế điền cũng như thuế đinh không có một quy định rứt khoát. Lâu nay,
người ta chỉ cần biết chính quyền cần bao nhiêu tiền thì đánh bấy nhiêu” [53, tr.19].
Pôn Đume chính là người “đã làm cho thuế trực thu sản xuất được nhiều hơn nữa” và
thực hiện ba độc quyền lớn về rượu, thuốc phiện và muối. Vì vậy, từ ngày hắn bắt tay
vào việc “thu thuế”, thì từ 1900 trở đi Đông Dương không những có thể gánh vác được
mọi khoản chi phí hành chính, khai khẩn, “bình định” mà còn có thể tự mình trả được
khoản kinh phí quân đội hàng năm mà trước đây do “chính quốc” đài thọ.
Một trọng tâm trong chương trình khai thác thuộc địa của Pháp là mở mang giao
thông, xây dựng đường sá, cầu cống, bến cảng, vừa nhằm mục đích kinh tế, vừa nhằm
mục đích quân sự. Pháp mở rộng và nâng cấp đường số 1, xây dựng nhiều cầu lớn:
Long Biên (Hà Nội), Trường Tiền (Huế), Bình Lợi (Sài Gòn)…và các cảng quan trọng
như cảng Sài Gòn, cảng Đà Nẵng, cảng Hải Phòng. Những cơ sở này chính là tiền đề
cho kinh tế Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, quá trình đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng, đặc biệt là ở Sài Gòn – Chợ Lớn.
Như vậy, những chính sách kinh tế của thực dân Pháp đã làm thay đổi cơ cấu
kinh tế của Việt Nam. Giữa thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp chiếm được 3 tỉnh miền
Đông Nam Kỳ (1862) thì văn minh phương Tây đã được du nhập vào một cách áp đặt,
lúc này đa số các sĩ phu, kể cả những sĩ phu có thừa lòng yêu nước cũng hờ hững với
những tư tưởng cải cách, thậm chí cự tuyệt vì cho rằng khen cái tinh sảo của văn minh
phương Tây khác nào như đuổi hình bắt bóng. Đến đầu thế kỉ XX, dưới tác động của
cuộc khai thác thuộc địa, nền kinh tế Việt Nam không còn là nền kinh tế nông nghiệp
phong kiến đơn thuần mà xuất hiện một thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa tiến bộ
hơn hẳn nền kinh tế phong kiến. Tuy nhiên thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa do
Pháp áp đặt từ bên ngoài vào bị Pháp kìm hãm và chỉ phát triển đến một mức độ nhất

định, không có sự đột phá mạnh để giải phóng lực lượng sản xuất. Về mặt khách quan,
cuộc khai thác thuộc địa góp phần phá vỡ nền kinh tế tự cung, tự cấp của Việt Nam và


×