Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

thế giới nghệ thuật thơ quang dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUANG MINH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
THƠ QUANG DŨNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007



LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành công trình này, trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô phòng Khoa
học công nghệ Sau đại học, các thầy cô Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh đã giảng dạy tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Tôi xin gửi lời tri ân đến gia đình, người thân, bạn bè và BGH Trường Trung học Kỹ
thuật công nghiệp Đồng Nai đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi học tập.
Cuối cùng, tôi vô cùng cảm ơn và kính yêu thầy hướng dẫn - TS Nguyễn Hoài Thanh,
người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Kính chúc thầy và gia
đình thật nhiều sức khỏe và hạnh phúc.

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 3
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6


1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................6
2. Giới hạn đề tài .................................................................................................................7
3. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................9
4. Phương phấp nghiên cứu .............................................................................................20
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................................21
6. Kết cấu của luận văn ....................................................................................................21

CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH......................................................................... 22
1.1. Cái tôi lãng mạn .........................................................................................................22
1.2. Cái tôi bình dị và hào hoa .........................................................................................30
1.3. Cái tôi lãng du, yêu tự do và tuổi trẻ .......................................................................34

CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI ............................ 39
2.1. Hình tượng quê hương, đất nước .............................................................................39
2.1.1. Hình tượng đất nước trong chiến tranh với khí thế lên đường .............................40
2.1.2. Hình tượng thiên nhiên đất nước hùng vĩ và diễm lệ ...........................................47
2.1.3. Hình tượng quê hương tươi đẹp, gợi thương, gợi nhớ..........................................54
2.2. Hình tượng con người ...............................................................................................61
2.2.1. Tượng đài bất tử về người lính vô danh ...............................................................61
2.2.2. Con người trong tình yêu với vẻ đẹp tâm hồn ......................................................69
2.2.3. Hình tượng những con người đáng thương ..........................................................73

CHƯƠNG 3: THỂ THƠ, NGÔN TỪ VÀ GIỌNG ĐIỆU ..................................... 78
3.1. Đặc điểm sử dụng thể thơ .........................................................................................78
3.1.1. Sử dụng linh hoạt các thể thơ và đóng góp ở thể bảy tiếng ..................................78
3.1.2. Tính chất tự do hóa của thể thơ ............................................................................84
3.1.3. Sử dụng thủ pháp ngắt dòng và thủ pháp tạo điểm dừng .....................................89
3.1.4. Sự sáng tạo các yếu tố thanh điệu, vần và nhịp ....................................................92
3.2. Đặc điểm sử dụng ngôn từ ........................................................................................95
3.2.1. Sử dụng thành công biện pháp tu từ trùng điệp ....................................................95

3.2.2. Cách dùng động từ, từ cảm thán, từ gọi đáp, từ để hỏi .........................................97
3.2.3. Ngôn từ thơ Quang Dũng giàu chất kí ................................................................100
4


3.3. Giọng điệu thơ Quang Dũng ...................................................................................102
3.3.1. Giọng hào hùng, tráng chí...................................................................................102
3.3.2. Giọng bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu ..............................................................105
3.3.3. Giọng buồn thương .............................................................................................107

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 115
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 122

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã đi qua để lại dấu ấn không thể phai
mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ muôn triệu tấm lòng yêu nước, là môi trường thử
thách tinh thần chiến đấu ngoan cường bất khuất của dân tộc ta. Đó cũng là nguồn cảm hứng
lổn thu hút mọi nguồn nội lực của dân tộc. Trong “những năm đất nước có chung một tâm
hồn, có chung một khuôn mặt” ấy đã có biết bao nhiêu nghệ sĩ lên đường theo tiếng gọi thiêng
liêng của tổ quốc. Họ không chỉ cầm bút mà còn trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu. Nhiều người
trong số họ đã hy sinh trong tư thế người chiến sĩ: Thâm Tâm, Nam Cao, Trần Đăng, Lê Anh
Xuân, Nguyễn Thi... Sáng tác của họ đã làm nên một nền văn nghệ “xứng đáng đứng vào
hàng ngũ tiên phong của những nền văn học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày
nay”.
Đứng chung trong đội ngũ những nhà thơ - chiến sĩ, Quang Dũng hiện lên như một

gương mặt riêng, một điểm nhấn của thơ chống Pháp. Có thể nói Quang Dũng là một trong số
những cây bút tiêu biểu có vị trí quan trọng trong nền thơ hiện đại những năm chống Pháp.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng là một việc làm cần thiết.
Trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại Quang Dũng là một hiện tượng đặc biệt. Ông nổi
tiếng từ rất sớm với những thi phẩm tuyệt tác: Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây, Đôi bờ... Riêng
đối với Tây Tiến, tác phẩm đã thành khúc tráng ca của những người lính hào hoa, lãng mạn,
sẵn lòng hiến cuộc đời cho tổ quốc.
Thế nhưng số phận của những bài thơ ấy cũng thăng trầm như chính cuộc đời của nhà
thơ. Một thời gian dài sau đó, do hạn chế của cái nhìn thời đại, các sáng tác của Quang Dũng
đã phải nhận những ý kiến áp đặt. Nhiều người ngại khi nói về Quang Dũng. Bản thân nhà thơ
cũng đã nhiều lần từ chối những lời mời đến nhà trường đọc thơ và nói chuyện về Tây
Tiến. Sáng tác của Quang Dũng bị lãng quên trên sách báo nhưng không lúc nào rời khỏi bộ
nhớ của biết bao thế hệ người đọc.
Cho đến thời gian gần đây, vấn đề thơ Quang Dũng đang được nhìn nhận lại. Đã có
nhiều nhà phê bình, nghiên cứu đánh giá cao sáng tác của Quang Dũng như một điểm sáng
của thơ kháng chiến chống Pháp (Lưu Khánh Thơ, Trần Mạnh Hảo). Cuộc thi bình thơ của tạp
chí Kiến thức ngày nay cũng thu hút khá nhiều bài viết về Tây Tiến. Nhiều người không ngần
6


ngại tôn vinh Quang Dũng lên vị trí hàng đầu của nền thơ kháng chiến nói riêng và nền thơ thế
kỉ XX nói chung.
Vấn đề đặt ra là chúng ta phải làm sao có những đánh giá xác đáng những đóng góp của
Quang Dũng trong lĩnh vực thơ ca cũng như trả lại cho nhà thơ vị trí đứng đắn trong tiến trình
thơ Việt Nam hiện đại.
Hiện nay bài thơ Tây Tiến đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa lớp 12 phổ
thông như một phần khẳng định tài năng và đóng góp của Quang Dũng. Cũng chính tác phẩm
này được khắc ghi trên đài tưởng niệm các liệt sĩ Tây Tiến ở Châu Trang (Hòa Bình). Dù vậy,
cho tới nay vẫn chưa có một công trình nào chuyên sâu về thơ Quang Dũng mà chỉ có những
nhận xét đánh giá về thơ Quang Dũng rải rác xuất hiện ở các bài báo, tạp chí phê bình. Cho

nên, đối với một nhà thơ tài năng, tâm huyết như Quang Dũng, chúng ta cần tiếp tục nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống, dựa trên những cơ sở lí luận chặt chẽ.
Vì thế chúng tôi chọn đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng với mong muốn góp
phần làm rõ những đặc sắc của thơ Quang Dũng trên cơ sở lí luận về thơ trữ tình, khẳng định
lại vị trí của Quang Dũng trên tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, góp phần cảm thụ và giảng dạy
tốt hơn thơ Quang Dũng trong nhà trường phổ thông.

2. Giới hạn đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thơ ca được coi là “tấm gương khúc xạ tâm hồn con người” nên nó có giá trị to lớn
trong việc phản ánh hiện thực thời đại, khám phá đời sống tinh thần con người. Nhưng trong
thực tế của đời sống văn học, ta thường thấy hiện tượng này: hầu như không có nhà thơ nào có
khả năng khái quát toàn bộ thời đại mình trong tất cả chiều kích không gian và thời gian.
Thường thì các nhà thơ dù lớn đến đâu cũng chỉ có một vùng đề tài ưa thích nhất và ông ta chỉ
có thể viết hay về những đề tài ấy mà thôi. Bước ra khỏi hệ thống đề tài ấy, ngòi bút nhà thơ
trở nên xơ cứng, tác phẩm trở nên nhạt nhẽo, thiếu sức sống. Mỗi đề tài lại gắn với một hệ
thống không gian, thời gian riêng, đòi hỏi một kiểu hình tượng, nhân vật riêng cùng với các
phương thức diễn đạt riêng như ngôn từ, thể loại, giọng điệu... Khi những yếu tố đó trong sáng
tác của một nhà thơ được tập hợp lại thành một thể thống nhất, có tính chỉnh thể, có cấu trúc
nội tại theo những nguyên tắc chung, thì chúng tạo thành thế giới nghệ thuật của cá nhân nhà
thơ. “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác
7


phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn
mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư
tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất, hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó phản
ánh các thế giới ấy” [31, tr. 352].
Như thế, thế giới nghệ thuật không đơn thuần là vấn đề hình thức mà trong tính chỉnh thể
của nó, hình thức thẩm mĩ đó luôn được thẩm thấu, chuyển hóa vào một nội dung thích hợp.

Thông qua thế giới nghệ thuật của một nhà thơ ta có thể phân biệt được chỗ sâu sắc, tư tưởng
nghệ thuật độc đáo của nhà thơ ấy với nhà thơ khác.
Với quan niệm như thế, chúng tôi đi vào khám phá thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng
qua các mặt: cái tôi trữ tình (cái tôi lãng mạn cách mạng, cái tôi bình dị và hào hoa, cái tôi lãng
du, yêu tự do và tuổi trẻ), hình tượng đất nước và con người, giọng điệu, ngôn ngữ và thể loại,
lấy đó làm cơ sở để đánh giá những cách tân về mặt nghệ thuật trong thơ Quang Dũng. Qua
việc khám phá thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng cũng góp phần khẳng định vị trí của
Quang Dũng trong thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng như trong toàn bộ thơ ca Việt Nam
hiện đại.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tất cả các bài thơ của Quang Dũng từ khi ông bắt
đầu sáng tác với tác phẩm đầu tay Chiêu Quân (1937) cho đến khi ông mất. Thơ Quang Dũng
chủ yếu được in trên các tập Mây đầu ô (Nxb Tác phẩm mới, 1986) và các tập Quang Dũng Tác phẩm chọn lọc (98), Tuyển tập Quang Dũng (96). Ở ba tập thơ này, chúng tôi thống kê
được 45 bài. Chúng tôi tìm được hai bài thơ khác trên các tư liệu báo chí và mạng internet
là Giấc mơ của Bạch (Nguyễn Bao sưu tầm, báo Văn nghệ tháng 12 năm 1991) và Nhà
mới (Nguyễn Huy Thông sưu tầm trên mạng đăng ngày 15.07.2005).
Người viết cho rằng đây là những tư liệu đáng tin cậy nên hai bài thơ trên được đưa vào đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
Ngoài ra, trên tạp chí Thời tập, số 20, ra ngày 14.02.1975 chúng tôi cũng tìm được sáu
bài thơ khác “chưa từng phổ biến” của Quang Dũng là Buồn êm ấm, Mưa, Suối tóc, Đêm Việt
Trì, Khúc Chiêu Quân và Tiễn bạn (xem phụ lục). Trong số đó, Khúc Chiêu Quân được in
trong Tuyển tập Quang Dũng với tựa đề Chiêu Quân, năm bài còn lại đều không thấy xuất
hiện trên các tư liệu về Quang Dũng. Tuy nhiên vì đây là tài liệu trong nền văn nghệ miền
8


Nam trước năm 1975 và cũng do điều kiện thời gian có hạn, chúng tôi chỉ đưa vào phụ lục để
người đọc có điều kiện tìm hiểu thêm.
Tập hợp lại, chúng tôi có 47 bài thơ Quang Dũng. Đó là con số ít ỏi đối với một đời thơ
dày dặn và có chỗ đứng riêng như Quang Dũng. Nhưng nó cũng đủ để làm nên một Quang

Dũng với phong cách độc đáo, một giọng điệu không thể nhầm lẫn với các nhà thơ cùng thời.

3. Lịch sử vấn đề
Quang Dũng có những sáng tác từ trước năm 1945, nhưng chỉ đến năm 1948 ông
mới “thành công đến kì quái” (Trần Mạnh Hảo) ở bài thơ Tây Tiến. Đó cũng là lúc ông thực
sự được giới nghiên cứu phê bình văn nghệ chú ý tới. Từ đó đến nay, đã có hàng chục bài viết
về hiện tượng thơ Quang Dũng, trong đó có nhiều cây bút tên tuổi, có uy tín như Xuân Diệu,
Hoài Thanh, Vân Long, Trần Lê Văn, Mai Hương, Lưu Khánh Thơ, Hoài Việt... Ngoài ra
không thể không kể đến những bài viết của các cây bút trong văn nghệ miền Nam trước năm
1975 như Viên Linh, Viễn Di, Lê Hoàn Tân, Vũ Bằng, Xuân Vũ, Trần Hoài Thư... Những
đánh giá về thơ Quang Dũng cũng phong phú, phức tạp và trải qua nhiều bước thăng trầm như
chính cuộc đời nhà thơ vậy.
Nhà nghiên cứu Hoài Thanh trong Nói chuyện thơ kháng chiến (1951) đã dành hẳn 40
dòng để viết về bốn câu thơ trong bài Tây Tiến. Ông cho rằng bài thơ tiêu biểu “mộng anh
hùng” rất lạc lõng trong thời đại mới: “Một trong những chỗ ẩn náu quen thuộc của ta trong
thời còn vào dĩ vãng là cái mộng anh hùng (...)Một chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nhất định là anh chiến sĩ Tây Tiến đã nhìn bạn mình qua một bức màn mộng ảo. Sự thực
đơn giản hơn nhiều (...) Anh bộ độ, anh du kích, anh dân quân, anh cán bộ hàng vạn hàng
triệu người đang chiến đấu cho nền độc lập của quốc gia anh hùng một cách rất đời thường,
rất đơn giản, làm gì có vẻ ghê rợn như trong mấy câu thơ trên này” [85, tr. 235]. Dẫn lại lời
của Tố Hữu, Hoài Thanh gọi đó là: “Bệnh yêng hùng theo giọng hát tuồng cổ miền
trong” [85, tr. 235]. Và hình ảnh như thế “nhất định không phải là hình ảnh chân thật của
cuộc kháng chiến Việt Nam” [85, tr. 243]. Bởi vì những bài thơ như Tây Tiến của Quang
9


Dũng “đều bắt nguồn trong một mối chung tức là con người cá nhân, trong cái tôi lẻ loi, nhỏ

bé của con người tư sản, tiểu tư sản cũ” [85, tr. 244].
Nhà thơ Xuân Diệu có lẽ là người “đặt vấn đề” về thơ Quang Dũng sớm nhất. Trong bài
viết Tiếng thơ (Tạp chí Văn nghệ, số 11 - 12, tháng 4.1949), ông đã dành 33 dòng viết về Tây
Tiến. Đồng tình với những ý kiến cho rằng thơ Quang Dũng tiêu biểu cho chất “tiểu tư
sản”, Xuân Diệu viết: “Bài thơ phiêu lưu tài tử, anh hùng cá nhân; con người ở trong này
khiếp sợ trước thiên nhiên, dao động trước gian khổ, sợ cây rừng, sợ hổ, sợ thác núi, sợ ốm
đau, sợ chết,...” Bên cạnh đó, Xuân Diệu đã có những phát hiện quan trọng về giọng điệu
của Tây Tiến. Ông nhận định: “Bài thơ hơi buồn, có đoạn buồn lắm, tứ thơ không mới, có
những câu văn hoa. Nhưng toàn bài rung rung như dây đồng. Đọc lên, trong miệng còn ngân
âm nhạc”. Ở một đoạn khác, nhà thơ Xuân Diệu khẳng định: “Bài thơ chỗ thì đẹp, chỗ thì
ghê, man rợ rồi lại êm ái; đoạn sau cũng đầy tiếng từ ly. Những tên đất Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông ngân đọng. Đến cái tên Sầm Nứa thì câu thơ buồn quá mà hay quá. Hồn đây là
tâm hồn người sống nghĩ chuyện bên Lào” [19, tr. 4].
Nhìn chung các ý kiến bàn về thơ Quang Dũng trong giai đoạn này đều thiên về phê
phán tính chất “tiểu tư sản”, “mộng anh hùng” trong thơ Quang Dũng. Bài thơ Tây Tiến trở
thành tiêu biểu cho cái “buồn rớt”, “mộng rớt” (Hoài Thanh), đã có từ thời Thơ mới. Đó là
điều dễ hiểu bởi vì trong thời kì đầu của cuộc vệ quốc vĩ đại, Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ phải
biết “hướng về đại chúng” với yêu cầu về một mô hình thuần nhất cái tôi trữ tình, nhằm nói
lên tiếng nói chung của cộng đồng, thể hiện tinh thần chung của thời đại cho nên Tây Tiến và
những bài thơ xa lạ với dòng chủ lưu khác đều khó lòng được thừa nhận. Sự lệch hệ chuẩn
thẩm mỹ đã làm nên số phận bất thường của bài thơ cũng như của tác giả của nó. Cái nhìn ấy
đối với thơ Quang Dũng cũng như đối với một số hiện tượng tìm tòi khác trong thơ hồi đầu
kháng chiến (Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Chính Hữu) là một điều đáng tiếc,
nhưng cũng không lạ và có thể nói mang tính tất yếu.
Điều đặc biệt là sau một thời gian dài phải hứng chịu những ý kiến khắt khe, thơ Quang
Dũng lại trở nên khá nổi tiếng trong giới phê bình văn nghệ miền Nam trước năm 1975. Chỉ
tính riêng tạp chí Thời tập xuất bản tại Sài Gòn ngày 14.02.1975 đã có hàng chục bài viết về
Quang Dũng. Tên tuổi của tác giả Tây Tiến còn xuất hiện trong các bài viết của nhà văn Vũ
Bằng như Tất cả sự thật về nhà thơ Trần Quang Dũng, Thương nhớ mười hai, trong tập Hồi
kí của nhạc sĩ Phạm Duy (chương 13 và 30).

10


Trong bài phỏng vấn Tất cả sự thật về nhà thơ Trần Quang Dũng, nhà văn Vũ Bằng đã
ghi lại tất cả những gì đẹp đẽ nhất về nhà thơ Tây Tiến: “Trần Quang Dũng thuộc vào cái
hạng nghệ sĩ đa tài như Văn Cao vậy. Anh chơi Hamonica, gầy Guitare hawaienne, đánh đàn
cò “không chê được”(...). Quang Dũng hát cải cách, cải lương hay, nhưng cái đó chưa trội
bằng cái tài ngâm thơ độc đáo của anh” [5, tr. 114]. “Quang Dũng là một người rất yêu đời
mà lại nghịch ngợm, nhưng nghịch ngợm một cách duyên dáng ý nhị. Có thấy anh nghịch
ngợm, đùa cợt, anh em mới biết tại sao Quang Dũng đi đến đâu trò chuyện người ta mê anh
đến đấy”. “Anh yêu đời và yêu tất cả mọi người, nhất là các anh em văn nghệ, không kì thị bất
cứ ai” [5, tr. 116].
Những nét đặc sắc của thơ ca Quang Dũng đã bước đầu được các nhà nghiên cứu tìm tòi,
đánh giá. Trong bài viết Quang Dũng - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Viên Linh khẳng
định: “Ông trở thành nhà thơ kháng chiến nổi bật, một nhà thơ đặc biệt có tiếng bởi sự truyền
khẩu, bởi những bài thơ chép tay và chưa từng có thi tập nào được xuất bản. Thơ ông vừa hào
hùng, vừa lãng mạn, thông minh và hào hoa, lại rất giản dị và thật” [50, tr. 8]. Lê Hoàn Tân
viết: “Quang Dũng là nghệ sĩ say mê cái đẹp, có trái tim nhạy cảm, biết rung động một cách
tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người. Đó là một thi sĩ mang cốt cách lãng tử
nhưng lại rất chân thật, giản dự. Viễn Di cũng cho rằng: “Nói đến Quang Dũng, người ta
nghĩ ngay đến những chiến tướng với tài làm thơ trên yên ngựa. Người ta phải cảm nhận
không khí thâm u của núi rừng. Người lính chiến cô độc đi theo tiếng gọi núi sông. Nhưng một
mặt khác bàng bạc khắp thơ ông là nỗi nhớ khôn khuây. Người từ giã ra đi nhưng còn trong
tâm tư một tình thương đầy ắp” [50, tr. 56].
Như thế, cuộc đời và thơ ca Quang Dũng đã được nghiên cứu khá kĩ và khá “sâu” trong
văn nghệ miền Nam. (Chẳng hạn có tác giả gọi Quang Dũng là Trần Quang Dũng. Điều này
khá xa lạ với người nghiên cứu miền Bắc. Tuy nhiên, đọc kĩ lại những tác phẩm của Quang
Dũng, ta thấy tập kí sự “Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt” [100; 85], tác giả
lấy bút danh Trần Quang Dũng. Như vậy, cách gọi Trần Quang Dũng của người nghiên cứu
trong văn nghệ miền Nam không phải là không có cơ sở). Những đặc điểm quan trọng của thơ

Quang Dũng cũng đã bước đầu được làm rõ. Nhiều tác giả đã chỉ ra được ở nhà thơ một con
người hồn hậu, chân thành, yêu hòa bình và say mê cái đẹp. Tuy nhiên, đây là những bài viết
trong nền văn nghệ của chế độ cũ nên bản thân người viết cũng có đôi chút băn khoăn. Theo

11


chủ kiến của người viết, nếu sàng lọc kĩ lưỡng, ta vẫn có thể nhận thấy những ý kiến chân
thành và chính xác về thơ Quang Dũng.
Từ năm 1986, sau khi tập Mây đầu ô ra đời, số bài viết về thơ Quang Dũng nhiều hơn.
Cái nhìn về Quang Dũng cũng “thoáng” hơn. Người ta bất chợt bắt gặp ở Quang Dũng vẻ đẹp
tiêu biểu của thời đại “một đi không trở lại”.
Ngay ở tập thơ này, Trần Lê Văn đã dành hẳn 16 trang viết để “Nghĩ về thơ bạn”. Bài
viết có giá trị tổng hợp những đặc điểm về con người và thơ ca Quang Dũng, đồng thời cũng
là những hồi ức kỉ niệm về tình bạn thắm thiết giữa tác giả và nhà thơ Tây Tiến. Ông nhận
định: “Đến Tây Tiến Quang Dũng mới bắt đầu tự khẳng định được mình, bắt đầu sự bộc lộ
hình thành một phong cách thơ, một diện mạo thơ” [27, tr. 8]. Ông cũng nhận thấy ở Quang
Dũng “Thơ có dáng hơi cổ kính nhưng vẫn đậm vị quê hương và có nhịp khẩn trương của đời
mới” [27, tr. 9].
Sau khi Quang Dũng mất Trần Lê Văn còn dành thời gian và tâm huyết để sưu tầm tuyển
chọn và giới thiệu thơ Quang Dũng trong hai cuốn Quang Dũng -Tác phẩm chọn lọc (1988)
và Tuyển tập Quang Dũng (1999). Công phu nhất là Tuyển tập Quang Dũng với 407 trang,
Trần Lê Văn đã sưu tầm được 34 bài thơ và 14 tác phẩm văn xuôi. Nhà văn đã viết về người
bạn tâm giao của mình: “Quang Dũng là người tài hoa “pha nghề thi hoa đủ mùi ca ngâm”.
Anh làm thơ, viết văn xuôi, vẽ tranh (...). Vì thế, thơ anh thường có cả vẽ và nhạc”. “Đó là một
con người, một nghệ sĩ lạc quan về cơ bản và có tình cảm nồng nhiệt đối với đất nước nghìn
xưa cũng như đối với đất nước ngày nay “ [96, tr. 14].
Cùng với Trần Lê Văn, Hoài Việt là người đã bỏ ra nhiều công phu để sưu tầm, biên
soạn và giới thiệu về Quang Dũng. Cuốn Quang Dũng - Người và thơ là một công trình
nghiêm túc và có chất lượng về nhà thơ Quang Dũng. Trong tập sách, Hoài Việt đã sưu tầm

được nhiều bài nghiên cứu, phê bình và hồi ức tưởng niệm của các tác giả Ngô Quân Miện,
Thanh Châu, Hoàng Như Mai, Lê Hùng Lâm... Bản thân Hoài Việt cũng dành một số trang
viết để Hồi ức về một con người. Ngoài ra tập sách còn cho đăng tải một số bài thơ, bài văn và
bút tích của Quang Dũng, trong đó có hai bài thơ thuộc loại sớm nhất trong thơ văn Quang
Dũng là Chiêu Quân (1937) và Cố Quận (1940); một tập kí sự mới được sưu tầm có nhan
đề Đoàn võ trang tuyên truyền biên khu Lào - Việt (1952 - Bút danh Trần Quang Dũng). Đây
thực sự là những tư liệu quý giá đối với những người làm công tác sưu tầm nghiên cứu về nhà
thơ Quang Dũng.
12


Vũ Tiến Quỳnh cũng có hai tập sách Phê bình - Bình luận văn học Quang Dũng Nguyễn Mỹ - Xuân Quỳnh (Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, 1991) và Phê bình - Bình luận văn học
- Hồng Nguyên - Chính Hữu - Quang Dung - Trần Hữu Thung - Hoàng Cầm (Nxb Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh, 1998). Đây là hai công trình sưu tầm biên soạn dành cho học sinh
phổ thông, nội dung không khác với các cuốn sách của Trần Lê Văn và Hoài Việt.
Những năm gần đây, hiện tượng Quang Dũng được chú ý trở lại. Đã có rất nhiều bài phê
bình, nghiên cứu đánh giá cao sáng tác của Quang Dũng: Quang Dũng (1921 - 1988) (Mai
Hương), Bài thơ Tây Tiến - Tượng đài bất tử về người lính vô danh (Phong Lan), Sau mười
năm đọc lại Mây đầu ô (Vân Long), Bình dị và hào hoa: Quang Dũng (Phong Lê), Thơ những
năm kháng chiến chống Pháp qua phê bình văn học (Lưu Khánh Thơ)... Các bài viết của
Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Văn Long, Vũ Tuấn Anh, Đặng Anh Đào,
Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Lai Thúy cũng ít nhiều nhắc đến sáng tác của Quang Dũng.
Nhìn chung, nét nổi bật trong các bài viết về thơ Quang Dũng trong giai đoạn này là tính
chất “giải oan” cho con người và thơ ca Quang Dũng. Xã hội đã đổi mới. Chiến tranh đã đi
qua. Người ta có thời gian nhìn nhận lại những gì thuộc về quá khứ. Vì thế, ngay từ khi Mây
đầu ô xuất hiện, Trần Lê Văn đã có những ý kiến “bênh vực” cho thơ bạn. Nói về cái buồn
trong thơ Quang Dũng, Trần Lê Văn đã không ít lần phản đối lại quan niệm cho rằng thơ
Quang Dũng bi lụy, tiểu tư sản, “làm nhụt chí khí của quân lính”. Ông viết: “Đã có lúc người
ta cho rằng bài thơ Tây Tiến khống có tác dụng tích cực, vì nó buồn, nó tô đậm cái gian khổ,
cái tổn thất. Mà nói đậm đến cái gian khổ cái tổn thất là “làm nhụt nhuệ khí của quân dân

ta”. Sự thật, trải qua bao đời, biết bao quân dân ta đã “cảm tử cho tổ quốc quyết sinh” có bao
giờ nhụt nhuệ khí đâu?” [96, tr. 24].
Nói về chất lãng mạn trong thơ Quang Dũng mà một thời đã bị Hoài Thanh cho là “buồn
rớt”, “mộng rớt” [85, tr. 244], Trần Lê Văn có nhận định: “Quang Dũng và những người
cùng lứa tuổi với anh đi theo Cách mạng, vào làng thơ Cách mạng; dù có cơn gió lãng mạn
đuổi theo thì cũng là gió thuận, gió mạnh, gió đẩy cánh buồm. Cái lãng mạn ấy - trong phần
tốt đẹp của nó - dễ gặp, đễ hòa nhập với lãng mạn Cách mạng” [96, tr. 32].
Đã có rất nhiều bài viết đã đánh giá cao vị trí của thơ Quang Dũng trong nền thơ kháng
chiến. Các tác giả Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức cho rằng: “Cảm hứng
yêu nước nồng nàn của các nhà thơ trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm được thể hiện sâu
sắc đằm thắm trong nhiều bài thơ như đỉnh cao mà suốt cuộc đời thơ sau này không dễ vượt
13


qua được. Đó là trường hợp “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
Cầm”, “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi...”[58,tr. 46].
Còn Phan Huy Dũng nhận thấy ở bài thơ Tây Tiến “Lời tâm nguyện của một thế hệ
thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu. Bài thơ để lại
dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử thơ ca dân tộc” [15, tr. 45].
Tóm lại, giai đoạn từ 1986 đến nay là thời kì hơn hai mươi năm đổi mới. Trong điều kiện
văn học trở về cuộc sống bình thường, những đánh giá cực đoan một thời đối với Quang Dũng
và bài thơ Tây Tiến bị bỏ lại sau lưng. Tác phẩm của Quang Dũng được giới thiệu trở lại với
bạn đọc. Vị trí của Quang Dũng trong “làng” thơ kháng chiến được khẳng định. Có nhiều bài
viết về Quang Dũng trên các sách báo, tạp chí, mạng Internet. Đó là một thuận lợi không nhỏ
cho quá trình nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng của tác giả luận văn.
Điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Quang Dũng, chúng tôi chia làm ba hướng tiếp
cận chính như sau:
3.1. Hướng hồi ức, tưởng niệm về con người và cuộc đời Quang Dũng
Thơ Quang Dũng gắn chặt với cuộc đời Quang Dũng - một cuộc đời có nhiều thăng trầm
và gắn với nhiều giai thoại. “Giai thoại về anh nhiều hơn thơ anh” [100, tr. 8]. Cho nên, hồi

ức tưởng niệm về Quang Dũng chính là một cách tiếp cận độc đáo đối với thơ ông.
Theo hướng này có các bài viết của Hoài Việt, Ngô Quân Miện, Trần Lê Văn, Thanh
Châu, Hoàng Như Mai, Lê Hùng Lâm, Lê Vạn Thắng, Nguyễn Đình Phúc ... Hầu hết các tác
giả đều gợi nhớ những kỉ niệm nho nhỏ đối với Quang Dũng để rồi khẳng định một tính cách,
một vẻ đẹp trong tâm hồn hay thơ ca Quang Dũng.
Trong Tuyển tập Quang Dũng, Trần Lê Văn đã dành một phần lời giới thiệu dài 44 trang
để ghi lại những kỉ niệm về tình bạn giữa hai người, bình giảng các bài thơ của Quang Dũng.
Tác giả tập trung tìm hiểu về quê hương, gia đình, tiểu sử, cuộc đời Quang Dũng, từ đó đi đến
những nhận xét sâu sắc về con người và thơ ca Quang Dũng. Theo ông, “Quang Dũng là
người tài hoa”, “Những ai quen biết Quang Dũng đều biết anh là người vui tính, giỏi hài
hước, một thứ hài hước thông minh và đôn hậu” [96, tr. 36]. “Ở Quang Dũng, ngoài cái tính
tài tử, hào hoa của người Hà Nội, còn có pha tạp địa phương tính của nhiều quê hương” [96,
tr. 36].

14


Hoài Việt trong cuốn Quang Dũng - Người và thơ đã dành ba trang viết để “Hồi ức về
một con người”. Ông chú ý ở Quang Dũng “dáng vóc trượng phu lừng lững, hiền lành đến
nhút nhát, hóm hỉnh đến hồn nhiên” [100, tr. 9]. Đồng thời Quang Dũng cũng là người tài
năng nhiều mặt. Quang Dũng “kể chuyện thì cứ là cả làng chảy nước mắt. Nhưng không chỉ
có kể chuyện, đưa ácmônica lên mồm, hay ngón tay bật vào dây ghita, Quang Dũng cũng dễ
làm cho người ta say lắm! Nhất là các mẹ, các chị mà nghe anh ca sáu câu vọng cổ thì cứ gọi
là khăn hồng đẫm lệ chứa chan “ [100, tr. l l]. Theo tác giả, “Quang Dũng là người học và
đọc khá nhiều của phương Tây mà không dứt cội nguồn, vẫn trở về cội nguồn, bởi từ cội
nguồn mà vun đắp nên anh” [100, tr. l0].
Trong bài viết Quang Dũng - Người thơ, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cảm nhận ở
Quang Dũng “Con người quá thừa chất lãng mạn và lòng chân thật” [76, tr. 131]. Ông đã kể
lại những kỉ niệm đẹp giữa mình và nhà thơ Quang Dũng để hiểu ra rằng: “Có những người
lại chân thật như là trẻ thơ. Chân thật đến mức có thể gọi là dại dột. Vì họ là thi nhân, người

thơ. Quang Dũng là một người như thế!” [76, tr. 131]. Từ đó ông khẳng định: “Có lẽ, cái gốc
lớn nhất của tài năng Quang Dũng là ở đó chăng; chân thực hết mực với lòng mình. Chân
thực tế ra là cả một bản lĩnh lớn lắm. Cho nên thơ cứ trong suốt mà gợi bao cảm nghĩ bồi
hồi” [76, tr. 134].
Giáo sư Hoàng Như Mai cũng có rất nhiều kỉ niệm về Quang Dũng. Qua những lần gặp
gỡ, những câu chuyện, nhà nghiên cứu nhận thấy ở con người và thơ ca Quang Dũng
“cái chất Quang Dũng'“ rất đặc biệt: “ Tôi cho rằng anh có một tình yêu đời, yêu người lớn
lao, có thái độ sống trượng phu (từ này với Quang Dũng đúng thật)” [99, tr. 84].
Trong bài viết Quang Dũng - Con người hồn hậu, ngòi bút tài hoa, tác giả Ngô Quân
Miện lại chú ý tới một vẻ đẹp khác trong người thơ Quang Dũng. Theo ông Quang Dũng
không chỉ là một tài năng đa dạng, có tâm hồn lãng mạn, mộng mơ mà còn là “một tâm hồn
nghệ sĩ thuần hậu, đầy tính dân dã”. “ Đi bộ đội, đi cống tác, đi sơ tán, đi viết văn, đến đâu
anh cũng hòa hợp ngay với những chòm xóm, với người quê, cảnh quê, say sưa hít thở cái
không khí thôn dã, sống cái tình đồng ruộng chân mộc” [99, tr. 65].
Nhìn chung, thông qua những hồi ức kỉ niệm về cuộc đời và con người Quang Dũng, các
nhà nghiên cứu đã tập trung làm nổi bật những phẩm chất của Quang Dũng, vừa tài hoa, lãng
mạn, tráng chí, vừa chân thật, bình dị, gắn bó với làng quê, đồng ruộng. Chính những nét tính

15


cách độc đáo của Quang Dũng là cứ liệu quan trọng để tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ
Quang Dũng.
3.2. Hướng bình giảng, phân tích thơ Quang Dũng
Theo hướng này, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào tác phẩm đặc sắc nhất và
cũng là thành công rực rỡ nhất của Quang Dũng - Tây Tiến. Hầu hết các tác giả đều khẳng
định qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng được “tượng đài bất tử về người lính vô
danh” (Phong Lan), hay thể hiện được hình ảnh người lính mang cốt cách học sinh, sinh viên
Hà Nội: hào hoa, lãng mạn, coi thường hiểm nguy, sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc (Nguyễn Đăng
Mạnh, Trần Đình Sử....).

Các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến bút pháp hiện thực, kết hợp với cảm hứng lãng mạn
trong Tây Tiến. Viết về cái chết của người lính trong Tây Tiến, Đặng Anh Đào cho rằng
“Đó là sự thật viết bằng máu của người lính.... Bởi vậy, nỗi buồn lan tỏa từ bài thơ mang
chiều kích khác thường. Khúc hát tang lễ trở thành tiếng gầm, khúc độc hành của dòng sông
hoang dại” [15, tr. 64].
Những đặc sắc về thanh điệu của Tây Tiến cũng được khẳng định. Ngô Văn Giá cho
rằng “bài thơ đã tạo nên được hình tượng nhạc điệu hoàn chỉnh”. Lưu Khánh Thơ
viết: “nhạc điệu làm nên cái riêng thật đặc sắc quyến rũ của Quang Dũng, và do thế có sức
quyến rũ làm say người đọc”.
Cùng với Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây là tác phẩm nhận được sự quan tâm sâu sắc của
người đọc. Tiêu biểu trong số đó là lời bình của Giáo sư Hoàng Như Mai về thi phẩm đặc sắc
này. Ông nhận thấy: ““Mắt người Sơn Tây là một tình tự dân tộc trong một thời điểm lịch sử
đặc biệt mà những lớp người sinh sau đẻ muộn chỉ được đón nhận như “vang bóng một thời”
cũng đủ để bồi hồi xúc động” [76, tr. 283].
Mảnh đất Sơn Tây với đồng Bương Cấn, núi Sài Sơn, dòng sông Đáy thơ mộng trong
thơ Quang Dũng đã để lại những cảm xúc thật đẹp cho giáo sư Hoàng Như Mai. Vì thế, ông
cho rằng: “Với những câu thơ này, thi sĩ Quang Dũng xứng đáng được ghi trong tiểu sử: thi sĩ
Sơn Tây. Nếu như cái gì rồi cũng đổi thay, sống cũng có ngày cạn, đá rồi cũng mòn, thì Sơn
Tây còn lại mãi với cánh đồng Bương Cấn, đứng trên núi Sài Sơn, trông xuống vàng óng lúa
vàng (...) của thơ Quang Dũng” [76, tr. 248].

16


Ngoài ra, tác giả Hoài Việt cũng có một bài bình về Không đề, Châu Hồng Thủy viết
về Đêm Bạch Hạc, Nguyễn Bao sưu tầm và giới thiệu Giấc mơ của Bạch; Trần Lê Văn, Vân
Long cũng rải rác viết về Những làng đi qua, Mây đầu ô, Quán nước. Ở Không đề, Hoài Việt
nhận thấy “đó là một bài thơ đẹp, một bài thơ thật chân thực, có thể coi là một trong những
bài thơ tình sáng giá của vườn thơ trữ tình Việt Nam” [99, tr. 20].
Châu Hồng Thủy cảm nhận ở Đêm Bạch Hạc “Một đêm thoáng qua trên đường đời,

đêm mất ngủ, thao thức lắng nghe âm thanh của thiên nhiên, muốn hoà tâm hồn với thiên
nhiên. Đêm Bạch Hạc là thơ lắng nghe và suy tưởng. Một đêm để lại cảm giác bâng khuâng
lúc chia tay, để lại một nỗi nhớ càng mơ hồ, mênh mang” [100, tr. 8].
Nhà thơ Vân Long đã tập trung khám phá sâu sắc Những làng đi qua để đi đến kết
luận: “Những làng đi qua đọc lên có phong vị một bài hành. Đặc biệt Quang Dũng đã dùng
những âm thanh “khổ độc”, dùng nhiều vần trắc để nói sự gian lao, vất vả thời kì đầu kháng
chiến” [56, tr. 49].
Các bài phê bình về tác phẩm thơ Quang Dũng chưa thật phong phú. Ngoại trừ trường
hợp Tây Tiến, không có nhiều bài viết về các tác phẩm khác của Quang Dũng. Tuy nhiên,
thông qua việc cảm nhận, thẩm bình một số tác phẩm cụ thể của Quang Dũng, các nhà nghiên
cứu đã khai thác cặn kẽ, chú ý tìm tòi ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ, từ đó phần nào làm nổi bật
lên những vấn đề nội dung cũng như hình thức thơ Quang Dũng.
3.3. Hướng đánh giá, nhận xét chung về thơ ca Quang Dũng
Hướng tiếp cận này không đi vào từng tác phẩm cụ thể mà nhìn nhận, đánh giá chung
toàn bộ những sáng tác của Quang Dũng. Theo hướng này có một số bài nghiên cứu tiêu biểu
của Trần Lê Văn, Hoài Việt, Vân Long, Mai Hương, Ngô Quân Miện, Phong Lan, Nguyễn
Văn Long...
Tác giả Vân Long trên tạp chí Văn học số 1. 1997 đã cho đăng tải bài viết Sau mười năm
đọc lại Mây đầu ô. Bài nghiên cứu tập trung đánh giá toàn diện, nhiều mặt thơ Quang Dũng từ
giọng điệu, kết cấu đến cách sử dụng chi tiết. Vân Long nhận thấy: “Có một sự giao lưu, hòa
nhập lẫn nhau giữa những yếu tố hiện thực khắc nghiệt với tâm hồn lãng mạn của Quang
Dũng. Yếu tố hiện thực ấy đã tràn vào tâm hồn lãng mạn của nhà thơ làm biến đổi chất lãng
mạn đó. Đồng thời, tâm hồn lãng mạn ấy lại phả lên hiện thực cái màn sương khói lung linh,

17


làm cho sự gian nan nhòe đi, có lúc thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ độc đáo” [56, tr.
49].
Sau khi điểm qua các tác phẩm nổi tiếng của Quang Dũng như Mây đầu ô, Tây tiến,

Những làng đi qua, nhà thơ Vân Long đi đến nhận định: “Thơ Quang Dũng có cả một cái nền
khá cao, nhiều bài thơ khác hay không kém Tây Tiến là bao, chứng tỏ tác giả là một tài thơ
lớn, một tâm hồn lớn, không chỉ hội tụ đột xuất những yếu tố hay trong một bài. Xếp cùng Tây
Tiến là cả một dãy núi nhấp nhô Mây đầu ô mà Tây Tiến là đỉnh cao tiêu biểu” [56, tr. 51].
Nhà nghiên cứu Mai Hương trong bài viết Quang Dũng (1921 - 1988) cũng có những
nhận xét xác đáng về Quang Dũng. Mai Hương cảm nhận ở thơ Quang Dũng một bức tranh
quê với “vẻ đẹp nồng hậu” [35, tr. 40], mang đậm màu sắc của quê hương Việt Nam, một tâm
sự buồn lắng đọng qua các bài Quán nước, Thu, Chiều núi mưa rào, một vẻ đẹp chân
thực “không gân cốt mà thấm thía” [35, tr. 41] trong vui buồn của cuộc đời chinh chiến. Tổng
hợp lại, Mai Hương nhận định: “Ở Quang Dũng có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất
dân giã với tài hoa, tinh tế. Nhiều bài thơ anh, do vậy đạt đến độ chân tài” [35, tr. 41].
Giọng điệu thơ Quang Dũng là điều nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Châu Hồng Thủy
viết: “Thơ Quang Dũng có hai kiểu giọng. Một loại sống động, oai hùng, hào tráng như kiểu
Nhớ Tây Bắc. Một loại bâng khuâng, mơ hồ, phiêu diêu như Đêm Bạch Hạc. Hai giọng thơ
tưởng chừng đối lập lại tồn tại trong cùng một hồn thơ” [90, tr. 8]. Nguyễn Văn Long nhận
thấy ở thơ Quang Dũng “Một hơi thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại, một bút pháp vừa táo bạo
tung hoành, vừa tinh tế tài hoa” [52, tr. 68]. Hoài Việt lại cho rằng giọng điệu thơ Quang
Dũng là khẩu khí “con nhà võ làm văn”. Và “cũng như cái tinh thần thượng võ, cái khí, cái
thần của văn ấy được đúc nên từ lòng yêu thương gắn bó với xứ Đoài, đất đá ong, có bầu trời
nhiều mây trắng lắm” [100, tr. 9].
Tình cảm lưu luyến của Quang Dũng dành cho quê hương, gia đình cũng nhiều lần được
nhắc tới. Nhà văn Thanh Châu nhận định: “Thơ văn anh thoảng mùi thơm quê mùa. Đó là văn
phong một con người còn nhiều dây mơ rễ má gắn mình với gốc rễ ông cha ở nông thôn” [99,
tr. 70]. Ngô Quân Miện viết: “Trong thơ anh thấy trào lên tình yêu quê hương, sự gắn bó với
xóm làng, ruộng đồng, xứ sở” [76, tr. 12]. Đó cũng là ý kiến của Phong Lê trong bài viết Bình
dị và hào hoa Quang Dũng: “Chưa ai khác ngoài ông, cho đến hôm nay, kể cả Tản Đà, đã tạo
nên được một sự sống rung động đến thế cho xứ Đoài nhiều mây trắng quê ông. Con đường

18



qua cầu Giấy, lên Phùng, đến xứ Đoài, nhờ vào thơ ông mà trở nên thơ mộng hơn, mĩ lệ hơn,
lưu luyến hơn, dẫu đất đai quê hương thì nơi đâu cũng có một vẻ đẹp riêng” [48, tr. 326].
Trong một bài viết khác, Hồi ức về một con người, Hoài Việt chú ý đến một vẻ đẹp khác
của thơ Quang Dũng: “Nhìn anh kĩ, đọc anh kĩ mới nhận ra một chất nhân bản hồn hậu, nhân
bản Việt Nam. Quán bên đường thương một cô chủ, lên cơn sốt rét rung giường, Đôi mắt
người Sơn Tây nhớ cô gái bán cà phê phố Sêu, người đồng hương đồng khói, Hoa chanh ấy là
mùi của vườn ta” [99, tr. 10].
Chất lãng mạn này sinh trong hoàn cảnh thời đại đặc biệt của cái tôi cá nhân Quang
Dũng cũng được chú ý đến. Trên báo Văn học và Tuổi trẻ, Phạm Quốc Ca có bài Đôi điều nói
thêm về bài thơ Tây Tiến. Nhà nghiên cứu đã nhận thấy ở tác phẩm này và các bài thơ khác
của Quang Dũng vẻ đẹp “một đi không trở lại” của một lớp người đã đi vào lịch sử dân tộc:
“Có thể nói Tây Tiến cùng với Đôi mắt người Sơn Tây, Quán bên đường, là những bài thơ có
vài trò như cầu nối giữa cái tôi cá nhân hướng nội trong Thơ mới với cái tôi khách thể hóa
của thơ kháng chiến. Trên con đường ấy, thơ ông đã ghi được dấu ấn lịch sử tâm hồn của một
lớp người” [9, tr. 21]. Đó là những ý kiến sắc sảo, chân thành, giúp ngươi đọc có định hướng
đi vào khám phá thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng.
Thơ Quang Dũng rất “giàu” các địa danh. Đây cũng là yếu tố làm nhiều nhà phê bình
chú ý. Trên tạp chí Văn học số 2. 2003, Lưu Khánh Thơ có bài viết tiêu biểu Thơ những năm
chống Pháp qua phê bình văn học. Ông nhận thấy: “Quang Dũng vẫn là người rất tài hoa
trong việc ghi nhận và thổi vào sự sống cho các địa danh. Những tên đất riêng - thường là tên
Nôm - là quê ông, là những nơi ông đi qua - Những làng đi qua, thế mà vào thơ ông lại trở
thành một lưu luyến, một nhớ nhung đến thế, không chỉ là xứ Đoài mây trắng với Bương
Cấn, Sài Sơn, với Phủ Quốc, Ba Vì, Bất Bạt...mà còn là Sài Khao, Mường Hịch, Pha Luông,
Mai Châu, Châu Mộc” [87, tr. 33].
Đó cũng là ý kiến của Nguyễn Văn Long trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại
mới: “Trong thơ Việt Nam chưa bao giờ các địa danh của mọi vùng miền lại xuất hiện nhiều
và phổ biến như ở thời kì này, thậm chí nó dày đặc trong một bài, một câu thơ, vậy mà hầu
như không có trường hợp nào gây ra sự phản cảm cho người đọc (...). Có lẽ Quang Dũng và
Tố Hữu là hai tác giả tiêu biểu nhất trong việc sử dụng thành công địa danh trong thơ” [54,

tr. 83].

19


Ngoài những ý kiến được đề cập ở trên, trong giai đoạn này còn có những công trình
đáng được ghi nhận về thơ Quang Dũng của các tác giả Nguyễn Viết Hùng, Trần Mạnh Hảo,
Hồng Thanh Quang, Nguyễn Huy Thông, Đỗ Lai Thúy... Từ các công trình nghiên cứu trên,
chúng tôi nhận thấy các nhà phê bình đã khai thác thơ Quang Dũng trên nhiều phương diện.
Họ đã có những đánh giá khách quan, nghiêm túc, toàn diện về Quang Dũng từ cuộc đời đến
thơ ca. Qua những bài nghiên cứu, người đọc có điều kiện nhận thức rõ vị trí của Quang Dũng
trong thơ ca kháng chiến chống Pháp và thơ ca Việt Nam hiện đại.
Những bài phê bình, nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng cho chứng tôi khi thực hiện đề
tài luận văn. Dựa vào việc tiếp thu có chọn lọc những công trình của các nhà phê bình đi trước,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng để có những đánh giá
chân xác, toàn vẹn về hiện tượng thơ độc đáo và nhiều trắc ẩn này.

4. Phương phấp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phân loại
Đề tài của chúng tôi đi vào khảo sát các bài thơ của Quang Dũng. Từ đó chúng tôi tiến
hành thống kê tần số xuất hiện của các từ ngữ, những hình ảnh thơ tiêu biểu, các hiện tượng
ngôn ngữ cần nghiên cứu. Kết quả mà chúng tôi thống kê được là ví dụ minh họa cho những
luận điểm khái quát rút ra trong quá trình khảo sát.
Phương pháp miêu tả, so sánh, đối chiếu
Trên cơ sở thống kê phân loại, chúng tôi đi sâu vào miêu tả thể loại thơ, hệ thống hình
ảnh, cách sử dụng các từ ngữ trong thơ Quang Dũng. Chúng tôi cũng so sánh, đối chiếu cách
sử dụng ngôn từ và thể loại thơ Quang Dũng với các tác giả khác cùng thời để thấy những
điểm riêng, nổi bật trong thơ Quang Dũng.
Phương pháp phân tích tổng hợp
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào phân tích các tín hiệu thẩm mỹ, các

cấu trúc ngôn ngữ, các hình ảnh nổi bật để tìm hiểu nghĩa thông báo của thơ. Từ đó chúng tôi
đi đến những khái quát về Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng.
Phương pháp nghiên cứu thi pháp học
Nghiên cứu thơ Quang Dũng, chúng tôi không dừng lại ở việc chỉ ra những ý hay, từ đắt
hay cách dùng thanh điệu tài tình mà còn hướng tới việc nắm bắt thơ Quang Dũng như một
20


chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật, có qui luật nội tại. Những đánh giá về thơ Quang Dũng
được rút ra trên cơ sở những tín hiệu ngôn ngữ được lặp đi lặp lại, gắn liền với quan niệm nghệ
thuật và phương thức biểu hiện của nhà thơ. Chính vì vậy phương pháp nghiên cứu thi pháp
học rất cần thiết đối với việc tiếp nhận thơ Quang Dũng.

5. Đóng góp của luận văn
Quang Dũng là một cây bút có vị trí quan trọng trong thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Sau ngày đất nước thống nhất ông lại tiếp tục có những bài thơ gây được sự chú ý của người
đọc. Qua luận văn này, chúng tôi đã cố gắng đánh giá thơ Quang Dũng trên các mặt cái tôi trữ
tình, hình tượng trữ tình, thể loại, ngôn ngữ và giọng điệu thơ Quang Dũng từ đó khẳng định
vị trí của thơ ông trong nền thơ kháng chiến giai đoạn đầu tiên. Đồng thời luận văn hướng tới
một công việc thiết thực là góp phần giúp cho việc giảng dạy thơ Quang Dũng trong nhà
trường được tốt hơn.
Ngoài ra, luận văn cũng tìm được một số tác phẩm thơ Quang Dũng ít được người đọc
biết đến. Thiết nghĩ đó cũng là nguồn tư liệu để các nhà nghiên cứu, bạn đọc có điều kiện tìm
hiểu thêm.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Dẫn nhập, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cái tôi trữ tình.
Chương 2: Hình tượng đất nước và con người.
Chương 3: Thể thơ, ngôn từ và giọng điệu.


21


CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH
1.1. Cái tôi lãng mạn
Trong thế giới nghệ thuật của nhà thơ, cái tôi trữ tình có vai trò vô cùng quan trọng. Thơ
ca bao giờ cũng là tiếng nói chủ quan, nội cảm, tiếng nói “độc bạch” của cá nhân nhà thơ trước
cuộc đời. Cái tôi trữ tình là trung tâm cảm nhận và phản ánh thế giới của chủ thể trữ tình cho
nên nó cũng là cốt lõi, hạt nhân của thế giới nghệ thuật nhà thơ. Mỗi bài thơ ra đời chất chứa
biết bao tâm tư, tình cảm, khát vọng, trăn trở, thậm chí đớn đau của nhà thơ với những vấn đề
của cuộc sống. Sức hấp dẫn của thơ khởi nguồn từ tiếng thơ riêng biệt, độc đáo của cái tôi trữ
tình nhà thơ thể hiện trong thơ. Với Quang Dũng, cái tôi trữ tình chính là đóng góp nổi bật
nhất mà ông để lại cho cuộc đời, cho thơ ca.
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (Dậu), sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì,
huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây, trong một gia đình nho giáo làm nghề buôn bán nhỏ. Bút
danh Quang Dũng chính là tên con trai đầu của nhà thơ - Bùi Quang Dũng. Ngoài ra có lúc
ông còn dùng bút danh Trần Quang Dũng như một sự tri ân dành cho người bạn thơ Trần Lê
Văn.
Lớn lên, Quang Dũng được gia đình cho ra Hà Nội học. Ngoài học văn ông còn học vẽ,
học võ. Ra đời có lúc ông còn làm cả nghề giáo học. Sau đó, ông vượt biên giới đi tìm chân lí
và sau ngày Cách mạng thành công, ông gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Dù chỉ ở Trung
đoàn Tây Tiến có một năm nhưng ấn tượng về những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ở Tây
Tiến đã đi suốt đời ông, đi suốt thơ ông. Tháng 08.1951, Quang Dũng xuất ngũ nhưng ông vẫn
tiếp tục hoạt động văn nghệ ở Liên khu III cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hòa bình lập lại, Quang Dũng làm biên tập viên báo Văn nghệ, rồi làm biên tập viên nhà
xuất bản Văn học. Ông nghỉ hưu năm 1978. Từ năm 1983, nhà thơ bị tai biến mạch máu não.
Sau một thời gian dài lâm bệnh, Quang Dũng đã từ trần vào ngày 13.10.1988 tại Hà Nội.
Quang Dũng là một nghệ sĩ nhiều tài năng: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, sáng tác nhạc.
Trong lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp nhưng thành công nhất vẫn là thơ.

Quang Dũng có những sáng tác đầu tay từ năm 16 tuổi. Hai bài thơ Chiêu Quân (1937)
và Cố Quận (1940) là những tác phẩm đặc sắc, mang dáng dấp Thơ mới rõ rệt. Nhưng Quang
Dũng chỉ thực sự được bạn đọc biết tới với bài thơ Tây Tiến (1948) - khúc tráng ca của những
người chiến sĩ trẻ tuổi lên đường vì non sông đất nước - khi nhà thơ đã 27 tuổi. Sau Tây
22


Tiến, Quang Dũng sáng tác nhiều hơn và cũng có nhiều tác phẩm nổi tiếng: Mắt người Sơn
Tây (1949), Lính râu ria (1949), Đôi bờ (1948), Quán nước (1948)... Song phần lớn các tác
phẩm của ông được lưu truyền bằng con đường viết tay hay truyền miệng. Mãi đến năm 1956,
ông mới xuất bản tập thơ đầu tiên - Bài thơ sông Hồng (Nxb Văn nghệ, 1956). Năm sau, ông
tiếp tục có tập thơ Rừng biển quê hương (in chung với Trần Lê Văn - Nxb Hội nhà văn, 1957).
Đến cuối đời, nhà thơ dồn hết tâm huyết cho ra đời tập thơ Mây đầu ô (Nxb Tác phẩm
mới, 1986). Tập thơ có tính chất tổng kết cả đời thơ Quang Dũng từ những ngày Tây Tiến cho
đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ở Quang Dũng, từ con người, cuộc đời đến thơ ca đều toát lên một chất lãng mạn thật
độc đáo, hấp dẫn. Đỗ Lai Thúy cho rằng “Quang Dũng là một kẻ lãng mạn, lãng mạn đến chót
mùa” [111, tr. 1]. Điều ây được hình thành từ hai nguồn ảnh hưởng rất lớn: quê hương xứ
Đoài và sự tác động của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945. Quê ông là làng
Phượng Trì “khố nối ăn chơi đủ vành” (ca dao), nói rộng ra là cả một vùng Sơn Tây đất đá
ong khô “nơi người Việt cổ làm nương rẫy và đặt bàn chân đầu tiên khi bước xuống đồng
bằng. Từ châu thổ họ đi tứ xứ, nhưng luôn nhớ về mảnh đất gốc, luôn thả hồn theo những đám
mây trắng trôi về đậu đỉnh Ba Vì” [111, tr. l], Đây chính là vùng đất đã sản sinh ra những
người con tài tử như Tản Đà - nhà thơ “Tài cao phận thấp chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên
quê hương”, cũng là vùng đất đã truyền lại cho Quang Dũng dòng máu giang hồ và sự hoài
niệm quê hương.
Khi còn trẻ, Quang Dũng “rất mê Đường thi tam bách thủ nhưng cũng “say Thơ mới
như bất cứ một học sinh nào thời đó” [71, tr. 97]. Ông đọc nhiều Thạch Lam, thích nhân vật
Dũng của Nhất Linh nhưng có lẽ kẻ giang hồ “Rũ áo phong sương trên gác trọ” trong thơ Thế
Lữ là có sức quyến rũ nhất. Quang Dũng tâm sự: “Tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt là bài

Nhớ rừng, bởi chất tâm trạng sơn dã của nó” [71, tr. 97]. Bài thơ Tây Tiến và cả những tác
phẩm sau này của Quang Dũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của văn học lãng mạn, đặc biệt là
thơ Thế Lữ.
Nhưng con người Quang Dũng, hồn thơ Quang Dũng vẫn có sự khác biệt về căn bản so
với Thơ mới, bởi vì phẩm chất lãng mạn trong cá tính Quang Dũng đã được gặp gỡ Cách
mạng, được chân trời Cách mạng nuôi dưỡng. “Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm
hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của hào khí ấy” [96, tr. 8].

23


Những nẻo đường Tây Tiến: Sông Mã, Mai Châu, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông,
Sài Khao... đã kích thích trí tưởng tượng của nhà thơ, đẩy cảm xúc của nhà thơ lên đến cao độ.
Gian khó đến tột bậc mà hào hùng thì cũng vô cùng. Đường hành quân vất vả, thiếu trang bị,
thiếu thuốc men, sốt rét rừng làm cho đoàn quân “không mọc tóc”, “xanh màu lá”, nhưng
người lính vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, hồi tưởng về những ngày tháng Tây Tiến, Quang
Dũng vẫn còn lâng lâng cảm xúc: “Họ đã đem đến những nơi sâu thẳm nhất của bản đồ đất
nước những âm điệu hùng hồn, những lời ca tin tưởng của cả một dân tộc đang chiến đấu. Họ
đem đến nguồn vui mới lạ cho tâm hồn của đồng bào miền núi khi được trông thấy ánh lửa
trại lấp lánh trên những chiếc kèn đồng” [99, tr. 31].
Vì thế, chất lãng mạn, niềm lạc quan, yêu đời đã ngấm vào hồn thơ Quang Dũng từ hiện
thực hào hùng của cuộc chiến, tạo cho tiếng thơ Quang Dũng một âm hưởng rất lạ: âm hưởng
lãng mạn Cách mạng. Cái tôi ấy có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực cách mạng và
tiếng thơ trữ tình tha thiết. “Yếu tố hiện thực đã tràn vào tâm hồn lãng mạn của nhà thơ, làm
biến đổi chất lãng mạn đó. Đồng thời tâm hồn lãng mạn ấy lại phả lên hiện thực cái màn
sương khói lung linh, làm cho sự gian lao nhòe đi, có lúc thăng hoa thành những hình tượng
kì vĩ, độc đáo” [56, tr. 49].
Cái tôi thơ Quang Dũng là cái tôi yêu đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân dân, sẩn sàng xả
thân hy sinh vì tổ quốc đồng thời lại mang tâm hồn bay bổng, diệu kì. Trong lao khổ ông
mong tới ngày mai tươi sáng, lúc khó khăn, khi đối diện với cái chết, thơ ca vẫn tin tưởng vào

tương lai tốt đẹp. Trong thơ Quang Dũng, sự sống dù được trải trên nền bom đạn vẫn xanh
non, tươi mát, biểu hiện sự bất diệt của đất nước, của nhân dân:
Không một quán lều chưa phá.
Na pan, bom bướm, bom dây
Nhưng bên những hố bom
Chuối, đu đủ lại trồng quanh
Quán lều thay lá mới
Mùi lạt thơm xanh
(Đường Mười hai)

24


Nhà thơ tuy đứng trong cái thực tại của ngày hôm nay còn nhiều thiếu thốn, nhưng tâm
hồn luôn hướng vào ngày mai chiến thắng:
Những mái nhà tươi cờ chiến thắng
Phố phường thu đến nắng xôn xang

Đường qua gian khổ bao ngày tháng
Từng nghe thu lại ấm hương đời
(Một mùa thu)
Có thể nói, cái tôi lãng mạn Cách mạng thơ Quang Dũng là biểu hiện tập trung của chủ
nghĩa Cách mạng anh hùng. Tuy nhiên hòa nhập vào số đông mà không đánh mất đi bản sắc,
gắn với cái ta mà vẫn nguyên vẹn cái tôi, đó mới chính là bản lĩnh của hồn thơ Quang Dũng.
Sức hấp dẫn của cái tôi Quang Dũng là ở một cái tôi mang nét tráng sĩ cổ điển, được thể hiện
trong bối cảnh thời đại mới. Trong cuộc đời, người ta chú ý nhiều đến “vóc dáng trượng phu
lừng lững” của nhà thơ. Trong thơ ca, âm hưởng lãng mạn thơ Quang Dũng được thể hiện ở
sự cảm thụ cuộc sống một cách cá nhân, riêng tư, mang hơi hướng phiêu lưu, tài tử. Nhiều
người đọc ở Tây Tiến và nhiều bài thơ khác “chất phiêu lưu”, “ưa thám hiểm”, chất “đường
rừng” trong thơ. Người lính đến với Tây Tiến như đến với một cuộc thám hiểm để khám phá

thiên nhiên mà cũng là khám phá chính tâm hồn mình. Tâm hồn họ hít thở không khí của Tây
Tiến, cảm nhận Tây Tiến và hòa nhập vào Tây Tiến. Những bức tranh thiên nhiên hoành tráng,
thăm thẳm, ngút ngàn đã hút lấy tâm hồn họ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến)
Cuộc chiến những như thế, rõ ràng không chỉ là ta và địch, mất và còn, mà còn là cuộc
khám phá. Thế nên mới có những sửng sốt “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, những bâng
khuâng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, những “mộng” và “mơ” - mộng “qua biên
giới” và mơ về “dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến cũng không lẫn vào số đông những
người lính khác trong thời đại mà cái “chung”, cái “đại chúng” được đặt lên làm tiêu chí
hàng đầu. Họ là những con người anh hùng, hiên ngang nhưng vẫn mang sắc thái riêng của
25


×