Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

thein sein và công cuộc cải cách ở myanmar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Hương Lan

THEIN SEIN VÀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH
Ở MYANMAR

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Hương Lan

THEIN SEIN VÀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH
Ở MYANMAR
Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HÀ BÍCH LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, các
thầy cô Khoa Sử cùng tất cả các bạn trong khóa học đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn Tiến sĩ Hà Bích Liên, Cô đã
tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin tỏ lòng kính trọng, biết ơn Thông tấn xã Việt Nam, cơ quan
thường trực tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận
tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gắng hết sức
mình, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên
cứu vô cùng quý báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 08 năm 2014

Phạm Thị Hương Lan


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
DẪN LUẬN .......................................................................................................... 1
Chương 1. THEINSEIN VÀ ĐẤT NƯỚC MYANMAR ............................... 12
1.1. Khái quát về đất nướcMyanmar ............................................................ 12

1.2. U Thein Sein – những năm tháng trước cải cách................................... 20
Chương 2. MYANMAR NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXIVÀ CÔNG
CUỘC CẢI CÁCH........................................................................ 28
2.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến những cải cách của Thein Sein ................... 28
2.1.1. Những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ....................................... 28
2.1.2. Trận bão Nargis: bước ngoặt chuyển hóa dân chủ tại Myanmar .... 39
2.2. Những khó khăn, thách thức của công cuộc cải cách ............................ 45
2.2.1. Tham nhũng – cuộc khủng hoảng lòng tin ở Myanmar .................. 45
2.2.2. Bạo lực sắc tộc đe dọa cải cách tại Myanmar.................................. 51
2.2.3. Nhân tố Trung Quốc và ASEAN trong cải cách ở Myanmar.......... 58
Chương 3. VAI TRÒ CỦA THEIN SEINTRONG CÔNG CUỘC
CẢI CÁCH .................................................................................... 74
3.1. Những bước đi đầu tiên của công cuộc cải cách.................................... 74
3.2. Những cải cách quan trọng .................................................................... 82
3.3. Sự ủng hộ của thế giới với cải cách của Thein Sein .............................. 86
3.4. Thein Sein – con người làm thay đổi lịch sử Myanmar ...................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 117
PHỤ LỤC


1

DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Đông Nam Á từ lâu đã được coi là khu vực có ý nghĩa quan trọng bởi đây là
khu vực có tầm chiến lược và nguồn tài nguyên vô cùng phong phú, nguồn nhân
lực dồi dào. Trong khu vực Đông Nam Á thì Myanmar là một quốc gia lớn thứ
hai về diện tích với tiềm năng thiên nhiên đa dạng và phong phú, từng có thời
nổi danh là “bát gạo châu Á”, “nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới”. Hơn thế
nữa, đất nước Myanmar còn có lịch sử văn hóa lâu đời, được các nước trong khu

vực và thế giới biết đến với cái tên đậm màu sắc Phật giáo Phương Đông – Đất
nước chùa vàng.
Tuy nhiên, cũng giống như nhiều vương quốc khác trong khu vực vào cuối
thời trung kỳ, vương quốc Myanmar lâm vào khủng hoảng, suy vong, tạo điều
kiện thuận lợi cho thực dân Anh dòm ngó và hoàn thành quá trình xâm lược vào
cuối thế kỷ XIX. Nhân dân Myanmar đã kiên trì tiến hành phong trào đấu tranh
chống thực Anh, kết quả là ngày 4/1/1948 Myanmar được trao trả độc lập, chính
phủ Thakin Nu (1948 – 1962) tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội. Con đường
phát triển đó tiếp tục được thể hiện trong Cương lĩnh đi lên chủ nghĩa xã hội
dưới tướng Ne Win (1962 – 1988). Những kế hoạch kinh tế thất bại do đề ra
mục tiêu quá lớn so với cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém cộng với đường lối “tự
lực cánh sinh” đã làm cho đất nước bị tụt hậu nghiêm trọng, Myanmar là nước
duy nhất trong khu vực trở thành một trong ba mươi nước kém phát triển nhất
thế giới theo danh sách công bố của Liên hợp quốc.
Từ năm 1962 đến 2011, chế độ độc tài quân sự đã cai trị đất nước này. Ngành
tư pháp không độc lập, chính quyền hạn chế truy cập internet thông qua kiểm
duyệt và ngăn chặn truy cập.Lao động cưỡng bức, nạn buôn người, nhất là trẻ
em diễn ra khá phổ biến. Các ngành công nghiệp then chốt bị quân đội kiểm soát
và tham nhũng lan tràn. Quân đội bị cáo buộc đã biến Myanmar thành nơi xuất
khẩu chính trong đường dây buôn ma túy quy mô lớn.Liên minh châu Âu (EU),


2

Mỹ và Canađa đã áp dụng cấm vận kinh tế đối với Myanmar, và trong số các
nền kinh tế chính chỉ có Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Triều Tiên có đầu tư vào
đất nước này. Đất nước nghèo đói cũng là nguyên nhân xảy ra tình trạng bạo lực
sắc tộc ngày càng leo thang.
Những sự căng thẳng liên tục và kéo dài trên đây đã làm cho tình hình chính
trị và các sinh hoạt xã hội của Myanmar luôn luôn không ổn định. Hàng ngàn

sinh viên chạy sang Thái Lan hoặc lên biên giới liên kết với những người khởi
nghĩa, một bộ phận các nghị sĩ được bầu năm 1990 chạy lên vùng rừng núi lập
chính phủ tồn tại song song. Các sự kiện đó đã làm cho tình hình nội chiến kéo
dài hơn năm mươi năm nay trở nên phức tạp khiến cho đất nước bị kìm hãm, bị
cô lập. Việc một đất nước với 85% dân số theo đạo Phật – tôn giáo của hòa bình
– nổi tiếng với các cuộc xung đột sắc tộc, quyền con người bị tước đoạt là một
sự mỉa mai đầy cay nghiệt của lịch sử. Myanmar rất cần một “làn gió mới” quét
sạch những yếu kém của chế độ quân sự bằng một cuộc cải cách đưa đất nước
tiến lên hòa vào sự phát triển trong khu vực và thế giới.
Tháng 03 năm 2011, chính phủ mới nhậm chức, Thein Sein lên làm Tổng
thống, và sau đó, một chuỗi những cải cách diễn ra đã đem đến hi vọng cho
Myanmar. Những thập kỷ bị thế giới cô lập đã sắp đến hồi kết.
Trong bối cảnh lịch sử đó nổi lên một nhân vật có ảnh hưởng lớn trên chính
trường Myanmar: Tổng thống Thein Sein. Tìm hiểu về nhân vật này trong bối
cảnh lịch sử đặc biệt của Myanmar không chỉ là khắc hoạ một nhân vật lịch sử
mà còn để hiểu rõ hơn lịch sử, đất nước và con người Myanmar. Những đóng
góp của Thein Sein thể hiện vai trò của cá nhân trong việc tạo ra những “bước
ngoặt” cho vận mệnh dân tộc.Cuộc cải cách mà chính phủ đang tiến hành đã cải
thiện đáng kể hình ảnh Myanmar trong mắt cộng đồng khu vực và trên thế
giới.Điều đó chi phối chính sách của mỗi quốc gia cũng như ảnh hưởng đến các
mối quan hệ quốc tế hiện nay. Mặc dù chỉ mới bắt đầu, vẫn còn nhiều khó khăn
và thử thách phía trước nhưng tiến trình cải cách đã và đang thay đổi vận mệnh


3

dân tộc Myanmar, tạo ra sự thay đổi lớn tình hình chính trị, xã hội, mở cửa đất
nước sau một thời gian dài đóng cửa và hướng nội song hành với vai trò to lớn
của Thein Sein. Sức hấp dẫn và tính thời sự của tình hình chính trị Myanmar
những năm gần đây đã lôi cuốn người viết lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thein

Sein và công cuộc cải cách ở Myanmar” làm luận văn kết thúc khóa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về nhân vật Thein Sein và công cuộc cải cách ở Myanmar những
năm đầu thế kỷ XXI nhằm làm rõ:
+ Những sự kiện lịch sử sôi động diễn ra ở Mianmar những năm đầu thế kỷ
XXI.
+ Tiểu sử, sự nghiệp chính trị, những cải cách của chính quyền dân sự do
Tổng thống Thein Sein đứng đầu.
+ Vai trò to lớn của Tổng thống Thein Sein trong tiến trình cải cách.
3. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Myanmar được thế giới biết đến như là một quốc gia có lịch sử lâu đời với
nền văn hóa Phật giáo đậm nét, có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng với
những con người cần cù và chịu khó và kiên cường trong cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước.Chính sách đóng cửa cùng với tình trạng bị Mỹ và phương
Tây cấm vận, trừng phạt trong một thời gian dài khiến Myanmar ít được thế giới
biết đến, kể cả khi Myanmar được công nhận là thành viên của ASEAN năm
1997. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi khi Myanmar tiến hành cải cách mở cửa
vào năm 2003và đến nay tiến trình này vẫn đang tiếp diễn, bước đầu đạt được
những kết quả khả quan. Cuộc sống của người dân Myanmar đã có sự thay đổi
và hứa hẹn một tương lai tốt đẹp hơn. Cộng đồng quốc tế đã bắt đầu chuyển
sang ủng hộ Myanmar, nhất là Mỹ và các nước phương Tây, đây là tín hiệu tốt
lành đối với Myanmar và ASEAN trong lúc Hiệp hội đang nỗ lực hiện thực hóa
Cộng đồng ASEAN (AC) vào năm 2015. Dù vậy, những thông tin về Myanmar
hiện nay vẫn chưa nhiều nhất là về cuộc cải cách mà quốc gia này đang tiến


4

hành.Vì đây là một đề tài tương đối mới nên sách tham khảo liên quan đến đề tài
hầu như rất ít.

Để có cơ sở đánh giá khách quan về một nhân vật có vai trò quan của lịch sử
Myanmar gần đây, người viết đã tìm đọc một số tài liệu nước ngoài viết khái
quát đất nước này. Trong cuốn sách in màu Burmacủa Saw Myat Yin xuất bản
năm 1990, tác giả đề cập đến hầu hết tất cả những thông tin cần thiết về “vùng
đất của những ngôi chùa”, “vùng đất nơi thời gian ngừng lại” như: Địa lý, Lịch
sử, Chính phủ, Kinh tế, Tôn giáo, Con người Myanmar. Tác giả ghi chép rõ ràng
biên niên sử Myanmar từ năm 849 khi vương quốc Pagan ra đời đến 1989 khi
Miến Điện đổi tên thành Myanmar cho người viết cái nhìn đầu tiên về
Myanmar. Theo quan điểm của tác giả, đây là một đất nước xinh đẹp, yên bình,
giàu tài nguyên với đồng bằng Irrawaddy trù phú, đồng thời đây là vùng đất của
sự đa dạng về sắc tộc với nhiều phong tục độc đáo. Tuy nhiên, tác giả dừng lại
lịch sử Myanmar ở giai đoạn chế độ quân sự lên cầm quyền từ năm 1962 và
những hạn chế của chế độ đó.
Một tài liệu quý báu khác khi tìm hiểu về lịch sử, văn hóa Myanmar là cuốn
sách Burma: literature, historiography, scholarship, language, life and
Buddhism, được Viện nghiên cứu Đông Nam Á xuất bản năm 1985 của giáo sư
Hla Pe.Giáo sư Hla Pe trải qua năm tháng tuổi thơ trong một ngôi làng nông
thôn gần Moulmein ở miền Nam Miến Điện. Ông đã học tập tại trường trung
học ở Moulmein rồi theo học Đại học tại Rangoon, nơi ông nghiên cứu văn học
Miến Điện. Sau đó, ông giành được học bổng sang Anh, nơi ông đã nhận được
một Văn bằng giáo dục tại Đại học London, đã làm phát thanh viên tiếng Miến
cho đài BBC trong những năm chiến tranh, và đã viết một luận án về văn học
Miến Điện tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi. Cũng tại Đại học
London, ông đã được trao bằng tiến sĩ. Năm 1948, ông tham gia vào đội ngũ
giảng viên dạy văn học Miến Điện của trường. Ông đã làm giáo sư tại Miến
Điện vào năm 1966, và về hưu vào năm 1980, nhiều bài báo và sách về cuộc


5


sống, văn học và ngôn ngữ Miến Điện của ông đã được xuất bản.Cuốn sách là
tập hợp các bài giảng của giáo sư, được chia thành sáu phần: Văn học, Lịch sử,
Học giả, Ngôn ngữ, Cuộc sống, và Phật giáo cung cấp một cái nhìn sâu sắc về
nền văn học, văn hóa, tín ngưỡng và lối sống của người Miến.
Burma’s lost kingdoms: splendours of Arakan của Pamela Gutman xuất bản
năm 2001 là một nghiên cứu toàn diện về lịch sử và nền văn minh của người
Arakan, hiện nay gọi là dân tộc Rakhine, một dân tộc định cư lâu đời ở
Myanmar. Trong quá khứ, người Arakan có quốc gia riêng ở phần phía Tây của
lãnh thổ Myanmar ngày nay.Cuốn sách giới thiệu trường phái của tác phẩm điêu
khắc và kiến trúc, và cung cấp chi tiết về lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật và đời
sống kinh tế và xã hội của người Arakan và khẳng định Arakan là một nhà nước
có tính quốc tế với một nền văn hóa mạnh mẽ và phức tạp.
Để cập nhật tình hình chính trị của Myanmar những năm gần đây, người viết
cũng đã tìm đọc những bài báo của các học giả nước ngoài, quan điểm của
những hãng truyền thông nổi tiếng về những thay đổi đang diễn ra ở Myanmar.
Bài viết của tác giả Thomas Fuller đăng trên Thời báo New York (New York
Times) xuất bản ngày 3/4/2012 phân tích khá đầy đủ về công cuộc cải cách mà
Myanmar đang tiến hành, nhưng đi sâu vào giải thích tại sao phe quân đội lại
đồng ý chuyển giao quyền lực cho Thein Sein đồng thời có đánh giá về tính cách
ôn hòa, mềm mỏng của vị cựu đại tướng này. Tác giả gọi Thein Sein là Mikhail
Gorbachev của Myanmar bởi những nỗ lực cải cách mà ông tiến hành đã và
đang làm thay đổi vận mệnh đất nước này.
Theo hãng tin Bloomberg, bài viết của Flavia Krause-Jackson và Daniel Ten
Kate đăng ngày 27/9/2012 cho rằng Thein Sein là người đã đem lại một diện
mạo mới cho Myanmar, rằng ông là nguời khiêm tốn nhưng có quyết tâm thầm
lặng để thực hiện chương trình cải cách của mình. Đồng thời bài viết cũng đề
cập đến mối quan hệ Thein Sein – Aung San Suu Kyi sẵn sàng hợp tác với nhau
đển đem lại nền dân chủ hoàn toàn cho Myanmar. Cùng ngày đài phát thanh



6

Radio Free Asiađăng tin về câu trả lời của Thein Sein về tương lai chính trị của
mình vào năm 2015, tán dương ông vì những cải cách kinh tế, chính trị và cho
rằng “Tổng Thống Myanmar đã dẫn dắt cuộc thiết lập cải cách chính trị và ông
cũng là người đã tạo ra sự chuyển biến này” dẫn theo lời Ko Ko Hlaing, cố vấn
cấp cao của ông, đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 2/5/2012 ở
Rangoon với cơ quan thông tấn Bloomberg. Hãng Thông tấn Anh
(Reuters)thìcho rằng mặc dù Thein Sein có quá khứ mờ nhạt nhưng ông là người
đã dẫn dắt Myanmar đến một kỷ nguyên mới của ánh sáng, sau gần 50 năm độc
tài cai trị…Đó là những quan điểm của truyền thông nước ngoài về Thein Sein
cũng như về công cuộc cải cách mà ông đang tiến hành.
Về lịch sử, văn hóa Myanmar, tài liệu trong nước có thể kể đến như:
Nguyễn Bích Liên với cuốn địa phương chí Miến Điện được cơ sở xuất bản
Phạm Quang Khải in năm 1968.Đây là tài liệu khá đầy đủ về lịch sử, văn hóa
Miến Điện vào thời điểm đó. Cuốn sách cho ta biết gốc tích của người Miến, là
tộc người chủ thể ở Myanmar, và lịch sử Miến Điện từ triều đại Pagan đến thời
kỳ theo đường lối xã hội chủ nghĩa dưới thời chính phủ Ne Win. Theo quan
điểm của tác giả, Miến Điện thực hiện chính sách ngoại giao trung lập dưới thời
Ne Win nhưng không hoàn toàn và có xu hướng thân Cộng vì dù sao Miến Điện
cũng là một nước nhỏ, nghèo nàn, dù có thiện chí cũng khó hoàn toàn trung lập.
Miến Điện thất bại với chính sách đó vì cuối cùng không thoát khỏi sự lệ thuộc
vào cường quốc láng giềng Trung Quốc. Từ đó, có thể liên hệ với công cuộc cải
cách ở thời điểm hiện tại, rút ra nguyên nhân của sự thay đổi hiện nay một phần
cũng là do Myanmar muốn thoát khỏi “cái bóng quá lớn” là Trung Quốc, xích
lại gần hơn với các nước phương Tây, tìm kiếm sự hợp tác mới thúc đẩy sự phát
triển của đất nước. Ngoài ra, tác giả cũng dành phần cuối viết về văn hóa, tôn
giáo, phong tục tập quán của người Miến giúp người đọc hình dung bức tranh
tổng thể về đất nước và con người Myanmar.



7

Xứ chùa Vàng – Tìm hiểu văn hóa Miến Điện của tác giả Vũ Quang Thiện
viết cùng Vũ Thị Oanh, Ngô Văn Doanh, Phạm Kim Hảo, xuất bản năm 1988,
Quá trình phát triển của Myanmar xuất bản năm 1997, Lịch sử Myanmar xuất
bản năm 2005…đã giúp người viết có thêm những hiểu biết về lịch sử, văn hóa
quốc gia này. Trong đó cuốn sách Quá trình phát triển của Myanmar gồm 4
chương phân chia các giai đoạn phát triển của Myanmar kể từ sau khi giành
được độc lập vào năm 1948. Chương 1: Chặng đường đầu tiên (1948 – 1962)
phân tích các tiền đề kinh tế, chính trị và đưa ra các giải pháp về phát triển, phân
tích nguyên nhân thất bại của đường lối công nghiệp hóa với kế hoạch
Pyidawtha, đồng thời chỉ ra một số vấn đề chính trị, tôn giáo ảnh hưởng đến quá
trình phát triển. Chương 2: Theo cương lĩnh đi lên chủ nghĩa xã hội (1962 –
1988) với chiến lược “tự lực cánh sinh” bắt đầu thực hiện chính sách bài phương
Tây và đóng cửa xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của đường lối ngoại giao trung
lập do chính phủ tiền nhiệm đề ra. Những hạn chế của chiến lược đó đã đưa đất
nước lâm vào tình trạng trì trệ.Bắt đầu từ những năm 70, Myanmar cũng cải
cách và vay vốn nước ngoài, thay đổi trật tự ưu tiên phát triển các ngành kinh tế
làm cho đất nước có dấu hiệu phục hồi nhưng trong thời rất ngắn ngủi. Kể từ
năm 1983, nền kinh tế bắt đầu đi xuống, khủng hoảng chính trị do các cuộc đấu
tranh chống chính quyền của nhân dân đã làm cho đất nước trượt dài trên con
đường phát triển khiến Myanmar trở thành một trong số những quốc gia kém
phát triển nhất thế giới. Chương 3: Mở cửa, cải cách. Theo tác giả, kể từ khi
SLORC1 lên nắm quyền, Myanmar đã bắt đầu mở cửa và cải cách. Chính quyền
0F

tự do, cởi mở về kinh tế nhưng cứng rắn và võ đoán trong đường lối chính trị đã
không cải thiện được tình hình đi xuống trước đó. Chương 4: Một vài nhận xét.
Sau khi xem xét toàn bộ quá trình phát triển của Myanmar tác giả đã chỉ ra năm

nhân tố kìm hãm là nguyên nhân làm cho Myanmar chậm phát triển đó là: các
State Law and Order Restoration Council – Hội đồng khôi phục Trật tự và Luật pháp Quốc gia lên cầm quyền
vào năm 1988. Tháng 7/1997 SLORC đổi tên thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang – SPDC.

1


8

lãnh tụ không có định nghĩa rõ ràng và nhất quán về chủ nghĩa xã hội, đề ra các
kế hoạch phát triển không dựa trên những tính toán thực tế, không phù hợp với
khả năng yếu kém của một quốc gia lạc hậu vừa mới giành được độc lập, hạn
chế của đường lối phát triển tự lực cánh sinh cực đoan, tình hình trong nước
không ổn định, nhược điểm trong tổ chức điều hành các quá trình sản xuất và
lưu thông…Cuối cùng, tác giả rút ra một vài kinh nghiệm cho sự phát triển trong
tương lai của đất nước này.
Còn trong cuốn Lịch sử Myanmar, tác giả Vũ Quang Thiện đã cho rằng: Lịch
sử Myanma đồng thời cũng là lịch sử của những quá trình vận động hòa hợp và
thống nhất. Mỗi thế kỷ qua đi, khác biệt với các nền văn hóa của các dân tộc
ngày càng thu hẹp, Phật giáo trở thành cốt lõi của văn hóa, kinh tế, xã hội và thể
chế thống nhất. Mọi chuyện có thể khác đi nếu không có cuộc xâm lược và
chính sách chia để trị của Anh.Từ khi giành được độc lập, người Myanmar luôn
cố gắng tìm kiếm con đường phát triển và hình thức thể chế chính trị phù hợp,
hướng tới mục tiêu ổn định, đoàn kết thống nhất.
Tài liệu trong nước liên quan đến đề tài là công trình mới nhất của Viện
nghiên cứu xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu Đông Nam Á Myanmar, cuộc cải
cách vẫn đang tiếp diễndo PGS. TS Nguyễn Duy Dũng chủ biên được trình bày
trong 3 chương.Chương 1: Khái quát về đất nước và con người Myanmar.
Chương này tập trung phân tích các điều kiện tự nhiên, đất nước, con người
Myanmar. Từ đó có sự đánh giá về các lợi thế, khó khăn, thuận lợi trong quá

trình phát triển của Myanmar trước đây, hiện nay và trong tương lai. Các tác giả
tập trung làm rõ những biến đổi qua các giai đoạn lịch sử của Myanmar: thời cổ
đại đến trước khi thực dân Anh xâm lược (năm 1885), thời kỳ thuộc địa và
phong trào dân tộc (1885- 1948), từ 1948 đến 1962 và giai đoạn từ năm 2003
đến nay.Trong chương 2: Tiến trình cải cách kinh tế, chính trị của Myanmar từ
năm 2008 đến nay, các tác giả tập trung nghiên cứu những biến đổi chủ yếu về
chính trị, kinh tế, xã hội của Myanmar từ năm 2008 đến nay và đi sâu làm rõ các


9

bước và các giải pháp tiến hành cải cách đã thực hiện ở Myanmar trong các lĩnh
vực trên. Chương 3: Dự báo xu hướng và triển vọng phát triển của Myanmar đi
sâu phân tích các lực lượng chính trị chủ yếu của Myanmar: Đảng cầm quyền –
Đảng Đoàn kết và Phát triển Liên bang (The Union Solidarity and Development
Party – USDP), Đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ - NLD, vai trò của quân
đội, vai trò của các lãnh tụ. Ngoài ra, sự cạnh tranh lợi ích của các nước lớn
trong khu vực nói chung và ở Myanmar nói riêng sẽ tác động mạnh mẽ đến sự
biến đổi của tình hình Myanmar. Trong bối cảnh hiện tại, đây là cuốn sách theo
sát từng bước đi của công cuộc cải cách tại Myanmar và có cái nhìn khách quan,
tổng quát về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội đặt trong mối quan hệ quốc tế
phức tạp. Tuy nhiên cuốn sách chủ yếu tập trung vào tiến trình cải cách của
Myanmar mà chưa tập trung vào tiểu sử, sự nghiệp chính trị và vai trò của Thein
Sein trong công cuộc cải cách.
Từ những hiểu biết được cung cấp từ những tài liệu tiêu biểu trên, người viết
có cái nhìn toàn diện hơn về lịch sử, đất nước, con người Myanmar để đánh giá
về sự phát triển mang tính đột phá của Myanmar ở thời điểm hiện tại. Trọng tâm
chính của đề tài là nghiên cứu một nhân vật lịch sử nên người viết sử dụng chủ
yếu tài liệu ngoại giao, sách trắng, các bài viết và nghiên cứu của học giả trong
ngoài nước có liên quan đến những hoạt động của nhân vật. Với đề tài nghiên

cứu: “Thein Sein và công cuộc cải cách ở Myanmar”, luận văn mong muốn làm
rõ hơn về tiểu sự, sự nghiệp chính trị của Thein Sein và khó khăn, thách thức
của công cuộc cải cách. Từ đó, đánh giá vai trò quan trọng của cá nhân Thein
Sein trong tiến trình cải cách.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổng thống Thein Sein và những cải cách của chính quyền dân sự tập trung
vào tiểu sử, sự nghiệp chính trị của nhân vật và nguyên nhân, động cơ cũng như
những khó khăn, thách thức đối với công cuộc cải cách.


10

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về lịch sử đất nước Myanmar trong những năm
cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, tương đương với thời kỳ chuyển giao quyền
lực của lực lượng quân đội kiểm soát Myanmar sang chính quyền dân sự của
Tổng thống Thein Sein, tập trung vào những sự kiện nổi bật ở nước này trong
những năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau:
5.1. Phương pháp lịch sử: là phương pháp căn bản của đề tài. Tìm kiếm tư
liệu lịch sử, bằng chứng lịch sử, tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài, tập hợp
và phân loại tài liệu phản ánh khách quan và trung thực lịch sử trên cơ sở tư liệu
lịch sử.
5.2. Phương pháp logic: là phương pháp xem xét, phân tích đánh giá các sự
kiện lịch sử liên quan đến nhân vật, những lý giải cho những hành động của
nhân vật, hay mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và lịch sử.
6. Những đóng góp của luận văn

Trên cơ sở lựa chọn, xử lý những nguồn tài liệu khác nhau: tài liệu ngoại
giao, sách trắng, các bài viết và nghiên cứu của học giả trong và ngoài nước
đăng trên các tạp chí và những hãng thông tấn uy tín, luận văn muốn khắc họa
chân dung một nhân vật lịch sử dưới góc nhìn của người Việt Nam và cuộc cải
cách đang được chính phủ dân sự của Tổng thống Thein Sein tiến hành ở
Myanmar.
Vì đây là một đề tài mang tính thời sự, đặc biệt hấp dẫn các học giả trong,
ngoài nước cũng như thu hút sự quan tâm của thế giới nên việc nghiên cứu đề tài
có đóng góp cho việc nghiên cứu, học tập lịch sử Myanmar. Luận văn cũng
mong muốn góp phần làm rõ sự ảnh hưởng, tác động của công cuộc cải cách ở
Myanmar trong các mối quan hệ khu vực và quốc tế.


11

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, luận văn
có ba chương nội dung chính:
Chương 1.Thein Sein và đất nước Myamar
Chương 2.Myanmar những năm đầu thế kỷ XXI và công cuộc cải cách
Chương 3.Vai trò của Thein Sein trong công cuộc cải cách


12

Chương 1.THEINSEIN VÀ ĐẤT NƯỚC MYANMAR
1.1. Khái quát về đất nướcMyanmar
Myanmar nằm trong lục địa Đông Nam Á, giáp với Ấn Độ ở phía Tây Bắc,
Bangladesh và vịnh Bengal ở phía Tây, biển Adaman ở phía Tây Nam, Trung
Quốc ở phía Bắc, Lào và Thái Lan ở phía Đông. Ngoài bờ biển dài 2.200 km,

Myanmar bị bao quanh bởi những dãy núi hình cánh cung, hình thành đường
biên giới tự nhiên dài gần 6.500 km với các nước láng giềng. Các dòng sông
chính là Irrawaddy, Chindwin, Salween và Sittang. Ba dòng sông này đều bắt
nguồn từ các vùng đồi núi phía Bắc , chảy dọc đất nước và đổ ra Ấn Độ Dương.
Chúng vừa là nguồn thủy lợi, vừa là đường giao thông quan trọng của Myanmar.
Với diện tích 678.000 km2, Myanmar bao gồm 7 bang: Arakan (hay Rakhine),
Chin, Kachin, Kayin, Kayah, Shan, Môn và 7 phân khu Rangoon, Mandalay,
Magwe, Sagaing, Pegu, Irrawaddy, Tenasserim, thủ đô hiện nay là Naypyidaw.
Người Môn được cho là nhóm người có mặt từ thời tiền sử xa xôi trên lãnh
thổ Myanmar, họ có thể được coi là cư dân bản địa. Địa bàn cư trú của họ ở hạ
lưu ba con sông (phía Nam). Họ đã thành lập nên một số quốc gia sơ kỳ như:
Thatơn, Pegu. Thế kỷ I trước Công nguyên, một số bộ tộc Tạng – Miến trong đó
có người Pyu và những bộ tộc liên minh với họ, rời khỏi quê hương ở sườn
Đông Nam cao nguyên Tây Tạng di cư về phương Nam, tiến vào thung lũng
thượng nguồn sông Irrawaddy lập nên các quốc gia ở miền Trung Myanmar là
Sri Ksetra. Còn ở miền Bắc, thượng lưu sông Irrawaddy là địa bàn cư trú của
người Miến, những người thuộc bộ phận chính của dòng Tạng – Miến đã di cư
đến sau nữa sống trên đồng bằng Kyokse. Năm 832, quốc gia của người Puy bị
Nam Chiếu thôn tính, trong khi đó ở miền Bắc người Miến đã di cư đến đông và
lập nên một số vùng quần cư quan trọng. Từ 19 làng ở ngã ba sông, nơi sông
Chindwind đổ vào sông Irrawaddy, quốc gia Pagan của người Miến đã ra đời.
Trong những thế kỷ tiếp theo, các quốc gia ở miền Trung và miền Nam suy
yếu vì cuộc tấn công của nước Nam Chiếu là cơ hội cho Pagan nhanh chóng


13

giành được ưu thế. Từ cuối thế kỷ X, trong triều đình Pagan diễn ra một vụ tranh
ngôi kéo dài, cuối cùng đưa đến việc năm 1044, Anawratha đã loại trừ các đối
thủ và lên làm vua, mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử Myanmar.

Vương quốc Pagan trở thành vương quốc thống nhất cả ba miền.Trong giai
đoạnAnawrathatrị vì (1044 - 1077), người Miến Điện đã mở rộng ảnh hưởng ra
khắp Myanma hiện nay bằng các cuộc chinh phạt chiếm Thatơn, Pegu làm chủ
hoàn toàn miền Nam.Sau đó, Anawratha tiến quân lên phía Bắc chinh phục được
các tiểu quốc và các bộ lạc khác của người Miến và người Shan.Thế kỷ XII là
thời kỳ vương quốc Pagan phát triển cả về lãnh thổ và về kinh tế, xã hội.Nơi
đây trở thành trung tâm Phật giáo nổi tiếng. Dưới thời vương quốc Pagan(1044
– 1287), mặc dù Myanmar được thống nhất nhưng sự thống nhất đó chỉ là tạm
thời. Các vua chúa Pagan đã dùng vũ lực đàn áp, khống chế nhiều dân tộc khác
nhau. Vì vậy, chính quyền trung ương phải đối phó với những cuộc nổi dậy của
các tộc người Môn ở phía Nam và người Shan ở miền Bắc. Năm 1277, nhà
Nguyên tấn công Pagan giành thắng lợi. Thừa cơ, người Môn ở miền Nam nổi
dậy, Arakan cũng tuyên bố tách khỏi Pagan.Năm 1283, Pagan bị quân Nguyên
tấn công lần hai và lại thua trận. Năm 1285, vua Narathyihapate đã phải cho sứ
thần sang nhà Nguyên xin thần phục và triều cống. Sự kiện này đánh dấu sự kết
thúc của thời kỳ thống nhất của Myanmar dưới triều đại Pagan.
Sau khi Pagan sụp đổ, Myanmar bị phân chia thành nhiều quốc gia nhỏ đối
địch nhau, được gọi là thời kỳ phân liệt (1287 – 1531).Miền Bắc là vương quốc
của người Shan, miền Trung là vương quốc Ava rồi đến Toungoo và các vương
quốc khác của người Môn, Pagan cũng là một tiểu quốc không hơn, không
kém.Các vương quốc này luôn xung đột thôn tính lẫn nhau.Tình trạng cát cứ và
chiến tranh kéo dài làm cho đất nước trở lên tiêu điều, hệ thống thủy lợi bị phá
hủy, nền kinh tế bị suy đồi. Chỉ có một số vùng ở Pegu, Toungoo, Ava là còn
tiếp tục phát triển. Trong số các tiểu quốc phân liệt, Ava và Toungoo là hai quốc
gia hùng mạnh hơn cả.


14

Vào nửa đầu thế kỷ XVI, vương quốc Toungoo đã trở lên hùng mạnh nhất

Myanmar. Dưới thời Tabinshwethi, một ông vua tài ba, đầy nghị lực đã tái thống
nhất Myanmar bằng các cuộc chinh phạt vương quốc Pegu của người Môn, các
quốc gia miền Nam, tấn công Arakan và vương quốc Ayuthaya của người Thái
nhưng không thành.Trong lần tấn công Ayuthaya, Tabinshwethi đã bị một thủ
lĩnh người Môn giết chết vào năm 1550. Nhưng cuộc khởi nghĩa của người Môn
đã bị Bayinnaung, em rể và là người kế vị Tabinshwethi đàn áp nhanh chóng,
sau đó Bayinnaung tiến đánh các tiểu quốc của người Shan làm chủ hoàn toàn
miền Bắc Myanmar. Thừa thắng, Bayinnaung đánh sang Chiang Mai và bắt đầu
tấn công Lan Xang trong một nửa thế kỷ.Cho đến năm 1555, Bayinnaung không
chỉ thống nhất được Myanmar mà tiếp đó còn mở rộng lãnh thổ biến Myanmar
trở thành một vương quốc hùng mạnh suốt 30 năm. Nhưng sau khi Bayinnaung
chết (1581), con ông ta là Nandabayin lên nối ngôi đã không cai trị nổi một đất
nước rộng lớn. Mâu thuẫn với nước láng giềng Ayuthaya cũng trở lên gay gắt
hơn, từ 1587 đến 1539, Nandabayin đã ba lần tấn công Ayuthaya nhưng không
đem lại kết quả gì. Trong khi đó anh em Nandabayin vẫn luôn xung đột với
nhau, một trong số đó cầm quyền ở Prome đã liên minh với Arakan tấn công và
giết Nandabayin.Vương quốc lại rơi vào tình trạng phân liệt, Arakan tách ra lập
nước riêng, miền Mactaban ở cửa sông Chindwin bị Ayuthaya chiếm.Mấy năm
sau, một trong những người con khác của Bayinnaung là Nyaungyan đang cầm
quyền ở Ava tìm cách khôi phục lại lãnh thổ và thế lực của vương quốc
Toungoo. Nyaungyan và các con, cháu ông trong vòng mười năm đầu của thế kỷ
XVII đã lần lượt thu phục các tiểu quốc Shan, Prome, Arakan, chiếm lại
Mactaban và Chiang Mai. Lãnh thổ của vương quốc sau nhiều phen tranh chấp
đã căn bản được xác lập, trừ vùng Chiang Mai (tiểu quốc Lan Na) là địa bàn
quần cư của người Thái, về sau sẽ được sáp nhập vào nước Xiêm.Năm 1635,
vua Thalun, con của Nyaungyan quyết định dời đo về Ava để tránh các cuộc
chiến tranh với các nước láng giềng, nhất là Ayuthaya.Dưới thời trị vì của ông,


15


sản xuất nông nghiệp được khôi phục, bộ máy chính quyền được cải tổ, văn hóa
có điều kiện phát triển, đồng bằng Kyokse trở thành một vùng nông nghiệp trù
phú. Trong suốt thế kỷ XVII, nhìn chung Myanmar phát triển một cách ổn định
và thịnh vượng.
Từ cuối thế kỷ XVII, người Môn nhiều lần nổi dậy chống lại triều đình, nhân
đó Ayuthaya cũng tấn công Myanmar.Tình hình này tiếp diễn mạnh mẽ trong
mấy chục năm đầu thế kỷ XVIII.Cuộc nổi dậy trong nước của người Môn, với
sự trợ giúp củaPháp, khiến vương quốc sụp đổ năm 1752.Người Miến cũng
không chịu khuất phục.Năm 1754, thủ lĩnh của người Miến đã lên ngôi và xưng
vương hiệu là Alaungpaya (1754 - 1760), đặt kinh đô ở Shwebo, mở đầu triều
đại mới mang tên Konbaung tồn tại đến năm 1885, khi Miến Điện bị thực dân
Anh xâm chiếm và đô hộ.Dù là thời kì phát triển hưng thịnh của chế độ phong
kiến, triều Konbaung vẫn phải đối phó với nhiều vấn đề phát sinh sau khi đất
nước đã được thống nhất. Trước hết là tình trạng đình đốn về thương mại và
nông nghiệp ở vùng đồng bằng Hạ Miến từng một thời phồn thịnh và là nơi cư
trú của người Môn.Là vùng có tiềm lực kinh tế to lớn và có nền văn minh phát
triển nhất, Hạ Miến giờ trở thành hoang tàn và thưa dân. Trong nước lại không
có sẵn những nguồn tài nguyên và động lực khả dĩ góp phần khôi phục lại lực
lượng sản xuất ở Hạ Miến, Trong lúc đó, lương thực sản xuất được ở miền
Thượng Miến vốn được tưới tiêu – Kyankse, Minbu và Shwebo – phần lớn được
tiêu thụ tại chỗ.
Trong những điều kiện trên, hoạt động thương mại – cả nội thương lẫn ngoại
thương – không thể phát triển được, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là bôngsang
Ấn Độ qua ngõ Arakan. Nhưng do chính sách thuế má nặng nề của nhà vua,
không một cá nhân nào muốn mở rộng ngành sản xuất này. Nhà vua và giới
quan lại, địa chủ sở hữu đại bộ phận đất đai trong nước. Nông dân phải lĩnh canh
để có đủ đất sản xuất, họ phải nộp nhiều thứ thuế và chịu một chế độ lao dịch hà



16

khắc. Thuế thường chiếm gần nửa số thu hoạch và được thu bằng sản vật hoặc
bằng tiền, ngoài ra, còn thêm các khoản thuế phong kiến khác.
Vấn đề dân tộc luôn là nguồn gây không ít khó khăn cho giới thống trị và đặt
quan hệ giữa các dân tộc trong tình trạng căng thẳng. Dưới triều Konbaung,
chính mối hiềm khích dai dẳng giữa người Miến đang chiếm địa vị thống trị và
các dân tộc Shan, Môn...đã đẩy đất nước vào cảnh xung đột kéo dài với hai nước
lân bang là Trung Quốc và Xiêm. Từ năm 1776 đến năm 1795, Miến Điện đã
phải chống trả bốn cuộc tiến công liên tiếp phát xuất từ Trung Quốc nhằm bảo
vệ chủ quyền đối với phần lãnh thổ cư trú của người Shan.
Giữa Miến Điện và Xiêm đã xuất hiện quan hệ thù địch vì cả hai đều muốn
giành ưu thế ở phần phía Bắc và Đông Nam bán đảo Trung Ấn, nghĩa là vùng
lãnh thổ của người Shan, các tiểu quốc Lào và vùng bờ biển Tenasserim. Quân
đội hai nước đã thường xuyên giao tranh suốt từ năm 1760 đến giữa thế kỉ
XIX.Những cuộc chiến tranh trên đã gây nhiều thiệt hại về người và của cho
nhân dân và đã làm những mâu thuẫn nội tại của chế độ phong kiến thêm gay
gắt. Thêm vào đó, dưới thời vua Bodawpaya (1782 - 1819), nhân dân bị huy
động vào việc xây dựng chùa chiền, đền đài, thành lũy,... nhất là kinh đô mới
Amarapura, nằm cách Ava không xa. Tất cả công việc xây dựng này đòi hỏi một
lực lượng lao động lớn đè nặng lên vùng Thượng Miến và tộc người Môn đến
mức làm cơ cấu xã hội bị rạn nứt. Nhưng chính cuộc xung đột với thực dân Anh
kéo dài từ năm 1824 đã đẩy chế độ quân chủ Konbaung đến chỗ cáo chung.Trải
qua ba cuộc chiến tranh Anh – Miến, năm 1885 Myanmar trở thành thuộc địa
của thực dân Anh.
Sau khi chiếm được Miến Điện, Anh không tiến hành lập bộ máy cai trị gián
tiếp ở đây giống như các thuộc địa khác (trừ vùng sinh sống của một số dân tộc
ít người: Shan, Karen…) mà tiến hành cai trị trực tiếp trên phần lãnh thổ chính,
nơi sinh sống của người Miến là khối dân cư đồng nhất về dân tộc, văn hóa, tôn
giáo.



17

Phong trào giải phóng dân tộc ở Miến Điện không khởi đầu bằng đấu tranh
chính trị hay vũ trang mà là đấu tranh tư tưởng. Không giống như Việt Nam,
những bước phát triển của phong trào giải phóng dân tộc kiểu mới ở Miến Điện
tương đối dè dặt và không gắn bó với các cuộc khởi nghĩa của nông dân (các
cuộc khởi nghĩa của nông dân và của bộ phận phong kiến không chịu khuất phục
diễn ra trong các năm 1906, 1907, 1910, 1912). Năm 1897, tổ chức đầu tiên bảo
vệ Phật giáo ra đời ở Mandalay, với tên gọi “Buddha Sasana Noggaha” (Hội
Phật giáo). Không lâu sau đó, những tổ chức tương tự lần lượt xuất hiện ở thành
phố khác: “Hội Asoka” ở Bassein năm 1902, “Hiệp hội Phật giáo” ở trường Đại
học Rangoon năm 1904. Tổ chức toàn Miến đầu tiên – Hiệp hội thanh niên Phật
giáo (Young Men's Buddhist Assocation – YMBA) – đã được thành lập năm
1906 tại Rangoon. Được đa số dân tin theo, Phật giáo trở thành ngọn cờ duy
nhất có thể đoàn kết toàn thể người dân không phân biệt giai cấp và dân tộc.
Đoàn kết dưới khẩu hiệu "Trong sạch hoá Phật giáo" là bước khởi đầu của sự
thống nhất chống thực dân và cũng là đặc điểm của tình hình chính trị ở Miến
Điện trong nhiều thập niên sau đó.
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, ở Miến Điện đã diễn ra
một phong trào chống thực dân trên quy mô cả nước chịu ảnh hưởng từ chính
sách, phương pháp đấu tranh của Đảng Quốc Đại (Ấn Độ). Trong quá trình đấu
tranh, YMBA từ một tổ chức khai sáng tôn giáo chuyển thành một tổ chức chính
trị. Tại Hội nghị đặc biệt được tổ chức vào tháng 9/1920, YMBA đổi tên thành
Đại hội đồng các Hiệp hội Miến Điện (General Council of Burmese Association
– GCBA).Từ đó cho đến năm 1924, một tác giả người Miến viết rằng tình hình
chính trị Miến Điện là cả một “làn sóng dân tộc chủ nghĩa, mạnh chưa từng thấy
kể từ sau khi đất nước bị Anh chiếm”.Tình hình đó một mặt khiến Anh phải
nhượng bộ, mặt khác tranh thủ lôi kéo những phần tử GCBA ôn hòa nhằm phân

hóa tổ chức này.


18

Một nét mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở Miến Điện sau chiến tranh
là diễn ra các cuộc bãi công. Tháng 8/1928 diễn ra cuộc bãi công đầu tiên của
công nhân bốc vác người Ấn ở cảng Rangoon đòi tăng lương. Năm 1919, nhân
viên “Burma Oil Company” ở miền Trung Miến Điện cũng bãi công đòi tăng
lương.Điều đáng chú ý là cuộc bãi công lần này diễn ra trong ngành khai thác
dầu – ngành công nghiệp nặng uy tín nhất trong nước, cũng là ngành quy tụ số
công nhân phần lớn là người Miến.Trong những năm 1920 - 1922, đã diễn ra
không dưới 14 cuộc bãi công của công nhân với số người tham gia lên đến gần
35.000.
Trong những năm 1924 – 1929, phong trào bãi công tiếp tục phát triển, đặc
biệt ở vùng mỏ dầu Trung bộ Miến Điện. Các cuộc bãi công năm 1923 ở đây đã
thu hút sự tham gia của 6.500 công nhân và kéo dài đến gần 5 tháng. Đây là
cuộc bãi công lớn nhất tính từ khi phong trào công nhân xuất hiện cho đến cuối
năm 1930.Tuy nhiên, cuộc bãi công không thành công lắm.Năm 1926, công
nhân dầu mỏ lại bãi công, lần này số người tham dự khoảng từ 4.000 đến
10.000.
Trong những năm khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, tình cảnh người nông
dân ngày càng trở nên bi đát, ruộng đất rơi vào tay địa chủ, nạn thất nghiệp tràn
lan. Chiếm vị trí nổi bật trong thời gian này là cuộc khởi nghĩa của nông dân
Saya San (hay còn gọi là cuộc khởi nghĩa Tharrawaddy) trong những năm 1930
– 1932 diễn ra với một quy mô lớn hơn cuộc khởi nghĩa tương tự ở các nước
Đông Nam Á láng giềng. Bên cạnh đó, còn có các cuộc đấu tranh chính trị hợp
pháp kéo dài trong suốt một thời gian khá lâu xoay quanh quy chế hiến pháp của
đất nước và quan hệ với Ấn Độ.
Những năm khủng hoảng kinh tế còn chứng kiến sự tan rã của các lực lượng

chính trị cũ và sự ra đời của những lực lượng chính trị mới, tiêu biểu là
Dohbama Asiayone (Hiệp hội Miến Điện của chúng ta), xuất hiện năm 1930 ở
Rangoon. Lúc đầu, đây là một nhóm nhỏ gồm những nhà trí thức yêu nước, có


19

trình độ học vấn đại học, nuôi quyết tâm giành lại độc lập cho đất nước từ tay
ngoại bang. Thành viên của nhóm gọi nhau bằng "Thakin" (ông chủ) nhằm cho
thấy chính người Miến, chứ không phải là người nước ngoài, là chủ nhân thực
sự của Miến Điện.Về sau, từ “Thakin” gắn liền vào tên những thành viên của tổ
chức.Trong những năm 1930 - 1932, hoạt động của những người Thakin còn
giới hạn trong khuôn viên trường đại học Rangoon.Từ năm 1933 - 1934, họ bắt
đầu “đi vào nhân dân”, tiến hành các cuộc hội họp nhằm vận động tuyên truyền
cho mục tiêu đánh đuổi thực dân Anh giành lại độc lập dân tộc.
Dưới ảnh hưởng của Dohbama Asiayone, một cao trào giải phóng dân tộc đã
diễn ra mạnh mẽ ở Miến Điện.Năm 1935, những người Thakin cánh tả đã thành
lập “Hiệp hội viên chức ngành dầu lửa”, tiến hành công tác vận động và tuyên
truyền trong công nhân.Họ đã quy tụ được nhiều tổ chức công đoàn dầu
lửa.Những người Thakin cánh tả còn giành được ảnh hưởng đáng kể trong nông
dân, Aung San trở thành lãnh tụ xuất sắc của những người Thakin.Đảng cộng
sản Miến Điện ra đời ngày 15/8/1939 tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra, Nhật nhảy vào xâm lược Miến Điện
(bắt đầu từ ngày 15/12/1941, đến tháng 5/1942 Nhật làm chủ hầu hết Miến
Điện) giành quyền lợi với Anh.Để đánh đuổi phát xít Nhật, đại diện các phe
kháng chiến quyết định thành lập “Liên minh nhân dân Tự do chống phát xít”
(Anti Fascist People's Freedom League – AFPFL) vào tháng 8/1944, Aung San
được bầu làm chủ tịch. AFPFL đã phối hợp với BNA (Burma National Army –
Quân đội Quốc gia Miến Điện do Ne Win làm Tư lệnh) và quân Anh chống lại

phát xít Nhật giành thắng lợi. Anh âm mưu lập lại ách thống trị ở đây nhưng
trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, Anh đã phải ký hiệp ước
London trao trả độc lập cho Miến Điện vào ngày 17/10/1947.Trải qua hơn nửa
thế kỷ đấu tranh, cuối cùng nhân dân Miến Điện đã giành được độc lập. Ngày
4/1/1948, lễ trao trả độc lập đã được cử hành long trọng ở thủ đô Rangoon.


20

Trong những năm tháng sôi động đó của lịch sử Myanmar, ở làng Kyonku
nằm sâu trong thung lũng Irrawaddy, có một cậu bé đã ra đời mà số phận của
cậu bé đó sau này gắn chặt với số phận của dân tộc Myanmar: Thein Sein.
1.2. U Thein Sein – những năm tháng trước cải cách
Làng Kyonku như vọng lại từ một thế kỷ khác, ngôi nhà làm bằng gỗ ở
Kyonku nơi Thein Sein đã lớn lên ở đó vẫn còn đứng sừng sững. Đối lập với
những đại lộ 8 làn đường và những tòa nhà cao tầng ở thủ đô Naypyidaw là
những con đường đầy đất bẩn và những ngôi nhà lụp xụp, không có điện và
cũng không có nước sạch. Làng Kyonku nằm trên vùng châu thổ sông
Irrawaddy, con sông được coi là mạch máu nuôi sống đất nước Myanmarlà nơi
chứng kiến biết bao thăng trầm lịch sử và là một biểu tượng của quốc gia Đông
Nam Á này đã sản sinh ra một con người vĩ đại đang làm “thay da đổi thịt” một
đất nước vốn chịu nhiều “vết thương” trong gần một nửa thế kỷ dưới sự cầm
quyền của chế độ quân sự. Hiện nay, một trong những diễn biến nổi bật trên
bình diện quốc tế là những cải cách đáng kể của chính quyền Thein Sein hướng
tới một nền dân chủ thực sự đang nhận được rất nhiều sự quan tâm từ cộng đồng
quốc tế.
Nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc, hai quốc gia đông dân có thị trường lớn trên
thế giới, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú bậc nhất Đông Nam Á còn
chưa khai thác, là quốc gia có chiều Bắc - Nam dài nhất Đông Nam Á và cũng là
con đường bộ gần nhất tiếp cận những vùng du lịch nổi tiếng đặc sắc của

Phương Đông như Bhutan, Tây Tạng…Myanmar là lời hứa hẹn cho một lục địa
năng động và phát triển nhanh nhất thế giới. “Đó là lý do vì sao mà những gì
xảy ra ở đây lại quan trọng đến như vậy – không chỉ đối với khu vực này mà còn
đối với cả thế giới”2.
1F

Cuộc bầu cử ở Myanmar tháng 4/2012 đã biến bà Aung San Suu Kyi từ một
người tù, một nhà chính trị đối lập, một biểu tượng của dân chủ thành một nhà
Dẫn theo lời bình luận của Tổng thống Mỹ Barack Obama hồi tháng 11/2012 khi ông tới thăm Myanmar.

2


21

lập pháp trong một thể chế dân chủ vừa manh nha. Con đường của bà gần như
tái hiện cuộc đời của nhà cách mạng huyền thoại, “người tù thế kỷ” Nelson
Mandela ở Nam Phi và nhân loại hạnh phúc có những con người vĩ đại như thế.
Nhưng còn có những con người khác đã dũng cảm từ bỏ đặc quyền đặc lợi, từ
bỏ cả một hệ ý thức mà họ đã theo đuổi gần trọn đời để bước vào con đường cải
cách, đem lại tự do và phẩm giá cho người dân nước mình. Ở Nam Phi, đó là
Frederik Willam De Klerk, sau khi trở thành Tổng thống vào tháng 9/1989 thay
thế chế độ độc tài trước đó, ông đã cải cách để từng bước xóa bỏ chế độ phân
biệt chủng tộc Apartheid. Việc ông trả tự do cho những tù nhân da màu, trong số
đó cóNelson Mandela, hợp pháp hóaĐại hội Dân tộc Phi(ANC) và thương lượng
để ANC từ bỏ phương pháp đấu tranh bạo động mà chuyển sang đấu tranh dân
chủ, hòa bình cũng như lập hiến pháp mới, đã làm thay đổi cả nước Nam
Phi.Còn ở Myanmar, nhân vật đã và đang đưa đất nước từ “bóng tối” bước vào
“kỷ nguyên ánh sáng”, đó là Tổng thống đương nhiệm U Thein Sein.
Thein Sein sinh ngày 20/4/1945 tại Kyonku, ngôi làng hẻo lánh cách Rangoon

6 giờ chạy xe, có bố là Maung Phyo và mẹ là Daw Khin Nyunt. Ông là con út
trong gia đình có ba người con. Cha của Thein Sein làm nghề dệt chiếu và bốc
dỡ hàng chở qua sông để kiếm sống, mẹ là người bán hàng nước trong làng, ông
được dân làng nhớ tới là một người thật thà và hiếu học.Gia đình ông thuộc diện
nghèo khó, giống như rất nhiều gia đình ở Myanmar dưới thời thuộc địa Anh,
việc đi học đại học là điều khó khăn. Nhưng Thein Sein đã vượt qua được kỳ thi
của Học viện Quân chủng Quốc phòng, và năm 1965 đã bắt đầu một sự nghiệp
quân sự kéo dài 45 năm để rồi kết thúc khi ông rút lui với tư cách là vị tướng cao
cấp thứ tư của nước này và sau đó đảm nhận chức Tổng thống dân sự vào tháng
3/2011.
Thein Sein tốt nghiệp Cử nhân khóa 9 tại Học viện Quân sự vào năm 1968 và
trở thành Thiếu úy ngay sau đó. Là một sĩ quan trẻ trong những năm 1970, ông
đã được gửi đến miền Bắc Myanmar tham gia chiến dịch quân sự chống lại cuộc


×