Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

nghiên cứu và tìm hiểu công cuộc cải cách tài chính công ở nước ta trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.37 KB, 32 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cải cách hành chính là một quá trình tiến hành những sửa đổi, cải tiến mang
tính cơ bản và có hệ thống đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Tuỳ
theo điều kiện cụ thể của mỗi nước và trong từng thời kỳ, nội dung của cải cách hành
chính có phạm vi và mức độ khác nhau Ở nước ta, công cuộc cải cách hành chính
bắt đầu được triển khai từ khoảng giữa những năm 90 thế kỷ XX với sự ra đời của
Nghị quyết 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ. Thực tế cho thấy chỉ có thể thực
hiện cải cách hành chính thành công khi tiến hành đồng thời với việc cải cách tài
chính công.
Mối quan hệ khăng khít giữa cải cách hành chính và cải cách tài chính công thể
hiện ở các mặt sau: việc thực thi hoạt động của bộ máy nhà nước gắn liền với cơ chế
tài chính hỗ trợ cho các hoạt động đó; việc phân cấp quản lý hành chính phải tương
ứng với sự phân cấp quản lý ngân sách nhà nước để đảm bảo kinh phí cho hoạt động
có hiệu quả ở mỗi cấp; các cấp chính quyền trong bộ máy hành chính đều có trách
nhiệm và quyền hạn có ý nghĩa quyết định trong quản lý tài chính công ở phạm vi
quản lý của mình; các thể chế về tài chính công có tác dụng chi phối hoạt động của các
cơ quan nhà nước chủ trương của Chính phủ; tỷ trọng và cơ chế chi tiêu kinh phí ngân
sách để trả lương cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước có tác động
quan trọng đến việc phát huy năng lực của cán bộ, công chức trong công tác; thông
qua tài chính công, nhà nước thực hiện giám sát bằng đồng tiền đối với mọi hoạt động
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Với những luận điểm như trên, việc nghiên cứu và tìm hiểu công cuộc cải cách
tài chính công ở nước ta trong thời gian qua thông qua đề tài tiểu luận “ “ nhằm làm rõ
những thành quả đạt được cũng như những mặt tồn tại của đề án. Qua đó, chúng em đi
đến những kết luận và đề xuất dựa trên chiến lược tài chính quốc gia đến năm 2020, đề
ra những giải pháp khắc phục các tồn tại, những kiến nghị đối với các cơ quan hữu
trách nhằm góp một phần công sức đưa đề án cải cách hành chính nói chung và đề án
cải cách tài chính công nói riêng được thực hiện một cách thành công nhất.
Do thời gian và khả năng nghiên cứu của nhóm còn hạn chế, bài tiểu luận chưa
thể đề cập hết đến các khía cạnh của vấn đề và còn nhiều sơ sót nhất định, các giải
pháp đưa ra chưa đầy đủ và mang tính chủ quan, rất mong được sự đóng góp ý kiến


của Cô để bài tiểu luận được hoàn thiện và mang tính thực tiễn cao hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH TÀI
CHÍNH CÔNG
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính công
1.1.1 Khái niệm và bản chất của tài chính công
Khái niệm tài chính công
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu chi bằng tiền do nhà nước tiến hành,
nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng
các quỹ công,nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng của nhà nước và đáp ứng
các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.

1.1.1. Bản chất tài chính công
Bản chất của tài chính công là các hoạt động thu, chi của nhà nước, các chế tài
phân bổ nguồn lực của các chủ thể công quyền thể hiện dưới hình thức tiền tệ và gắn
với các quỹ tiền tệ được hình thành, và sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu chung của nhà
nước trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
1.1.2. Vai trò, đặc điểm của tài chính công
Vai trò tài chính công
 Là công cụ để chuyển giao hội nhập các nguồn lực tài chính, công nghệ, kỹ
thuật, và nguồn nhân lực của các quốc gia trên thế giới.
 Thiết lập thể chế, hành lang pháp lý để các quốc gia tiến hành các hoạt động
trong môi trường bình đẳng hòa nhập vào nền kinh tế toàn cầu
Là động lực thúc đẩy sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính quốc gia, góp phần hạn chế
rủi ro về chính trị trong các mối quan hệ tài chính quốc tế và đầu tư quốc tế ngày càng
tăng trưởng
2
Đặc điểm tài chính công
 Phạm vi của hoạt động tài chính công rộng lớn trong nền kinh tế hội nhập. Vai

trò quản lý kinh tế của nhà nước, có thể nói, đã phát huy đến mức độ cao
 Thu chi của tài chính công chủ yếu là thông qua các đạo luật về ngân sách quốc
gia, đạo luật thuế, đạo luật hiệp ước tài chính tiền tệ vừa mang tính chất cưỡng chế vừa
mang tính chất tự nguyện.
 Tài chính công mang tính chất hiệu quả và công bằng nhằm bù đắp tổn thất và
sửa chửa khuyết tật của kinh tế thị trường
1.2.
1. Giới thiệu về đề án cải cách tài chính công ở nước ta
1.2.1 Sự cần thiết phải cải cách Tài chính công
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cải cách tài chính công là một đòi hỏi khách
quan và phù hợp với các điều kiện đảm bảo tính khả thi của cải cách.
Đối với thực trạng tài chính công hiện nay, bên cạnh một số kết quả bước đầu đạt
được, tài chính công vẫn còn những hạn chế cần sớm khắc phục, đó là:
 Đối với lĩnh vực NSNN: bố trí ngân sách còn bị động, co kéo với các mục tiêu
ngắn hạn, cơ cấu chi ngân sách còn bất hợp lý. Việc phân bổ, quản lý và sử dụng ngân
sách còn kém hiệu quả, sử dụng lãng phí.
 Đối với tài chính của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp: định mức, chế
độ chi tiêu lạc hậu, thiếu cụ thể, không đồng bộ. Chưa tạo động lực khuyến khích sử
dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí khá phổ biến.
 Xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính Nhà Nước và những thể chế mới về
NSNN cũng đặt ra yêu cầu cải cách tài chính công một cách cấp thiết.
1.2.2 Mục tiêu cải cách tài chính công
Với tư cách là một công cụ của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc
thực hiện phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công, nên vấn đề xuyên suốt của
đề án cải cách tài chính công phải thực hiện 3 mục tiêu chiến lược:
3
 Thứ nhất, tăng cường tiềm lực tài chính công; đồng thời tôn trọng kỳ luật tài
chính tổng thể trong chi tiêu công để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế bền vững và đẩy mạnh tốc độ giảm nghèo. Theo chiến lược phát triển tài chính giai
đoạn 2001 – 2020, trong sự cân đối với các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì quy

mô tổng thể chi tiêu công của Việt Nam phải ở mức 24 – 25% GDP, trong đó chi đầu
tư phát triển chiếm 25 đến 28%, chi trả nợ 17 – 18%, khống chế mức bội chi NSNN ở
mức 4-5% GDP, bù đắp bội chi NSNN bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP
và vay nước ngoài khoảng 1-1,5% GDP.
 Thứ hai, thiết lập cơ chế phân phối nguồn lực tài chính phù hợp các mục tiêu ưu
tiên của chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo, ổn định môi trường bền vững và đảm
bảo công bằng xã hội, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
 Thứ ba, nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch trong quản lý chi tiêu công, đảm
bảo tính hiệu quả và hiệu lức của những chương trình cung cấp hàng hóa công cho xã
hội, chi tiêu công thực sự trở thành thước đo năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế xã hội
của Nhà nước
1.2.3 Quan điểm cải cách tài chính công
Để phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công có hiệu quả, cung cấp cho xã
hội các loại hàng hóa công thiết yếu và đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu ưu tiên
của chiến lược về kinh tế, chính trị của nhà nước, Nhà nước nhất thiết phải tiến hành
chiến lược cải cách quản lý tài chính công một cách toàn diện dựa trên các quan điểm
sau:
• Đổi mới chính sách tài chính công phải đặt trong bối cảnh cách cách hành chính
tổng thể và nâng cao năng lực quản lý của Chính phủ
Tính hiệu quả của quản lý tài chính công phụ thuộc nhiều vào năng lực quản lý của
nhà nước và hoạt động của khu vực công. Trong từng công đoạn của quy trình quản lý
chi tiêu công đều thể hiện năng lực quản lý của Nhà nước. Ở nhiều nước đang phát
triển, do năng lực quản lý của nhà nước yếu kém và khu vực công không năng động đã
dẫn đến sự thất bại trong việc gắn kết chính sách, lập kế hoạch và lập ngân sách nhà
nước. Hậu quả là, nguồn lực tài chính công bị phân phối sai lệch, sử dụng không hiệu
quả.
4
Với quan điểm này, yêu cầu nhà nước phải làm rõ vai trò quản lý của mình phù
hợp với năng lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế cụ thể là phải xây dựng các thể

chế nhằm tạo ra một khu vực công năng động, bao gồm tăng cường xây dựng các thể
chế về chính sách, chính quyền có khả năng xây dựng và phối hợp chính sách trong
việc lựa chọn mục tiêu chiến lược; phân bổ nguồn lực gắn kết với kế hoạch và chính
sách; thực hiện kiểm soát và đánh giá các kết quả hoạt động; công chức phải có động
cơ và năng lực quản lý tốt; ngắn chặn nạn tham nhũng….
Có thể mô tả mối quan hệ giữa quản lý chi tiêu công và quản lý của nhà nước qua
sơ đồ sau:

• Đổi mới chính sách tài chính công phải dựa trên hệ thống các nguyên lý quản lý
tài chính tốt, bao gồm:
- Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính
Tính tổng thể đòi hỏi chính phủ phải nắm bắt toàn diện những vấn đề đang tồn tại
của quản lý chi tiêu công, hiểu biết tất cả những mối liên kết và đánh giá những trở lực
thuộc về định chế, sau đó tìm ra những điểm tiếp cận thích hợp để đẩy mạnh quá trình
cải cách chi tiêu công theo từng giai đoạn phát triển. Trong chi tiêu công, các quyết
định chi tiêu được đưa ra phải dựa vào cơ sở kỷ luật tài chính và có sự cạnh tranh,
đánh đổi giữa các nhu cầu với nhau. Để kiểm soát tài chính có kết quả, yêu cầu trong
5
Thiết lập
chính sách
(1)
Đánh giá chính
sách (6)
ánh giá k t Đ ế
quả
(5)
Kiểm soát sự
tiến triển (4)
Phân bổ nguồn
lực (2)

Đánh giá kết
quả (5)
Thực hiện các
hoạt động (3)
soạn lập Luật ngân sách Nhà nước là cần đánh giá nguồn lực tổng thể và chọn lựa các
công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm đạt mục tiêu đã lựa chọn. Điều này
cũng có nghĩa là để quản lý chi tiêu công tốt, các quyết định đầu tư và chi thường
xuyên cần phải được gắn kết. Tính kỷ luật tài chính tổng thể đi đôi với nó là tính tiết
kiệm và hàm ý rằng ngân sách Nhà nước chỉ nên tập trung những nguồn lực vừa đủ ở
mức cần thiết để thực hiện tốt các ưu tiên chiến lược của Chính phủ.
- Tính linh hoạt, tính tiên liệu và tính trung thực.
Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho người quản lý trung việc ra quyết định
phân bổ nguồn lực. Tính tiên liệu đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính
sách và chương trình có hiệu quả và hiệu lực. Kinh tế vĩ mô càng ổn định và mọi hoạt
động của Chính phủ được thể chế hóa dựa theo chiến lược minh bạch có sự cân đối
giữa ngắn hạn và dài hạn, thì khu vực công càng thực hịên tốt hơn chức năng cung cấp
hàng hóa công cho xã hội.
1.3. Nội dung cải cách tài chính công
Điểm quan trọng trong của đề án là tái cấu trúc khu vực công thông qua đẩy mạnh
thực hiện các chính sách cổ phần hóa DNNN, tự do hóa kinh tế, xã hội hóa các họat
động cung cấp hàng hóa công. Mục đích của biện pháp này là nhằm hướng vào xác lập
lại quy mô khu vực công, phạm vi can thiệp của nhà nước vào nền kinh te cho phù hợp
với năng lực quản lý và mức độ chi tiêu công tương ứng với từng hòan cảnh kinh tế cụ
thể. Hiện tại sự cung cấp hàng hóa công đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn:
• Mâu thuẫn giữa phạm vi cung cấp hàng hóa công quá rộng lớn trong khi nguồn
lực tài chính công thì còn hạn hẹp
• Mâu thuẫn giữa đơn vị cung cấp hàng hóa công còn nhỏ bé, chất lượng hàng
hóa kém, với nhu cầu ngày càng tăng về số lượng, chất luợng, chủng loại đa dạng về
hàng hóa công của xã hội
Trong khi đó, các đơn vị cung cấp hàng hóa công ở khu vực tư nhân còn nhỏ bé,

non kém, chưa tương xứng với tiềm lực to lớn của xã hội, các tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước. Như vậy, nếu không đẩy mạnh cải cách khu vực công một cách kiên
quyết, sẽ làm suy yếu vai trò của nhà nước, không khơi dậy đuơc nguồn lực của khu
vực tư nhân phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế.
6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH TÀI CHÍNH
CÔNG Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2011
2.1. Lộ trình cải cách Thuế
 Cải cách Thuế bước 1 (giai đoạn 1990-1995).
Cải cách thuế bước 1 của Việt Nam có thể được coi là bắt đầu kể từ năm 1989
cùng với cuộc cải cách giá cả nhưng trên thực tế nhiều công trình nghiên cứu đồng ý
lấy thời điểm năm 1990 làm năm bắt đầu cải cách. Điều này do những chuyển biến
thực về mặt tư duy thực hiện trong việc thay thế những sắc thuế không còn phù hợp
bằng các sắc thuế mới, chỉ được tiến hành từ năm 1990 trở đi.
 Sự cần thiết phải cải cách thuế.
Những sắc thuế cũ không còn phù hợp, tồn tại một số cơ chế mang tính phân
biệt đối xử. Những tồn tại này của hệ thống thuế ngày càng ảnh hưởng đến sự phát
triển của nền kinh tế đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa, sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó cần thiết phải thay đổi hệ thống
sắc thuế cũ nhằm phù hợp với nền kinh tế đa thành phần bằng việc thiết lập nền tảng
cơ bản cho khối kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là khuyến khích cá nhân bỏ vốn
kinh doanh.
 Mục tiêu cải cách thuế.
- Phải làm cho thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Thuế phải là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
- Thuế phải đảm bảo sự bình đẳng giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh
cũng như các thành phần kinh tế khác, điều tiết thu nhập, góp phần thực hiện công
bằng xã hội giữa các tầng lớp dân cư.
- Thuế phải có tính pháp lý cao.

 Lộ trình cải cách thuế.
7
Cụ thể hóa các tư tưởng chỉ đạo cải cách thuế như đã nêu, Việt Nam đã có những
nỗ lực đổi mới nhất định. Lộ trình cải cách thuế Việt Nam bước 1 được thể hiện như
sau:
Tháng 10/1990, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ra đời thay cho thuế hàng hóa. Cùng
trong tháng này, Việt Nam bắt đầu áp dụng thuế doanh thu thay cho thuế kinh doanh
kiểu cũ.
Đối với khu vực kinh tế phi Nhà nước, từ tháng 10/1990 đã chuyển sang áp dụng
thuế lợi tức kinh doanh. Loại thuế này được áp dụng cho khu vực kinh tế Nhà nước bắt
đầu từ tháng 1/1991.
Tháng 4/1991, Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được ban
hành.
Tháng 3/1992, Việt Nam cho sửa đổi, bổ sung một cách đáng kể các loại thuế kinh
doanh và ban hành Pháp lệnh thuế tài nguyên.
Những thay đổi trong luật thuế sử dụng đất nộng nghiệp được chính thức hóa vào
năm 1993 và được triển khai áp dụng rộng rãi.
Những thay đổi nói trên không nằm ngoài các mục tiêu cải cách đã đề ra. Kết quả
cải cách thuế bước 1 cho thấy rằng đây là một hướng đi đúng, phù hợp với xu thế phát
triển, tuy gặp không ít khó khăn và kết quả đạt được còn có những hạn chế nhất định.
Kết thức cải cách thuế bước thứ nhất, hệ thống thuế Việt Nam về cơ bản bao gồm
12 sắc thuế lớn và một số loại phí, lệ phí được trình bày trong bảng dưới đây, trong đó
một số loại thuế trở thành nguồn thu chủ lực lúc bấy giờ là thuế doanh thu, thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế lợi tức. Một số loại thuế mới hình
thành trong kỳ cùng với sự xuất hiện của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được coi là tiến bộ vào đời điểm ấy nhưng trên thực tế ít phát huy tác dụng, điển hình
là thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Thuế lợi tức tuy được coi là nguồn thu chủ
yếu nhưng đối với khu vực kinh tế nước ngoài vẫn chưa thể thu được như mong đợi,
do phần lớn các dự án đầu tư đều dang nằm trong thời kỳ ưu đãi về thuế.
Bảng: Kết cấu hệ thống thuế trong cải cách bước 1

STT Loại thuế Năm ban hành
1
2
3
4
5
6
Thuế doanh thu
Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế lợi tức
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao
1990
1990
1991
1990
1990
1993
8
7
8
9
10
11
12
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế nhà đất
Thuế chuyển quyền sử dụng đất
Thuế tài nguyên

Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
Thuế môn bài
Thuế sát sinh
1992
1994
1990
1987
1991
1991
Ngày nay, khi nhìn nhận kết quả cải cách thuế bước 1, hầu hết mọi người đều
không phủ nhận kết quả tiến bộ của những nỗ lực này. Đánh giá kết quả về cải cách
thuế bước 1, công trình nghiên cứu về lịch sử tài chính Việt Nam do viện Nghiên cứu
Tài chính (Bộ Tài chính).
Tuy mức độ đạt được của từng mục tiêu cải cách khác nhau nhưng về cơ bản việc
cải cách thuế bước 1 đã mang lại kết quả nhất định: Thuế bước đầu đã phát huy vai trò
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nguồn thu ngày càng to lớn cho ngân sách Nhà nước.
Cải cách thuế bước 1 đã làm cho thuế có cơ sở Pháp luật vững chắc, áp dụng bình
đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thay thế hẳn hệ thống thu
cũ, chủ yếu là thu quốc doanh, dựa chủ yếu trên những văn bản dưới luật và các pháp
lệnh (Hồ Xuân Hương và Nguyễn Công Nghiệp, 2001).
 Cải cách Thuế bước 2 (giai đoạn 1996-2004).
 Sự cần thiết phải cải cách thuế
Tuy được coi là tiến bộ, nhưng kết quả của cải cách bước 1 cho thấy vẫn còn
những bất cập nhất định. Các sắc thuế, dù đã được sửa đổi, bổ sung, vẫn chưa đạt được
mục tiêu đơn giản và rõ ràng. Hệ thống chính sách thuế còn chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế, và chưa đảm bảo được tính tương thích với các nền kinh tế thị trường trong
khu vực. Tình hình nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi đáng kể và đang tăng trưởng
nhanh chóng khi Việt Nam bước đầu tham gia vào các hiệp định thương mại Quốc tế
và song phương, và đang nỗ lực đàm phán gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới
WTO. Chính điều này đã trở thành những tiền đề quan trọng đưa hệ thống thuế Việt

Nam vào bước cải cách thuế thứ hai.
 Mục tiêu cải cách thuế.
Một là, cải cách thuế phải nhằm mục tiêu tiếp tục khắc phục cho được những
khiếm khuyết hiện hành, và đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ Công nghiệp hóa-
hiện đại hóa theo chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010.
9
Hai là, về mục tiêu ngân sách, cải cách thuế không được làm giảm thu ngân sách
hang năm. Điều này đòi hỏi ở một số loại thuế cần có thuế suất hợp lý và diện thu
được mở rộng theo hướng bồi dưỡng nguồn thu, tạo nguồn thu.
Ba là, về mục tiêu chính sách, chính sách thuế mới phải góp phần quan trọng vào
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa, đảm bảo
sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế.
Bốn là, về mục tiêu hội nhập, hệ thống thuế Việt Nam phải đảm bảo từng bước phù
hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ hợp tác
giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới.
Năm là, về mặt kỹ thuật, tính đơn giản và rõ rang của hệ thống thuế tiếp tục được
đề cao, đã có sự nhấn mạnh đến vấn đề khả thi của hệ thống thuế: “Chính sách thuế
ban hành là để người dân thực hiện, do vậy phải làm sao để giúp cho các đối tượng
nộp thuế và người thu thuế có thể hiểu được thấu đáo chính sách thuế, từ đó mới góp
phần làm cho họ tuân thủ, thực hiện chính sách thuế một cách đúng đắn và nghiêm
chỉnh. Hệ thống thuế đơn giản sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện dễ dàng, tinh giản
được bộ máy quản lý và tiết kiệm được chi phí quản lý thuế”.
 Lộ trình cải cách thuế.
Thực hiện theo tinh thần chỉ đạo đã nêu, cải cách thuế bước 2 đã tiến hành một số
bước đi mang tính đột phá. Đáng chú ý là đã xây dựng được một hệ thống luật tương
đối mới mẻ và hoàn thiện, tiến bộ hơn, trình Quốc hội thông qua và Chính phủ ban
hành trong đợt tháng 5/1997, bao gồm:
- Luật thuế giá trị gia tăng, có hiệu lực từ ngày 1/1/1999 thay cho luật thuế doanh
thu.
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho luật thuế lợi tức.

- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuấ xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Ngoài ra, trong đợt cải cách này cũng đã tiếp tục bãi bỏ một số sắc thuế, phí và lệ
phí không còn phù hợp như thuế sát sinh, thuế buôn chuyến…và sửa đổi, bổ sung hay
ban hành một số loại thuế và phí có tác kích thích mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế
như thuế TNCN, thuế tài nguyên, thuế đất, thuế tài sản…
Điểm nhấn của cải cách thuế bước 2 là sự ra đời của thuế GTGT và thuế TNDN
với những ưu điểm hơn hẳn so với hai loại thuế mà chúng thay thế.
10
Thuế GTGT do Quốc hội ban hành năm 2008 là một loại thuế gián thu, chỉ đánh
trên phần giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất và luân chuyể. Do vẩy
việc sử dụng sắc thuế này dể thay thế thuế doanh thu sé loại vỏ hoàn toàn tính chất
trùng lặp và chồng chéo của chính bản thân thuế doanh thu: vả lại trong điều kiện
khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu thì sử dụng thuế GTGT chính là một
biện pháp tốt. Hơn nữa, cơ chế thu về lý thuyết cũng thể hiện biện pháp ngăn ngừa thất
thu thuế một cách hiệu quả.
Tại thời điểm được ban hành, thuế GTGT của Việt Nam có bốn mức thuế suất (so
với 11 mức thuế của thuế doanh thu thì đây cũng là một điểm tiến bộ), trong đó mức
thuế suất phổ biến là 10% bên cạnh mức 0% dành cho sản phẩm xuất khẩu và mức
5%, 20%
Thuế TNDN: tuy thay thế cho thuế lợi tức nhưng về cơ bản cơ chế áp dụng cũng
tương tự như thuế lợi tức, có điều phạm vi áp dụng của thuế này rộng hơn và bao quát
hơn với mức thuế suất dành cho doanh nghiệp là 25% bên cạnh thuế suất ưu đãi.
Đánh giá về cải cách thuế bước 2, cũng như các ý kiến nhận định trong tổng kết cải
cách thuế bước 1, mọi người không thể phủ nhận thành quả đạt được. Cải cách thuế
bước 2 về cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra ban đầu và hệ thống thuế góp phần to lớn
vào việc gia tăng tiềm lực tài chính nhà nước.
Tuy nhiên, có những nhược điểm cả hệ thống thuế được tổng kết khi kết thúc bước
thứ nhất còn chưa khắc phục được. Do vậy, hệ thông thuế chưa thực sự phát huy được
sức mạnh của một công cụ quản lý điều tiết chủ đạo của Nhà nước đối với nền kinh tế.

 Cải cách Thuế bước 3 (giai đoạn 2005-2010).
 Sự cần thiết phải cải cách thuế.
Trước hết, do đất nước đang đẩy mạnh CNH-HĐH, nền kinh tế sẽ được xây dựng
trên nền tảng sản xuất công nghiệp hiện đại, quản lý theo yêu cầu hiện đại hoá: tin học
hoá, tự động hoá. Quản lý hoạt động của các doanh nghiệp, cũng như quản lý của
Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ cũng phải sử dụng các công cụ hiện đại và
phương pháp quản lý hiện đại.
Thứ hai, trong giai đoạn tới, yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao đòi hỏi chính
sách thuế phải tương đồng với quốc tế, cách thức quản lý phù hợp với các chuẩn mực
quản lý thuế quốc tế nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
11
và các nhà đầu tư trong nước ra nước ngoài. Sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước
tiên tiến cả về chính sách thuế và nhất là cách quản lý thuế hiện nay còn có khoảng
cách rất xa, bắt buộc ngành Thuế phải cải cách để tránh tụt hậu so với các nước trong
khu vực và nhằm nâng cao vị thế công tác quản lý thuế Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, mặc dù đã đạt được nhiều thành quả đáng kể trong thời kỳ đổi mới, nhưng
công tác quản lý thuế vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách
thức quản lý; quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, chưa hợp lí.
 Mục tiêu cải cách thuế
 Mục tiêu tổng quát
Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công tác quản lý
thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài
chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện
bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế.
 Định hướng
Mục tiêu ngân sách:
-Hệ thống thuế và phí tiếp tục chiếm khoảng 75-80% tổng thu NSNN hằng năm,
điều này còn phụ thuộc vào các nguồn thu khác
-Tổng thu NSNN hằng năm phấn đấu đạt trên 25% GDP, góp phần tăng tiềm lực

tài chính nhà nước để thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội
Cơ cấu hệ thống thuế:
Cơ cấu hệ thống thuế trực thu-gián thu: xu hướng tăng tỉ lệ trực thu đồng thời giảm
tỉ lệ gián thu, nhưng do lựa chọn giữa 2 mục tiêu tăng NSNN và thực hiện công bằng
xã hội nên trước mắt cần hoàn thiện hệ thống thuế gián thu trước khi hoàn thiện hệ
thống thuế trực thu.
Về cơ cấu định tính của hệ thống thuế, chú trọng thực hiện:
-Xây dựng luật thuế chống ô nhiễm môi trường, sắc thuế được coi là tiến bộ và phù
hợp xu thế thời đại
-Sửa đổi, hoàn thiện thuế GTGT và bổ sung một số sắc thuế mới nhằm hỗ trợ như
thuế doanh thu đối với các doanh nghiệp nhỏ, thuế kinh doanh đặc thù…
-Thống nhất thuế suất thuế TNDN, bỏ thuế chuyển lợi nhuận và thu nhập ra nước
ngoài, sửa đổi toàn diện thuế TNCN
12
-Điều chỉnh khác với chế độ thu sử dụng vốn nhà nước đã được bãi bỏ, nhằm đón
trước những diễn biến mới trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý tài chính đối với
doanh nghiệp nhà nước
-Ban hành sắc thuế mới với dầu khí và sản phẩm dầu khí
-Bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp, áp dụng đồng bộ thống nhất việc quản lý đất
nông nghiệp bằng các sắc thuế tài sản
-Chuyển lệ phí xăng dầu thành thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế chống ô nhiễm môi
trường hay một sắc thuế độc lập
-Đổi mới công tác tổ chức thu, cách thức thu theo hướng thống nhất, liên thong
trên toàn quốc và bình đẳng đối với người sử dụng phương tiện giao thông.
 Mục tiêu, yêu cầu cụ thể
Chính sách thuế, phí và lệ phí phải được kiện toàn, đảm bảo các vai trò sau:
- Công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động viên
được các nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất khẩu, đầu
tư đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng
trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.

- Huy động đầy đủ các nguồn thu vào Ngân sách Nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi
tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế vào Ngân
sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt từ 20% - 21% GDP.
- Thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều
kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển,
bảo đảm lợi ích quốc gia.
- Tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. Áp dụng hệ thống thuế thống nhất
không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai;
tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
13
- Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc
phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững
mạnh.
 Lộ trình cải cách một số sắc thuế chủ yếu.
- Thuế giá trị gia tăng: Đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng giảm bớt số lượng
nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ
thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh; áp dụng một
mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong việc tính thuế
giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ; hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác
định ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng để thực hiện một phương pháp tính
thuế khấu trừ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: Đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng mở rộng đối
tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho phù
hợp với mục tiêu điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng. Tiến tới xoá bỏ miễn,
giảm thuế tiêu thụ đặc biệt để đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế và
nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng hoá sản xuất trong nước và nhập khẩu.

- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Trong năm 2005 sẽ trình Quốc hội hoàn thiện
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo hướng khuyến khích tối đa xuất khẩu; sửa
đổi các quy định về thuế suất, giá tính thuế, thời hạn nộp thuế để thực hiện cam kết và
thông lệ quốc tế; sửa đổi quy trình, thủ tục thu nộp thuế cho phù hợp với Luật hải
quan, góp phần tăng cường quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu theo cam kết quốc tế.
- Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử: Dự
kiến sẽ trình Quốc hội ban hành vào cuối năm 2005.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng giảm mức
thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa
các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.
- Thuế thu nhập cá nhân: Đến năm 2007 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật thuế thu
nhập cá nhân thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện
hành theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thu hẹp sự khác
biệt giữa đối tượng nộp thuế là người Việt Nam và người nước ngoài.
14
- Thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên: Đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng mở
rộng đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế.
- Thuế bảo vệ môi trường: Đến năm 2008 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật thuế bảo
vệ môi trường theo hướng đối tượng chịu thuế là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ gây
ô nhiễm môi trường; căn cứ tính thuế được xác định phù hợp với từng loại hàng hoá,
dịch vụ gây ô nhiễm môi trường. Nguồn thu từ thuế bảo vệ môi trường chỉ dành để
dùng cho bảo vệ môi trường, không dùng cho việc khác.
- Thuế tài sản: Đến năm 2008 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật thuế tài sản theo
hướng mở rộng đối tượng tài sản chịu thuế để bảo đảm công bằng giữa các tổ chức, cá
nhân có quyền sở hữu, sử dụng tài sản.
- Về phí, lệ phí được sắp xếp lại theo hướng: Tiếp tục rà soát, bãi bỏ hoặc sửa đổi
các loại phí, lệ phí không hợp lý, gây phiền hà cho sản xuất và đời sống. Các loại phí
thu do cung cấp dịch vụ công sẽ chuyển dần sang giá dịch vụ, các loại phí mang tính
chất thuế chuyển thành thuế. Thống nhất mức thu phí, lệ phí đối với tổ chức, cá nhân
trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện công bằng xã hội.

 Cải cách chi tiêu công và hệ thống định mức chi tiêu công
• Hoàn thiện cơ chế quản lý, cấp phát, thanh toán chi NSNN
• Hoàn thiện hệ thống định mức chi tiêu công
 Hoàn thiện môi trường pháp lý về tài chính công
2.2. Đánh giá tình hình thực hiện cải cách Thuế
2.2.1. Thành tựu đạt được trong việc cải cách thuế
Có thể nói từ năm 1990 đến nay, khi điều hành cải cách hệ thống thuế, tình hình
trong nước và thế giới có nhiều yếu tố không thuận lợi. Nhằm bảo đảm được những
mục tiêu lớn đặt ra trong quá trình cải cách, toàn ngành thuế đã nỗ lực xây dựng một
hệ thống chính sách, một cơ chế quản lý phù hợp yêu cầu thời kỳ mới.
Ðến nay, đã xây dựng một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các
nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế, từng bước thích ứng
yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Hệ thống
chính sách thuế mới gồm chín sắc thuế cơ bản và một số loại thu dưới hình thức phí và
lệ phí đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, góp phần
15
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ
sản xuất trong nước, từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và tăng
thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo.
Tổng thu thuế và phí luôn hoàn thành vượt mức dự toán thu hằng năm được Quốc
hội thông qua, đạt tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2000 tăng 13,7 lần so với năm 1990.
Số thu về thuế và phí trong tổng thu NSNN năm 1990 chỉ chiếm 76,78%, đến năm
2003 đã chiếm 92,9%. Tỷ lệ động viên qua thuế và phí/GDP đã đạt và vượt mục tiêu
đề ra, đến năm 2003 đạt 21,8% GDP. Hệ thống chính sách thuế mới cũng đã xóa bỏ sự
chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng trong cơ chế thị trường.
16
Quyết toán thu ngân sách Nhà nước
2000 2002 2003 2004
TỔNG THU 90749

12386
0
152274 190928
Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô)
4623
3
63530 78687 104576
Thu từ doanh nghiệp Nhà nước 19692 25066 28748 32177
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 4735 7276 9942 15109
Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ
ngoài quốc doanh
5802 7764 10361 13261
Thuế sử dụng đất nông nghiệp 1776 772 151 130
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 1831 2338 2951 3521
Lệ phí trước bạ 934 1332 1817 2607
Thu xổ số kiến thiết 1969 3029 3657 4570
Thu phí xăng dầu 2192 2995 3204 3583
Thu phí, lệ phí 2713 3021 3279 4182
Các khoản thu về nhà đất 2823 5486 10546 17463
Các khoản thu khác 1766 4451 4031 7973
Thu từ dầu thô
2353
4
26510 36773 48562
Thu từ hải quan 18954 31571 33845 34913
Thuế xuất. nhập khẩu. thuế tiêu thụ đặc biệt hàng
nhập khẩu; Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu
13568 22083 21507 21654
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu 5386 9488 12338 13259
Thu viện trợ không hoàn lại 2028 2249 2969 2877

Nguồn: Tổng cục thống kê
Quyết toán thu ngân sách Nhà nước
2005 2006 2007 2008
TỔNG THU 228287 279472
31591
5
416783
Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô)
11982
6
145404
17429
8
229786
Thu từ doanh nghiệp Nhà nước 39079 46344 50371 68490
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 19081 25838 31388 43848
Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ
ngoài quốc doanh
16938 22091 31178 43524
Thuế sử dụng đất nông nghiệp 132 111 113 98
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 4234 5179 7422 12940
Lệ phí trước bạ 2797 3363 5690 7404
Thu xổ số kiến thiết 5304 6142
Thu phí xăng dầu 3943 3969 4457 4517
Thu phí, lệ phí 4192 4986 4059 6653
Các khoản thu về nhà đất 17757 20536 33925 38202
Các khoản thu khác 6369 6845 5695 4110
Thu từ dầu thô 66558 83346 76980 88800
Thu từ hải quan 38114 42825 60381 90922
Thuế xuất. nhập khẩu. thuế tiêu thụ đặc biệt

hàng nhập khẩu; Thu chênh lệch giá hàng nhập
23660 26280 38385 59927
17
khẩu
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu 14454 16545 21996 30995
Thu viện trợ không hoàn lại 3789 7897 4256 7275
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kết quả cải cách đã mang lại những thành tựu kinh tế đáng tự hào, sau mười năm
đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Cơ cấu kinh tế đã
có sự thay đổi, tỷ trọng nông nghiệp giảm; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng
nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm, bảo đảm nguồn
ngoại tệ phục vụ nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên nhiên vật liệu cho phát triển sản
xuất và đời sống.
Về quản lý thuế, công cuộc cải cách cũng đã mang lại kết quả quan trọng, hình
thành một hệ thống tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước, dưới sự lãnh đạo
song trùng giữa ngành dọc và cấp ủy, chính quyền địa phương. Công tác quản lý thuế
từng bước chuyển đổi từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ tự tính, tự khai và
nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Từ đó đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm của
người nộp thuế trước pháp luật; cơ quan thuế tăng cường chức năng tuyên truyền, giáo
dục, hướng dẫn, đôn đốc thu nộp và kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm thuế. Từng
bước thực hiện chuyên môn hóa quản lý thuế theo chức năng, không ngừng nâng cao
trình độ nghiệp vụ cho cán bộ thuế. Công tác quản lý đã chuyển biến tích cực theo
hướng rõ ràng, công khai, dân chủ và minh bạch hơn.
Về việc cắt giảm thủ tục hành chính và áp dụng công nghệ mới vào công tác qunar
lý thuê, đến nay toàn ngành đã khai thác sử dụng tốt công nghệ tin học vào công tác
quản lý (với 11 chương ứng dụng phục vụ quản lý) giúp giảm tải công việc của nội bộ
ngành như: chương trình quản lý thuế nhà đất tại các Chi cục Thuế, quản lý tiền thuê
đất, mặt nước, tính thuế TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản nhà và
đất…tinh giảm thủ tục khoảng 30% thủ tục, rút ngắn thời gian kê khai, nộp thuế, hoàn
thuế, hỗ trợ người nộp thuế trong từng quy trình.

Đối với người nộp thuế (NNT), ngành Thuế đã triển khai và hướng dẫn NNT cài
đặt miễn phí, thực hiện thông suốt các chương trình ứng dụng hỗ trợ trong kê khai thuế
theo công nghệ mã vạch 2 chiều, đăng ký mã số thuế, quyết toán thuế thu nhập cá
nhân qua online, thực hiện thuế hàng tháng qua mạng. Việc tổ chức khai thuế qua
18
mạng thực sự mang lại tiện ích, giảm chi phí đi lại cho DN và đáp ứng yêu cầu hiện
đại hoá của ngành Thuế.
Ngành Thuế đã phối hợp thực hiện kết nối dữ liệu thu nộp NSNN giữa 2 cơ quan
kho bạc và thuế, thực hiện tốt công tác uỷ nhiệm thu thuế qua ngân hàng tạo thuận lợi
cho DN trong việc nộp thuế và cũng như rút ngắn thao tác nội bộ, xoá bỏ trùng lắp
nhập chứng từ nộp cho cơ quan thuế, hạn chế thất thoát chứng từ luân chuyển giữa cơ
quan Kho bạc, Ngân hàng và Thuế. Hiện nay tại Cục Thuế đang trong giai đoạn hoàn
chỉnh cơ sở dữ liệu để triển khai các kios thông tin dữ liệu phục vụ tự tra cứu của NNT
khi có yêu cầu.
2.2.2 Những bất cập và tồn tại trong việc cải cách Thuế
2.2.2.1 Hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu hội nhập
Trong những năm gần đây, luật thuế của Việt Nam được cải thiện rất nhiều.
Nguyên tắc tự khai, tự nộp tạo ra nhiều tiện lợi cho người nộp thuế, đồng thời cũng
kiểm soát chặt chẽ hơn việc thu, nộp thuế và giảm thất thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, các thủ tục hành chính về thuế vẫn còn những vấn đề bất cập mà các
nhà hoạch định chính sách thuế cần phải cân nhắc.
Một là, hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu tính ổn
định, làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều
kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó có quá nhiều thuế
suất, nhiều chế độ ưu đãi, miễn giảm khác nhau đã cản trở quá trình hội nhập quốc tế
trên các phương diện: khuyến khích xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN
và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hai là, việc quy định các sắc thuế thiếu tính rõ ràng, còn lẫn lộn trong chức
năng của từng sắc thuế, thể hiện ở phạm vi của đối tượng chịu thuế, các mức thuế
suất quá cao vì gặp nhiều loại thuế trong một sắc thuế. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt,

ngoài chức năng điều tiết tiêu dùng với một số mặt hàng đặc biệt còn đảm đương cả
chức năng của thuế VAT, vì đối tượng chịu thuế VAT không áp dụng đối với hàng
hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy, thuế suất cao của thuế tiêu
thụ đặc biệt đã gồm thuế VAT.
Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất trong
nước, nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản xuất trong
19
nước (như ô tô, thuốc lá…) Mặt khác, có một số mặt hàng tiêu dùng có tính chất xa xỉ
lại không thuộc diện điều chỉnh của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên trong biểu thuế
nhập khẩu đang được áp dụng mức thuế suất cao, tạo sự hiểu lầm của dư luận quốc tế
về thuế nhập khẩu không phù hợp thông lệ quốc tế.
Ba là, hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu
trong từng sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả trong
phân bổ nguồn lực. Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế không thống nhất với
nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Một số
mặt hàng nhập khẩu như: phân bón, sắt xây dựng, kính xây dựng, đường… có thuế
suất thuế nhập khẩu thấp vì là đầu vào của một số ngành sản xuất, nhưng biện pháp
quản lý lại là bảo hộ phi thuế quan (hạn chế số lượng nhập khẩu). Một số mặt hàng
thuế nhập khẩu quá cao sẽ kính thích sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu; đồng
thời cũng sẽ chiếm mất nguồn vốn, lao động, công nghệ của những hoạt động sản xuất
hàng hóa khác có hiệu quả cao hơn.
Việc kết hợp các mục tiêu của chính sách xã hội trong các sắc thuế xét về khía
cạnh xã hội là tốt, tuy nhiên nó thực sự làm chính sách thuế trở nên phức tạp, tạo ra sự
bất bình đẳng trong kinh doanh, ảnh hưởng đến sự minh bạch của hệ thống thuế.
2.2.2.2. Thủ tục nộp thuế còn rườm rà với nhiều thủ tục gây trở ngại DN
Theo như đánh giá của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank): Trung bình một doanh
nghiệp ở Việt Nam mất trung bình 1.050 giờ riêng cho việc đóng thuế (Con số này ở
Singapore, nước đứng đầu bảng xếp hạng năm nay, chỉ là 84 giờ ) thấp hơn nhiều so
với hơn 1.900 giờ mà Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã khảo sát theo chỉ
thị của Thủ tướng

Tuy nhiên, nếu nhân mức thấp nhất này với số doanh nghiệp đang nộp thuế hiện
nay là 320.000, thì thời gian doanh nghiệp phải dành ra lo các thủ tục thuế đã lên tới
14 triệu ngày hoặc 42 triệu ngày công doanh nghiệp phải trả cho nhân viên (ngày làm
việc tám giờ). Con số nếu nói riêng thì không lớn nhưng nếu tính chung toàn thể doanh
nghiệp đã gây ra một sự lãng phí không nhỏ cả về thời gian và tiền bạc.
Thêm vào đó, về mặt thủ tục ngành thuế lại có con số “khổng lồ” về các thủ tục
hành chính, trong số 338 thủ tục có 5 thủ tục cấp Tổng cục, 172 thủ cục cấp Cục và
gần 160 thủ tục cấp chi Cục,
20
Hơn thế nữa, chúng ta điều biết “Nộp thuế là quyền và nghĩa vụ của công dân”.
Thế nhưng để nộp thuế, hàng ngàn người đã phải xếp hàng và chờ đợi trong nhiều giờ
liền để nộp thuế gây nên cảnh chen chúc tại nơi nộp thuế, thậm chí không ít doanh
nghiệp còn mệt mỏi, bức xúc, lo lắng và bị ảnh hưởng đến kinh doanh vì thuế.
2.2.2.3. Hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu
Hiện tại, ngành Thuế mới đưa ứng dụng CNTT vào công tác đăng ký mã số thuế,
xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế, kế toán sổ thuế, kế toán ngân sách, lập báo cáo
thống kê, quản lý công việc nội bộ.
Mô hình thuế hiện tại mới tự động hóa một số khâu tính thuế và chưa thống nhất
qui trình xử lý thông tin các loại thuế. Về phần hỗ trợ đối tượng nộp thuế mới dừng lại
ở việc cung cấp văn bản, thủ tục thuế trên mạng Internet, còn các dịch cụ điện tử khác
chưa được triển khai (công tác phục vụ đối tượng nộp thuế chủ yếu qua tuyên truyền
và phục vụ thủ công đơn lẻ).
Bên cạnh đó, công tác thanh tra vẫn chưa liên kết thông tin chặt chẽ với hệ thống
quản lý thu thuế, các chức năng nghiệp vụ trong hệ thống cũng chưa được tích hợp
thông tin (quản lý dữ liệu còn phân tán).
Mô hình hiện nay cũng vẫn chưa chuẩn hóa chế độ hạch toán số thuế phải nộp, đã
nộp giữa cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế và gặp rất nhiều khó khăn khi phải bổ
sung các loại thuế mới do quy định hành thu khác nhau.
Việc kết nối trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và với các cơ quan bên ngoài vẫn
còn rất sơ khai, việc kết nối thông tin giữa cơ quan Thuế, Hải quan và Kho bạc chưa

được thực hiện dẫn đến việc quản lý thông tin Doanh Nghiệp phiến diện, không đánh
giá được đầy đủ quá trình chấp hành pháp luật của Doanh Nghiệp trong hoạt động xuất
nhập khẩu cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh trong nội địa.
Đây chính là hạn chế của hệ thống thuề Việt Nam gây nên một hạn chế lớn đến
hiệu quả công tác quản lý thuế của Nhà Nước. Sự trỗi dậy của khu vực tư nhân trong
phát triển kinh tế là đáng ghi nhận, nhưng do quy mô hoạt động của khu vực này còn
nhỏ và phân tán cho nên những yêu cầu về báo cáo thống kê không được thiết lập một
cách có hệ thống.
Hơn nữa do những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế và thống kê gặp phải
nhiều khó khăn trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu thống kê một cách chi tiết
và đáng tin cậy. Thiếu số liệu tin cậy và cung cấp không kịp thời làm cho những người
21
ra quyết định chính sách gặp phải nhiều khó khăn trong việc đánh giá sự ảnh hưởng
tiềm năng của những thay đổi cơ bản đến hệ thống thuế hiện hành .
2.2.2.4. Cán bộ ngành thuế còn yếu kém trong công tác quản lý, thanh tra, giám sát
Qua các lần thanh tra phát hiện thêm nhiều trường hợp người tham gia sản xuất-
kinh doanh trốn thuế trong thời gian dài đã cho thấy công tác kiểm tra của ngành còn
nhiều thiếu sót, kiểm tra chưa đúng đối tượng, còn bỏ sót nhiều đơn vị, cho nên có
những doanh nghiệp 5 năm liền chưa kiểm tra, nhất là những doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài liên tục khai lỗ hàng năm, năm sau lỗ nhiều hơn năm trước mà vẫn tiếp
tục hoạt động.
Bán hàng không xuất hóa đơn cũng là trường hợp gây thất thu lớn xảy ra từ lâu,
đến năm 2009 ngành thuế mới quan tâm vào cuộc nhưng chưa đạt hiệu quả cao, dĩ
nhiên không thể đỗ lỗi hết cho cán bộ thuế mà ở đây còn là trách nhiệm của lãnh đạo
Cục Thuế và Tổng Cục Thuế vì liên quan đến cơ chế, quy trình, chỉ đạo của chuyên
ngành.
Một hạn chế nữa của cán bộ công chức thuế, đặc biệt là cán bộ cấp Chi cục phần
lớn chưa được đào tạo lại hoặc chưa nắm bắt kịp về kiến thức quản lý thuế mới nên
còn bỡ ngỡ trong thời gian đầu triển khai thực hiện luật.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế, việc thanh tra thuế phải có thanh tra viên

thuế, chuyên viên chính, kiểm soát viên chính của cơ quan quản lý thuế được thực hiện
thanh tra thuế. Tuy nhiên hiện nay các địa phương số lượng chuyên viên chính, kiểm
soát viên chính quá ít nên chưa đủ lực lượng để tổ chức các đoàn thanh tra thuế.
Đối với người nộp thuế, đặc biệt là các hộ kinh doanh do kiến thức hạn chế, lại
phân tán rộng trên địa bàn khác nhau nên việc tiếp cận theo phương thức quản lý thuế
mới bước đầu còn nhiều khó khăn.
22
2.
2.1.
2.2.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI
PHÁP THỰC HIỆN CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
3.1. Định hướng tiếp tục thực hiện đề án cải cách tài chính công của Nhà nước ta
trong những năm sắp tới theo chiến lược tài chính giai đoạn 2001 – 2020 của
Chính phủ Việt Nam
Xu hướng chung hiện nay, các nước trên thế giới đang thúc đẩy một cách mạnh mẽ
cải cách hoạt động tài chính công. Có nhiều lý do, song chủ yếu vẫn là:
(1) Xét ở góc độ vật chất, tài chính công là một phần của cải của xã hội được
giao cho khu vực công sử dụng. Trên thực tế hiện nay, đa phần của cải đó đang bị khu
vực công sử dụng chưa hiệu quả như mong muốn, trong khi nguồn lực của đất nước có
hạn.
(2) Ở nhiều góc độ, hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu hoạt động của tài chính công được
triển khai theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế cải cách hành chính, đáp ứng những
đòi hỏi hợp lý của các lực lượng thị trường sẽ là động lực thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Ngược lại, nếu hoạt động của tài chính công không hiệu
quả, không thích ứng với bối cảnh kinh tế, xã hội mới, sẽ là lực cản cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
(3) Cải cách hoạt động tài chính công là xu hướng phổ biến của các nước có

liên quan mật thiết với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, và là yêu cầu bắt buộc với các
nước khi tham gia vào các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế.
23
Cải cách tài chính công ở nước ta cần phải góp phần vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa vừa phù hợp với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Mặc dù đã hơn 20 năm đổi mới, nhưng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
cấp vẫn chưa hoàn toàn bị xóa bỏ. Nhiều hoạt động của nền kinh tế rất có thể “nhân
danh” vì lợi ích chung, vì thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước mà tài chính công bị
lợi dụng và lạm dụng. Vì thế để đổi mới tài chính công có hiệu quả, cần nắm vững
quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh
tế thị trường.
Cải cách phải phù hợp với yêu cầu mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đó
đòi hỏi VN phải tuân thủ những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và
quốc tế. Điều đó phải đòi hỏi những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải cách
tài chính công sao cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng
cao năng lực quản lý nhà nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp và của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
3.1.1. Mục tiêu cải cách tài chính công thời gian tới
Theo chiến lược tài chính giai đọan 2001-2010 và tầm nhìn đến 2020, có các mục
tiêu sau:
(1) Xử lý tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư; tiếp
tục có chính sách khuyến khích tăng tích lũy cho đầu tư phát triển, hướng dẫn tiêu
dùng; thu hút hợp lý các nguồn lực xã hội để tập trung đầu tư cho hạ tầng kinh tế – xã
hội, giải quyết các điểm nghẽn của phát triển, tạo tiền đề để đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, duy trì tổng đầu tư toàn xã hội bình
quân khoảng 40% GDP, giai đoạn 2011-2015 khoảng 41,5% GDP, giai đoạn 2016-
2020 khoảng 38-39% GDP.
Tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, dịch vụ
công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo mà

lĩnh vực tư nhân không thể hoặc chưa thể đảm đương được, từng bước giảm tỷ trọng
đầu tư Nhà nước trong tổng đầu tư xã hội.
(2) Tỷ lệ động viên từ nền kinh tế vào NSNN ở mức hợp lý; cân đối ngân sách tích
cực, giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN.
24
(3) Đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia; duy trì dư nợ chính phủ và nợ
quốc gia trong giới hạn an toàn; tăng cường dự trữ Nhà nước đáp ứng kịp thời các nhu
cầu đột xuất của nền kinh tế.
(4) Phát triển đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính và dịch vụ
tài chính tạo điều kiện cho việc huy động và định hướng các nguồn lực trong xã hội
cho đầu tư phát triển.
(5) Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính công, đặc biệt nguồn vốn từ
NSNN; tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN; tăng cường đầu tư phát triển con người, cải cách
lĩnh vực giáo dục, y tế; cải cách tiền lương; từng bước xây dựng và củng cố hệ thống
an sinh xã hội.
(6) Cải cách cơ bản thể chế tài chính theo hướng bền vững, đồng bộ, hiện đại, theo
nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo động lực đủ mạnh cho các chủ
thể tham gia lao động, thực hiện tiết kiệm, đầu tư, tiêu dùng lành mạnh; khuyến khích
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh; thiết lập môi trường kinh tế – xã hội an toàn, ổn
định với hệ thống an sinh xã hội bền vững; đồng thời đảm bảo vai trò chủ đạo của Nhà
nước trong điều tiết, định hướng nền kinh tế.
Trên cơ sở này, theo nhóm chúng tôi, cần cụ thể hóa các mục tiêu về cải cách tài
chính công như sau:
(a) Bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính của khu vực công.
Các khoản chi này đa phần là do NSNN đảm nhận, có đặc điểm không hoàn trả trực
tiếp, không có tính chất ngang giá, lại có phạm vi rộng, khối lượng chi lớn. Thực tế
của các nước cho thấy các khoản chi này hiệu quả thấp, lãng phí còn lớn.
(b) Cải cách đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ
công cuộc cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hoạt đông tốt hơn,
chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.

Hoạt động của tài chính công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực tài chính cho
bộ máy công quyền hoạt động, mà điều quan trọng là phải thong qua tài chính công để
có tác động mạnh mẽ đến việc điều chỉnh tổ chức và tính hiệu quả hoạt động của bộ
máy.
(c) Thông qua cải cách đổi mới hoạt động tài chính công phải đảm bảo cho việc
sản xuất và cung cấp hàng hóa dịch vụ công công công bằng và hiệu quả hơn. Ngày
25

×