Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch chính trị k51 đề chẵn – đại học thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.64 KB, 12 trang )

Bài Thu Hoạch chính Trị K51 Đề Chẵn – Đại
học Thương Mại
Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày Điều 4 Quyền của sinh viên và Điều
5 Nghĩa vụ của sinh viêntrong Quy định về công tác sinh viên trong
Trường Đại học thương mại (Ban hành kèm theo Quyết định 469.3/QĐTM-CTCT&SV ngày 09 tháng 9 năm 2010 của Hiệu trưởng trường Đại học
thương mại).
Trả lời:

Điều 4. Quyền của sinh viên
1. Được nhận vào học đúng ngành nghề đã đăng ký dự tuyển nếu đủ các điều
kiện trúng tuyển theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường.
2. Được nhà trường tôn trọng và đối xử bình đẳng; được cung cấp đầy đủ thông
tin cá nhân về việc học tập, rèn luyện theo quy định của nhà trường; được nhà
trường phổ biến nội quy, quy chế về học tập, thực tập, thi tốt nghiệp, rèn luyện,
về chế độ chính sách của Nhà nước có liên quan đến sinh viên.
3. Được tạo điều kiện trong học tập và rèn luyện, bao gồm:
a) Được sử dụng thư viện, các trang thiết bị và phương tiện phục vụ các hoạt
động học tập, thí nghiệm, nghiên cứu khoa học, văn hoá, văn nghệ, thể dục,
thể thao;
b) Được tham gia nghiên cứu khoa học, thi sinh viên giỏi, thi Olympic các môn
học, thi sáng tạo tài năng trẻ;


c) Được chăm lo, bảo vệ sức khoẻ theo chế độ hiện hành của Nhà nước;
d) Được đăng ký dự tuyển đi học ở nước ngoài, học chuyển tiếp ở các trình độ
đào tạo cao hơn theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
đ) Được tạo điều kiện hoạt động trong tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam;
tham gia các tổ chức tự quản của sinh viên, các hoạt động xã hội có liên quan ở
trong và ngoài nhà trường theo quy định của pháp luật; các hoạt động văn hoá,
văn nghệ, thể thao lành mạnh, phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường;


e) Được nghỉ học tạm thời, tạm ngừng học, học theo tiến độ chậm, tiến độ
nhanh, học cùng lúc hai chương trình, chuyển trường theo quy định của quy chế
về đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; được nghỉ hè, nghỉ tết, nghỉ lễ theo quy
định.
4. Được hưởng các chế độ, chính sách ưu tiên theo quy định của Nhà nước;
được xét nhận học bổng do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ;
được miễn giảm phí khi sử dụng các dịch vụ công cộng về giao thông, giải trí,
tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hoá theo quy định của
Nhà nước.
5. Được trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của mình kiến nghị với nhà
trường các giải pháp góp phần xây dựng nhà trường; được đề đạt nguyện vọng
và khiếu nại lên Hiệu trưởng giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi
ích chính đáng của sinh viên.
6. Được xét tiếp nhận vào ký túc xá theo quy định của trường. Việc ưu tiên khi
sắp xếp vào ở ký túc xá theo quy định tại Quy chế công tác sinh viên nội trú của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.


7. sinh viên đủ điều kiện công nhận tốt nghiệp được nhà trường cấp bằng tốt
nghiệp, bảng điểm học tập và rèn luyện, hồ sơ sinh viên, các giấy tờ có liên
quan khác và giải quyết các thủ tục hành chính.
8. Được hưởng chính sách ưu tiên của Nhà nước trong tuyển dụng vào các cơ
quan Nhà nước nếu tốt nghiệp loại giỏi, rèn luyện tốt và được hưởng các chính
sách ưu tiên khác theo quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức.

Điều 5. Nghĩa vụ của sinh viên
1. Chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
quy chế, nội quy, điều lệ nhà trường.
2. Tôn trọng nhà giáo, cán bộ và nhân viên của nhà trường; đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau trong quá trình học tập và rèn luyện; thực hiện tốt nếp sống văn minh.

3. Giữ gìn và bảo vệ tài sản của nhà trường; góp phần xây dựng, bảo vệ và
phát huy truyền thống của nhà trường.
4. Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục,
đào tạo của nhà trường; chủ động tích cực tự học, nghiên cứu, sáng tạo và tự
rèn luyện đạo đức, lối sống.
5. Thực hiện đầy đủ quy định về việc khám sức khoẻ khi mới nhập học và khám
sức khoẻ định kỳ trong thời gian học tập theo quy định của nhà trường.
6. Đóng học phí đúng thời hạn theo quy định.
7. Tham gia lao động và hoạt động xã hội, hoạt động bảo vệ môi trường phù
hợp với năng lực và sức khoẻ theo yêu cầu của nhà trường.
8. Chấp hành nghĩa vụ làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà nước khi
được hưởng học bổng, chi phí đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài


trợ theo Hiệp định ký kết với Nhà nước, nếu không chấp hành phải bồi hoàn học
bổng, chi phí đào tạo theo quy định.
9. Tham gia phòng, chống tiêu cực, gian lận trong học tập, thi cử và các hoạt
động khác của sinh viên, cán bộ, giáo viên; kịp thời báo cáo với khoa, phòng
chức năng, Hiệu trưởng nhà trường hoặc các cơ quan có thẩm quyền khi phát
hiện những hành vi tiêu cực, gian lận trong học tập, thi cử hoặc những hành vi
vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế khác của sinh viên, cán bộ, giáo
viên trong trường.
10. Tham gia phòng chống tội phạm, tệ nạn ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã
hội khác.
Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày nội dung Điều 26 Khen thưởng, Điều
27 Xử lý kỷ luật đối với sinh viên vi phạm các quy định về học tập, thi,
kiểm tra và làm tốt nghiệp khóa học trongQuy định về thủ tục hành
chính đối với sinh viên chính quy của trường Đại học Thương mại(ban
hành kèm theo Quyết định 555/QĐ-ĐHTM ngày 16 tháng 8 năm 2013
của Hiệu trưởng trường Đại học Thương mại).

Trả lời:

Điều 26. Khen thưởng
Sinh viên có thành tích trong học tập và rèn luyện được xét khen thưởng hàng
năm và đột xuất với các qui định cụ thể như sau:
1. Xét cấp học bổng Việc thực hiện chế độ học bổng khuyến khích học tập cho
sinh viên căn cứ theo các thông tư liên tịch, các quy định hiện hành của Bộ Giáo
dục & Đào tạo. Trường Đại học Thương mại quy định bổ sung một số điểm như
sau:


a. Học bổng chỉ được cấp trong thời gian kế hoạch của khóa đào tạo (trong 08
học kỳ); thời gian tạm dừng, kéo dài và thời gian học lấy bằng thứ hai không
được xét cấp học bổng. Việc xét cấp học bổng được tiến hành theo từng học kỳ.
b. Mức học bổng khuyến khích học tập được thực hiện theo qui định hiện hành
của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành liên quan.
c. Điều kiện cần để xét học bổng khuyến khích học tập:
– Sinh viên phải có xếp loại học tập và rèn luyện từ khá trở lên.
– Sinh viên đăng ký học, dự thi và tích lũy tối thiểu 15 TC cho một học kỳ (trừ
học kỳ đầu và học kỳ cuối của khóa học);
2. Các danh hiệu khen thưởng sinh viên hàng năm học.
– Sinh viên Xuất sắc: Tặng danh hiệu sinh viên Xuất sắc cho những sinh viên
đạt xếp loại học tập Xuất sắc và xếp loại rèn luyện Xuất sắc.
– Sinh viên Giỏi: Tặng danh hiệu sinh viên Giỏi cho những sinh viên đạt xếp loại
học tập Giỏi và xếp loại rèn luyện từ Tốt trở lên.
– Sinh viên Khá: Tặng danh hiệu sinh viên Khá cho những sinh viên đạt xếp loại
học tập Khá và xếp loại rèn luyện từ Khá trở lên.
Để đạt các danh hiệu trên sinh viên không bị kỷ luật từ khiển trách trở lên.

Điều 27. Xử lý kỷ luật đối với sinh viên vi phạm các quy định về

học tập, thi, kiểm tra và làm tốt nghiệp khóa học.
1. Trong khi học, dự kiểm tra học phần; làm tiểu luận, đồ án, bài tập lớn;
chuẩn bị và tham gia thảo luận, thực hành; thi kết thúc học phần; làm khóa


luận tốt nghiệp nếu vi phạm quy chế, sinh viên sẽ bị xử lý kỷ luật với từng học
phần đã vi phạm theo Quy định hoạt động khảo thí của Trường.
2. Sinh viên đi thi hộ hoặc nhờ người thi hộ; làm hộ báo cáo thực tập, khóa luận
tốt nghiệp hoặc nhờ người làm hộ báo cáo thực tập, khóa luận tốt nghiệp đều bị
kỷ luật ở mức đình chỉ học tập 1 năm đối với trường hợp vi phạm lần thứ nhất
và buộc thôi học đối với trường hợp vi phạm lần thứ hai.
3. Sinh viên đi học hộ hoặc nhờ người đi học hộ tùy theo mức độ, xử lý kỷ luật
từ khiển trách đến buộc thôi học.
4. Trừ trường hợp như qui định tại điều khoản 2, 3 ở trên, mức độ sai phạm và
khung xử lý kỷ lụât đối với sinh viên vi phạm được thực hiện theo qui định của
Qui chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính qui hiện hành; Qui chế về công
tác học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Qui định của Trường.

Câu 3: Trình bày những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân chủ yếu
về tình hình kinh tế – xã hội sau 6 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XV
của Thành phố và nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng
(2011 – 2015).
Trả lời:
– Nghị quyết Đại hội XV của Thành phố
1. Hạn chế, khuyết điểm
1.1. Về lãnh đạo phát triển kinh tế: Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng và thế mạnh Thủ đô; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn chung còn



thấp; trong số 19 chỉ tiêu chủ yếu của Đại hội XV, có 04 chỉ tiêu vượt kế hoạch
và còn 04 chỉ tiêu không đạt kế hoạch. Do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế
giới, lạm phát trong nước tăng cao, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn,
nên tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn 5 năm trước. Thực hiện một số tiêu
chí cơ bản tái cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu cầu đề ra; kinh tế tri thức phát triển
chậm. Hội nhập kinh tế quốc tế chưa sâu, hợp tác kinh tế vùng kém hiệu quả,
vai trò điều phối kinh tế Vùng chưa được thể hiện rõ.
Chưa phát huy được thế mạnh các nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ,
nguồn nhân lực chất lượng cao và thị trường lao động để tập trung cho đầu tư
phát triển, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác,
hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai, tài sản công, nhất là quỹ nhà thuộc sở hữu
nhà nước chưa cao. Công nghệ, quản lý sản xuất chậm đổi mới, năng suất lao
động và chất lượng hàng hóa nhìn chung còn thấp. Hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước gặp nhiều khó
khăn. Tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ, v.v… còn xảy ra ở nhiều nơi.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, chuyên canh chưa được
nhân rộng; tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất chưa cao, phát triển nông nghiệp
theo hướng ứng dụng công nghệ cao và tạo thành chuỗi giá trị còn hạn chế.
Việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chưa được
quan tâm đúng mức, nhất là doanh nghiệp đầu tư cho các khâu chế biến, bảo
quản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
1.2. Về lãnh đạo công tác xây dựng và quản lý đô thị: Công tác quy hoạch, xây
dựng, quản lý, phát triển đô thị, một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển Thủ đô. Quản lý đất đai, trật tự xây dựng có mặt còn yếu kém. Việc
cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang các khu chung cư cũ trong nội thành còn chậm;
di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, trường đại học, cao đẳng, cơ
sở khám, chữa bệnh ra ngoài khu vực nội đô cũ chưa bảo đảm tiến độ. Công tác
giải phóng mặt bằng còn khó khăn; trật tự, kỷ cương an toàn giao thông chuyển



biến chậm; tỷ lệ giãn dân khu vực nội đô lịch sử còn thấp. Môi trường sinh thái,
nhiều nơi còn ô nhiễm nặng, nhất là ở một số sông hồ, làng nghề, cụm công
nghiệp, chợ nông thôn v.v…
1.3. Về lãnh đạo phát triển văn hóa – xã hội: Lĩnh vực văn hóa – xã hội phát
triển chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chưa tương xứng với vị thế, vai trò Thủ đô. Chất
lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật còn hạn chế, chưa ngang tầm với thực
tiễn đời sống xã hội phong phú, sôi động của Thủ đô; thiếu những tác phẩm có
giá trị đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Hiệu quả phát huy các giá trị di
sản văn hóa chưa cao. Một số tiêu chí xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn
minh kết quả thực hiện còn hạn chế, chưa tạo được chuyển biến rõ nét về văn
hóa ứng xử của người dân; nếp sống văn hóa, trật tự, kỷ cương, văn minh đô
thị có mặt còn yếu kém.
Một số mặt của công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chuyển
biến chậm, hiệu quả giáo dục đạo đức học đường, ứng xử văn minh ở các cấp
học vẫn còn bất cập. Khoa học và công nghệ phát triển chưa tương xứng với lợi
thế, tiềm năng, chưa phát huy được vai trò là động lực phát triển kinh tế – xã
hội Thủ đô. Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nghiên cứu, ứng dụng khoa
học và công nghệ chưa đồng bộ, chậm được đổi mới, nên chưa khuyến khích và
thu hút được sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học.
Công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có mặt còn hạn chế. Việc
đầu tư cho y tế chủ yếu mới dựa vào nguồn lực ngân sách, vẫn còn tình trạng
quá tải ở một số chuyên khoa tại các bệnh viện tuyến Thành phố. Chất lượng
đào tạo nghề, nhất là cho lao động nông thôn ở nhiều địa phương chưa đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động.
1.4. Về lãnh đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Phong trào toàn dân tham gia
bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số địa bàn còn thiếu chiều sâu, hiệu quả chưa
cao. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; kỷ cương, kỷ



luật và ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; trật tự an toàn xã hội ở một
số địa phương, đơn vị cơ sở chưa tốt. Chất lượng, hiệu quả hợp tác, đối ngoại để
thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô một số mặt
còn hạn chế.
1.5. Về lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị: Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa ngang tầm yêu cầu
nhiệm vụ chính trị và chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Kết quả thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị của một số
cấp ủy còn hạn chế. Chất lượng tự phê bình, phê bình của một số tổ chức đảng,
nhất là cấp chi bộ và đảng viên còn thấp; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm. Tính
gương mẫu, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo chưa cao. Tình trạng suy thoái về
phẩm chất, đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục. Công tác kiểm tra, giám sát, quản lý,
phân công nhiệm vụ cho đảng viên ở không ít tổ chức cơ sở đảng chưa chặt chẽ,
hiệu quả thấp. Việc thực hiện quy chế dân chủ có nơi còn mang tính hình thức.
Công tác chỉ đạo, quản lý điều hành của bộ máy hành chính ở một số cấp,
ngành, lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả còn hạn chế; một bộ
phận cán bộ, đảng viên còn trì trệ, thiếu năng động, sáng tạo, thậm chí còn đùn
đẩy, né tránh trách nhiệm; việc xử lý một số tập thể, cá nhân có sai phạm, vi
phạm chưa kịp thời và chưa đủ mức giáo dục, răn đe. Cải cách hành chính còn
nhiều việc phải làm. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm việc chưa
nhiệt tình, năng động, sáng tạo, vẫn còn nặng tư duy, phong cách “xin – cho”,
thậm chí có biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực, gây khó khăn, bức xúc cho doanh
nghiệp và công dân. Từ những khuyết điểm, yếu kém trên, nên vai trò gương
mẫu đi đầu của Thủ đô Hà Nội chưa được phát huy rõ nét.
Hoạt động của MTTQ, các đoàn thể chính trị – xã hội ở một số địa phương chậm
được đổi mới, hiệu quả thấp, kết quả công tác vận động quần chúng còn hạn
chế.



2. Nguyên nhân chủ yếu
Nguyên nhân khách quan: Tình hình kinh tế, chính trị thế giới, khu vực diễn
biến phức tạp, những yêu cầu cao, có tính chất đặc thù của địa bàn Thủ đô;
những hạn chế, yếu kém nội tại của đất nước đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp
đến điều kiện lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Sự
phối, kết hợp trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành giữa một số bộ,
ngành Trung ương và Thành phố chưa kịp thời, chặt chẽ; một số cơ chế, chính
sách vĩ mô thiếu đồng bộ, chưa thống nhất, chậm đổi mới; không ít văn bản
quy phạm pháp luật chậm ban hành, có nội dung còn bất cập. Việc các thế lực
thù địch, cơ hội chính trị cũng như các đối tượng gây mất trật tự an ninh luôn
lấy Thủ đô là địa bàn trọng điểm tập trung hoạt động chống phá cùng với những
biểu hiện mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã tác động tiêu
cực tới nhận thức tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức, trách nhiệm và lợi ích của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng. Bên cạnh đó, quy
mô, khối lượng, tính chất khó khăn của những công việc phải giải quyết hàng
ngày, nhất là từ sau khi mở rộng địa giới hành chính Thủ đô đặt ra những yêu
cầu, đòi hỏi ngày càng cao.
Nguyên nhân chủ quan: Công tác dự báo chưa tốt, có mặt còn thiếu chủ động
và chưa sát với diễn biến phức tạp của tình hình. Năng lực lãnh đạo, quản lý,
điều hành, hiệu quả giải quyết công việc ở một số cấp, ngành, lĩnh vực chưa
thực sự quyết liệt, thiếu năng động, sáng tạo, có việc, có lúc còn trì trệ; sự phối
hợp giữa ngành với ngành, giữa ngành với cấp trong chỉ đạo, điều hành và tổ
chức thực hiện một số công việc, lĩnh vực được phân công, phân cấp, ủy quyền
còn bị động, thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp; một bộ phận cán bộ, đảng viên đùn
đẩy, né tránh trách nhiệm. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm kỷ luật
của nhiều đơn vị cơ sở chưa được thực hiện thường xuyên, kết quả còn hạn chế;
chưa có các biện pháp chế tài đủ mạnh trong việc ngăn chặn, xử lý kịp thời các
sai phạm và biểu hiện tiêu cực xảy ra trên địa bàn Thủ đô.



Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011 – 2015)


+ Hạn chế, khuyểt điểm
Một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong
mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa
vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao;
sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn
5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát
triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp
tục là những yếu tố cản trở sự phát triển. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội chậm
được khắc phục. Quản lý tài nguyên, môi trường còn bất cập. Tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí… chưa được ngăn chặn và
đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có
mặt xuống cấp. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưa nghiêm. Một số mặt
công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội chuyển biến chậm. Công tác dự
báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước,
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất
cập. Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
+ Nguyên nhân chủ yếu

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai,
dịch bệnh; những diễn biến mới phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tình


hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; sự chống phá của các
thế lực thù địch.
Song trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan: Cuối nhiệm kỳ
khóa X, kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế và
những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã bộc lộ, nhưng do chưa đánh giá và
dự báo đầy đủ, nên Đại hội XI đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao. Công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được kịp thời một số
vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới. Nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác
lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán
bộ, đảng viên chậm được khắc phục; chưa chú trọng đúng mức tháo gỡ khó
khăn, hỗ trợ doanh nghiệp khi tập trung thực hiện chủ trương kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô; chưa quyết liệt trong việc chỉ đạo thực hiện một số
chủ trương, quan điểm phát triển đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI về cơ
cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và các đột phá chiến
lược, chưa tạo được cơ chế, chính sách có tính đột phá để huy động mọi nguồn
lực cho phát triển. Năng lực dự báo còn hạn chế, cho nên một số chủ trương,
chính sách, giải pháp đề ra chưa phù hợp.



×