Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.86 KB, 24 trang )

RÈN LUYỆN NĂNG LỰC ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Năng lực đọc văn, hiểu văn, đánh giá văn học là những năng lực rất quan
trọng trong hoạt động tiếp nhận TPVC. Dạy học văn trong nhà trường không chỉ
dừng lại ở khâu cảm thụ, những rung động thẩm mĩ, trực cảm nghệ thuật mà phải
biết hướng HS chuyển từ tiếp nhận cảm tính sang tiếp nhận lí tính. Bằng những
hiểu biết về văn học, người học có thể lí giải, đánh giá, nhận định giá trị mà TPVC
mang lại. Khâu đánh giá TP thể hiện rõ nhất, đầy đủ nhất năng lực tiếp nhận văn
học.
Vấn đề năng lực văn học nói chung và năng lực đánh giá TPVC nói riêng đã
được quan tâm từ lâu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách chuyên biệt về năng lực này, đặc biệt là năng lực đánh giá
TPVC. Vì vậy, chúng tôi cho rằng vấn đề về năng lực văn học nói chung và năng
lực đánh giá TPVC nói riêng đang còn là một ẩn số cần tiếp tục nghiên cứu về lí
luận và ứng dụng vào thực tiễn dạy học ở trường THPT.
Phương pháp dạy học văn truyền thống đã bộc lộ nhiều hạn chế, mà hạn chế
lớn nhất đó là chưa phát huy được những khả năng, cũng như khai thác những
tiềm năng ở người học. Quan điểm dạy học coi HS là bạn đọc sáng tạo đã trả lại
đúng vị trí người học trong hoạt động dạy học văn. Dạy học văn trong nhà trường
ngoài nhiệm vụ giáo dục nhận thức, rèn luyện, bồi dưỡng về đạo đức, nhân cách, lí
tưởng, tình yêu quê hương, gia đình, tình yêu đất nước…còn một nhiệm vụ quan
trọng là rèn luyện và phát triển năng lực đọc văn, hiểu văn, năng lực đánh giá
TPVC cho HS. Đây là mục tiêu trọng yếu trong dạy học văn ở nhà trường PT để
HS dần dần hình thành phẩm chất và năng lực của một bạn đọc đích thực, bạn đọc
có văn hóa. Muốn vậy, vấn đề đổi mới PPDH là vấn đề sống còn, nhằm vực dậy
chất lượng dạy học bộ môn văn vốn đã chịu nhiều “búa rìu” từ công luận. Điểm
mới của đổi mới phương pháp là đưa HS vào trung tâm của hoạt động dạy học.
GV giữ vai trò thiết kế, điều khiển hoạt động học của HS còn HS phải là người
chủ động tìm kiếm, phát hiện và thu nhận tri thức. Đây là bước tiến quan trọng
trong việc chuyển người học từ tư cách đối tượng thụ động sang tư cách chủ thể




tích cực sáng tạo trong quá trình dạy học văn. Vì vậy, vấn đề đổi mới PPDH là
một đòi hỏi tất yếu cả trên hai phương diện lí luận và thực tiễn của quá trình dạy
học môn văn.
Thực tế việc giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông nhiều năm qua đã
chưa thật sự chú trọng khai thác năng lực văn chương của HS, đặc biệt là năng lực
đánh giá TP. Một thời gian dài người thầy đã làm thay nhiệm vụ của người học.
HS nói theo, viết theo lời thầy truyền dạy, chưa thực sự bộc lộ những hiểu biết từ
chính “gan ruột” của mình. GS. Phan Trọng Luận có ý kiến đáng suy nghĩ: “Thực
trạng đáng lo ngại của việc dạy học văn trong nhà trường là sự khủng hoảng về nội
dung, chất lượng và phương pháp…”. Dạy học văn không chỉ dừng lại ở việc cảm
nhận, thưởng thức cái đẹp, cái hay TP mà quan trọng hơn GV hướng dẫn để cho
HS tiếp nhận TP, từng bước lí giải, thẩm định giá trị đích thực TP, nhận ra những
điều lí thú, mới mẻ mà văn chương đem tới. Làm được như vậy mới giúp HS hiểu
đúng bản chất của văn chương trong nhà trường: một môn học vừa mang tính
khoa học vừa mang tính nghệ thuật ngôn từ.
Trong thực tế, HS THPT còn non kém phát triển về năng lực đánh giá TP. Ở
đây, chúng ta cần đặt ra vấn đề là: HS không có năng lực đánh giá TPVC hay vì
hoạt động dạy học của đại bộ phận GV Ngữ văn chưa chú trọng đến việc rèn
luyện năng này cho HS? Hay chúng ta dễ dàng thừa nhận ý kiến cho rằng: năng
lực đánh giá là chỉ cần thiết đối với các nhà phê bình văn học? Thực tế cho thấy
tiếp nhận phê bình văn học – kể cả tiếp nhận văn học trong nhà trường – không thể
không cần đến năng lực đánh giá thẩm mĩ. Vì vậy, việc hướng dẫn rèn luyện HS
năng lực đánh giá, thẩm định đúng đắn, sâu sắc giá trị TP là công việc cần thiết
trong dạy học văn. Đánh giá TPVC là một hoạt động khoa học mà khoa học thì
phải có cơ sở, không chủ quan, tùy tiện. Tuy nhiên, văn chương lại thuộc lĩnh vực
nghệ thuật, mà nghệ thuật thì rất cần sự sáng tạo. Trong dạy học, người GV phải là
người hướng dẫn, định hướng cho các em cảm thụ, thẩm định giá trị TP trên
những cứ liệu đáng tin cậy của văn bản, đồng thời, GV cũng là người khơi dậy,

khích thích sự sáng tạo của HS.


Đánh giá TP là khâu hết sức quan trọng, không thể thiếu của cảm thụ văn
chương. Tuy nhiên, việc hiểu và đánh giá đúng giá trị của TP không phải là dễ,
nhất là đối với HS THPT. Vì vậy, việc vận dụng những tư tưởng, quan điểm đổi
mới dạy học văn vào thiết kế, tổ chức giờ học trên lớp là việc làm vô cùng cần
thiết, góp phần nâng cao năng lực văn học cho học sinh THPT.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Rèn luyện năng lực đánh giá
TPVC cho học sinh THPT” để nghiên cứu là cần thiết và thiết thực, đáp ứng được
yêu cầu, đòi hỏi nâng cao năng lực tiếp nhận văn chương cho HS THPT, phù hợp
với định hướng đổi mới PPDH, góp phần đào tạo nên các thế hệ HS là những bạn
đọc đích thực, bạn đọc sáng tạo, những người đọc có văn hóa trong tương lai.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Tiền đề lí luận dạy học văn về sự phát triển năng lực văn học cho HS
THPT
* Về sự phát triển năng lực văn của HS THPT
“Mặc dù sự phát triển của HS về trí tuệ và văn học có quy luật khác nhau
nhưng mối quan hệ giữa hai mặt đó sâu sắc và hiển nhiên”[14, tr. 66]. Do sự phát
triển không đồng đều cho nên HS trong cùng một độ tuổi có thể có những trình độ
phát triển văn học khác nhau. Tuy nhiên, ngoài những sự khác biệt ấy, HS cùng
lứa tuổi cũng tương đối giống nhau về đặc điểm tâm sinh lý, về trình độ nhận thức
và nhiều cái chung khác. Vì vậy, có thể nói đến những đặc điểm về sự phát triển
năng lực văn học của HS ở độ tuổi THPT.
Thời kì tuổi đầu thanh niên là thời kì nảy nở về mặt tinh thần và thể lực, trí
tuệ phát triển, thế giới quan hình thành một cách rõ rệt. Các em có khả năng tư
duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. HS có nhu cầu đánh giá,
và có khả năng đánh giá sâu sắc những vấn đề gặp phải từ cuộc sống. Tuy nhiên,
một nhược điểm dễ nhận thấy ở lứa tuổi này là thường có xu hướng cường điệu

trong tự đánh giá. Bởi các em chưa có nhiều trải nghiệm của cuộc sống, dễ dàng
thỏa mãn những cái mình nắm bắt được. Vì vậy, trong quá trình dạy học, GV cần


biết khai thác, phát huy tinh thần tự chủ, độc lập của HS, đồng thời khắc phục sự
cường điệu ở người học.
Đối với nghệ thuật, thái độ thẩm mĩ của HS THPT nói chung và văn học nói
riêng được xác định. Hứng thú đối với nghệ thuật trở nên sâu sắc và ổn định hơn.
“Các em không vừa lòng với các loại tình tiết gây cấn mà tư tưởng không sâu sắc,
say mê những sách văn học nghiêm túc có giá trị nghệ thuật cao”[14, tr.76]. Ở độ
tuổi này, HS “có khả năng lĩnh hội các hình thức nghệ thuật ước lệ đa dạng, các
xung đột tâm lí - xã hội phức tạp, những kiểu kết cấu và phong cách tinh vi…Ở
lớp sắp tốt nghiệp sự phát triển năng lực văn học được nâng lên một cấp độ mới,
HS đã sẵn sàng tự mình đọc các TP phức tạp”[14,tr.76].
Tuy nhiên, ở độ tuổi HS THPT, sự phát triển năng lực văn học có sự khác
biệt khá rõ nét và có sự phân hóa sâu sắc. Không phải bao giờ các em cũng viết,
nói những điều mình nghĩ. Tính hồn nhiên và tính cảm xúc trong cảm thụ nghệ
thuật ở HS bị giảm đi ít nhiều do các em có sự phát triển về tư duy lôgic.
Một điểm nữa cũng ảnh hưởng không ít đến năng lực văn chương của HS đó
là đặc điểm tâm lí khá đặc biệt: nhạy cảm và tự trọng, vừa muốn tự khẳng định
mình nhưng lại nhút nhát, thiếu tự tin. Đồng thời, do xu hướng chọn nghề của thời
đại, các em thiên về lựa chọn các môn khoa học tự nhiên, và có xu hướng xem
thường các môn khoa học xã hội, trong đó có môn văn, tạo nên cách học qua loa,
đối phó. Đây là một khó khăn lớn trong hoạt động dạy học và nâng cao chất lượng
bộ môn văn.
Từ những đặc điểm nêu trên, chúng tôi nhận thấy những mặt mạnh và hạn
chế của HS THPT về năng lực văn học, từ đó có phương pháp dạy học phù hợp,
góp phần đề ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn văn,
trong đó phát triển năng lực đánh giá TPVC cho HS.
* Hệ thống năng lực đọc hiểu TPVC cần hình thành cho HS THPT

“Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù…Muốn chiếm lĩnh
nó không thể vận dụng những năng lực hoạt động nhận thức chung mà cần đến
những năng lực đặc thù qua hoạt động thẩm mĩ vốn là một loại hoạt động nhận
thức phát triển ở mức cao hơn những hình thức hoạt động nhận thức bằng thực


tiễn hay hoạt động nhận thức bằng lí luận”[10, tr.211]. GS. Phan Trọng Luận là
người đã đề cập đến năng lực tiếp nhận văn học HS. Năng lực tiếp nhận TPVC là
một hệ thống gồm nhiều năng lực.
- Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật
- Năng lực nhận biết loại thể để định hướng hoạt động tiếp nhận
- Năng lực tái hiện hình tượng
- Năng lực liên tưởng
- Năng lực cảm thụ cụ thể kết hợp với năng lực khái quát hóa các chi tiết
trong chỉnh thể TP
- Năng lực cảm xúc thẩm mĩ
- Năng lực tự nhận thức.
1.2. Năng lực đánh giá TPVC trong hệ thống năng lực của HS
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: đánh giá là nhận định về giá trị .
Đánh giá là một hoạt động nhận thức, một cơ chế tâm lí quan trọng trong quá
trình tiếp cận và lĩnh hội các khách thể của hiện thực như là những giá trị. Việc
đánh giá được hiểu là một hành động lí tính mà nhờ đó con người thực hiện việc
chọn lựa giữa các khách thể để xếp một bộ phận của chúng vào các giá trị. Hoạt
động đánh giá diễn ra ở nhiều cấp độ. Ở mức độ cao đó là sự đánh giá các sự vật,
hiện tượng xã hội hoàn toàn mới mẻ mà bản thân cá nhân vừa mới sáng tạo ra
được, hoặc vừa mới được các chủ thể khác sáng tạo ra. Trong trường hợp này thì
hoạt động sáng tạo và tính tích cực của cá nhân nổi lên hàng đầu.
Đánh giá là một hoạt động nhận thức phức tạp của tư duy. Cũng như đối với
nhận thức, mọi yếu tố tâm lí đều tham gia vào hoạt động đánh giá. Xét cho cùng
hoạt động đánh giá vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan về đối

tượng của chủ thể.
Năng lực đánh giá là một trong những năng lực trong hệ thống cấu trúc năng
lực của con người. Hoạt động dạy học không chỉ rèn luyện cho các em năng lực
phát hiện, năng lực tiếp nhận, năng lực lí giải, mà còn phát triển khả năng cao hơn,
trong đó có năng lực đánh giá. Có thể khẳng định rằng, năng lực đánh giá là rất
quan trọng trong học tập. Hoạt động đánh giá thể hiện mức cao nhất của tư duy.


Người học có ý thức đánh giá trong quá trình tư duy thì ý thức suy nghĩ độc lập,
tinh thần tự lập càng có điều kiện phát triển. Khơi dậy tiềm năng đánh giá ở HS
cũng là thể hiện mục tiêu của giáo dục Việt Nam phát triển con người toàn diện,
năng động, sáng tạo của người học.
Phát triển năng lực đánh giá trong TPVC cũng là đòi hỏi cần thiết của lứa
tuổi HS THPT. Khi HS thực sự sống cùng với TP, cùng nếm trải những cảm xúc
với tác giả cũng là lúc các em có nhu cầu được bộc lộ suy nghĩ, quan điểm của
mình về TP. Đó là tiếng nói bức bách, thôi thúc tự bên trong của người tiếp nhận.
Tuy nhiên, HS THPT không phải lúc nào cũng tự giác nói những điều mình nghĩ.
Chính điều ấy làm hạn chế phần nào năng lực văn của các em. Dạy học nói chung,
rèn luyện năng lực đánh giá nói riêng góp phần giải phóng những tiềm năng, phát
triển năng lực, khích thích tư duy sáng tạo, niềm đam mê hiểu biết khoa học, thái
độ nhìn nhận sự thật, dám nói sự thật là vô cùng cần thiết. Dạy học văn nhằm phát
triển toàn diện năng lực văn chương cho HS là nhiệm vụ quan trọng.
Năng lực đánh giá là năng lực tự nhìn nhận, phát hiện giá trị TP ở tầm khái
quát, vĩ mô trong nhiều mối quan hệ. Để đánh giá TPVC, HS không những có kiến
thức về TP mà còn có hiểu biết ngoài TP, phải đặt TP trong nhiều quan hệ so sánh,
đối chiếu để đưa ra những nhận định khách quan có giá trị về vai trò, vị trí, giá trị
của TP trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn cũng như trong tiến trình phát triển
văn học. HS biết đánh giá TP là đã thể hiện sự tự nâng tầm hiểu biết của mình về
tiếp nhận văn học. Chính năng lực đánh giá góp phần nâng cao năng lực tạo lập
văn bản của HS trong nhà trường, là bạn đọc có văn hoá trong tương lai.

Nhìn chung, trong hệ thống năng lực văn học, mỗi năng lực có một chức
năng riêng, tuy nhiên, nó không tồn tại độc lập, riêng biệt mà có sự tương hỗ,
tương tác lẫn nhau trong hoạt động tiếp nhận văn học. Vì vậy, Phát triển năng lực
đánh giá TPVC gắn liền với việc phát triển và hoàn thiện hệ thống năng lực văn
học cho HS. Các năng lực trong cấu trúc năng lực văn học có quan hệ hữu cơ, biện
chứng. Vì vậy, rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho HS cũng gắn liền với sự
hình thành và phát triển toàn diện hệ thống năng lực văn học của HS.
2. Cơ sở thực tiễn


2.1. Thực trạng dạy học TPVC ở trường THPT theo hướng rèn luyện năng lực
đánh giá cho HS
Với hình thức dự giờ, trao đổi, xem vở, giáo án, tôi đã có cái nhìn khá
khách quan, sát thực tế về tình hình rèn luyện năng lực đáng giá TPVC cho HS
của GV và năng lực đánh giá TPVC của HS hiện nay ở Trường THPT Sông Ray:
chúng tôi nhận thấy rằng đa số GV đều nhận thức được sự cần thiết của việc rèn
luyện năng lực đánh giá TPVC cho HS. Vì, hầu hết GV đều cho rằng năng lực
đánh giá TP là một tiêu chuẩn phát triển về năng lực văn của HS. Bản thân mỗi
GV đứng lớp đều mong muốn dành một khoảng thời gian thoả đáng từ 5 –10 phút
để hướng dẫn HS đánh giá. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy sự quan tâm của
GV về việc nâng cao chất lượng dạy học văn ở THPT.
Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát, chúng tôi cũng nhận thấy GV chọn công
đoạn cho học sinh đánh giá TP chủ yếu ở khâu tổng kết bài học mà chưa hướng
dẫn HS đánh giá trong quá trình tìm hiểu, phân tích văn bản , nhằm góp phần phát
triển năng lực văn học của HS.
Theo chúng tôi, GV cần tăng cường hơn nữa việc định hướng, hướng dẫn HS
đánh giá TP nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn văn ở THPT.
2.2.. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng
Về phía GV:
- GV chưa định hướng những tiêu chuẩn để hướng dẫn cho HS đánh giá

+ GV yêu cầu HS đánh giá TP chủ yếu ở công đoạn tổng kết bài học chưa
chú ý hướng dẫn HS đánh giá trong suốt quá trình khám phá, phân tích TP ở lớp
cũng như về nhà.
Về phía học sinh:
+ Đa số HS không quan tâm đến có đánh giá một nội dung nào đó trong khi
tiếp nhận TP.
+ Học sinh chưa tự tin khi đánh giá TPVC .
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi nhận thấy việc rèn luyện năng lực
đánh giá TPVC cho học sinh THPT một cách hệ thống, khoa học sáng tạo là vấn
đề vô cùng quan trọng, cần thiết. Một giờ Đọc văn thành công hay không, không


khí giờ học như thế nào và chất lượng, hiệu quả giờ học Văn ra sao xét cho cùng
phụ thuộc vào niềm say mê nghề, năng khiếu sư phạm và nghệ thuật tổ chức,
hướng dẫn của GV và ý thức của học sinh. Và dĩ nhiên, năng lực đánh giá TPVC
của HS là một trong những yếu tố làm nên chất lượng dạy học Ngữ văn trong nhà
trường Trung học phổ thông hiện nay.

III. NỘI DUNG, CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Một số định hướng chung trong việc rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho
HS THPT
1.1 Thông qua hoạt động và bằng hoạt động để rèn luyện năng lực đánh giá
TPVC
Có thể khẳng định rằng từ trong hoạt động HS có điều kiện phát huy khả
năng, năng lực, năng khiếu của cá nhân. Mọi sự phát triển không nằm ngoài hoạt
động. Đưa vấn đề rèn luyện năng lực đánh giá thông qua hoạt động thực hành
cũng với mục đích đó.
Để phát triển năng lực đánh giá TPVC cho HS THPT, GV cần tạo mọi điều
kiện, mọi cơ hội được thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận của các em về những
vấn đề đặt ra trong TP, hay thông điệp tác giả muốn gửi gắm với mọi người.

Hoạt động nhận thức là một quá trình. Từ nhận thức đến nhận định giá trị
cũng là một quá trình. Công việc đọc văn, hiểu văn cũng có qui luật tương tự. Để
có những đánh giá xác đáng, thấu đáo không chỉ đòi hỏi người tiếp nhận có những
hiểu biết tường tận TP, mà còn có những hiểu biết về tác giả, về thời đại TP ra đời,
về trào lưu mà tác giả sáng tác, những TP của cùng tác giả, những TP của những
tác giả cùng thời. Chúng ta không đòi hỏi quá nhiều ở trình độ nhận thức và hiểu
biết của HS nhưng chúng ta có quyền để trông mong, chờ đợi những kiến giải từ
họ trong tiếp nhận và đánh giá TP. Chúng tôi cho rằng cần phối hợp nhiều hoạt
động trong giờ học ở lớp hoặc ở nhà nhằm phát triển năng lực đánh giá cho HS.
Theo chúng tôi, GV cần rèn luyện cho HS những hoạt động sau:
- Hoạt động đọc có kèm bình luận
Đọc TP là khâu quan trọng trong quá trình tiếp nhận, là hoạt động đặc thù
của nhận thức văn học, là sự giao tiếp giữa bạn đọc - HS với tác giả. GS. Phan


Trọng Luận cho rằng: “Con đường đi vào tác phẩm nhất thiết phải từ đọc, gắn liền
với việc đọc”. Chính hoạt động đọc đã rút ngắn khoảng cách giữa HS và tác giả.
Đọc là cơ hội để HS dấn thân vào thế giới nghệ thuật của TP, là bước khởi đầu
quan trọng để nắm bắt được ý đồ của người sáng tạo. Qua đọc, thế giới hình
tượng, những cảm xúc, suy tư được sống dậy và hiện lên trong tâm tưởng của HS,
người đọc “Có thể đối thoại với tác giả để cố gắng đi tới tận cùng cái mà người
sản sinh ra văn bản gửi gắm vào câu, chữ, hình ảnh”[12, tr. 88]. Cùng với đọc, GV
yêu cầu HS đưa ra những nhận xét, bình luận ban đầu về TP.
VD1: Em có nhận xét gì về bà cụ Tứ trong đoạn bà tâm sự với người vợ nhặt
trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
VD2: Xứ Huế hiện lên như thế nào qua bốn câu thơ đầu? Em có nhận xét gì
về tình cảm của Hàn Mặc Tử với vùng đất cố đô.
Trong dạy học TPVC, GV cần chú ý nhiều đến hoạt động đọc, nhưng không
chỉ đọc đơn thuần mà đọc phải gắn với bình luận. Đọc có kèm bình luận góp phần
khắc sâu những cảm nhận ban đầu của HS về TP. Vì vậy, trong dạy học TPVC,

GV nên đưa ra những chỉ dẫn, định hướng và thường xuyên yêu cầu HS đọc có
kèm bình luận thực hiện ngay cả đọc ở lớp hay đọc ở nhà.
- Hoạt động phân tích, lí giải TP
Đây là hoạt động dẫn dắt HS phát hiện, phân tích, lí giải phần nghĩa, phần lí,
phần tư tưởng, chủ đề, nắm bắt toàn diện nội dung và hình thức nghệ thuật của TP.
Qua đó, giúp HS hiểu quan điểm, tư tưởng của tác giả. Khi tìm hiểu TP, GV có thể
nêu ra một hệ thống câu hỏi gợi dẫn giúp HS tìm tòi, phát hiện, cắt nghĩa, khái
quát về TP. Điều quan trọng là giúp HS tìm ra các từ ngữ, hình ảnh then chốt, tìm
ra được các tình huống xung đột, từ đó làm bật lên vấn đề cần khai thác. GV giúp
HS huy động vốn sống, vốn hiểu biết văn học vào phân tích, lí giải. Tùy vào đặc
điểm thể loại và đặc trưng nghệ thuật của TP, GV có thể dẫn dắt HS phân tích theo
các phương hướng như: khảo sát hệ thống hình tượng, phân tích theo vấn đề. Điều
quan trọng là đảm bảo nguyên tắc kết hợp phân tích nội dung và hình thức nghệ
thuật trên cơ sở tuân theo tính chỉnh thể của TP.


VD: Trong khổ 1 bài thơ Tây tiến, từ ngữ nào gợi lên sự cheo leo, hiểm trở
con đường hành quân của người lính Tây tiến? Theo em, sự hợp thanh có gì đặc
sắc? Hình ảnh người lính hiện lên như thế nào? Qua đó, tác giả muốn gửi thông
điệp gì với bạn đọc.
VD2: Trong Chiếc thuyền ngoài xa, cảnh xa nghệ sĩ Phùng phát hiện có
tương phản với cận cảnh mà anh chứng kiến không? Theo em, tác giả đặt ra vấn
đề gì với người làm nghệ thuật?
GV tổ chức cho HS một số việc làm như: tìm hiểu nghĩa của từ, ý của câu, ý
nghĩa của chi tiết; tìm hiểu bố cục, kết cấu; phân tích xung đột xã hội; phân tích
tính cách nhân vật; phát hiện và lí giải các tình huống đạo đức; khái quát hóa chủ
đề, rút ra ý nghĩa TP. GV có thể điều chỉnh các thao tác của HS như: lựa chọn, kết
hợp, bổ sung, so sánh, đối chiếu, phân tích, cắt nghĩa, khái quát…giúp HS hiểu
biết toàn diện nội dung, ý nghĩa TP.
- Hoạt động nhận thức, bộc lộ

Hoạt động tiếp nhận TPVC không chỉ dừng lại ở cấp độ hiểu biết, mà còn
phải biết suy ngẫm, bộc lộ, trải nghiệm. TP nếu thực sự được sống trong tâm hồn
bạn đọc thì nhu cầu được bộc lộ, được thể hiện là sự thôi thúc bên trong. GV tạo
mọi điều kiện để HS được bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc về TP, về nhân vật, về quan
điểm nghệ thuật của TG. Các hình thức để cho HS nhận thức, bộc lộ: viết cảm
nhận, trực tiếp phát biểu về TP, đóng vai, viết lại TP theo quan điểm riêng của
HS… Tuy vậy, GV cũng cần có định hướng, điều chỉnh kịp thời những cách hiểu
còn lệch lạc, gán ghép thiên lệch đối với TP, đồng thời khuyến khích, động viên,
tuyên dương những ý kiến mang sắc thái riêng mà bản thân các em có sự gia công,
suy nghĩ.
VD1: Điều gì làm em suy nghĩ sau khi học xong TP Chí Phèo của Nam Cao.
VD2: Bà cụ Tứ trong TP Vợ nhặt để lại cho em ấn tượng gì? Hãy trình bày
những cảm nhận của em về bà cụ Tứ.
Với những đề bài yêu cầu nhận thức, bộc lộ, GV có thể yêu cầu HS làm bài ở
nhà vì đây là dạng đề mở. Tuy nhiên, GV cũng nên tổ chức cho HS phát biểu tại
lớp để HS có cơ hội trao đổi, bàn luận.


- Hoạt động trao đổi, đối thoại
Trong dạy học, GV tổ chức trao đổi, đối thoại để HS thể hiện ý kiến, quan
điểm của cá nhân về TP. Các em được trao đổi, bàn bạc, luận giải với nhau, hoặc
đối thoại với GV. Chính hoạt động trao đổi, đối thoại là điều kiện bật lên ý nghĩa
TP. Cũng qua hoạt động này, GV có điều kiện hiểu HS hơn, điều chỉnh kịp thời
những cách hiểu, những kiến giải chưa đúng về TP, đồng thời GV có điều kiện
mở rộng hiểu biết cho HS về TP. Điểm nổi bật của hoạt động này là sự dân chủ,
bình đẳng, là điều kiện giúp HS tự tin hơn trong học tập và cuộc sống.
VD1: Nhân vật nào để lại cho em ấn tượng nhất trong Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân. (Đây là đề bài mà HS sẽ có nhiều lựa chọn khác nhau, điều quan
trọng cho HS đối thoại để hiểu tại sao nhân vật đó gây ấn tượng với các em).
VD2: Có ý kiến cho rằng văn hoá Kinh Bắc quyết định sự thành công của bài

thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Em có đồng ý không? Vì sao?
Những hoạt động trên là rất cần thiết trong dạy học TPVC. Từ hoạt động, HS
thực sự chủ động trong học tập, luôn tiếp xúc trực tiếp với TP. Vì vậy, kiến thức
thu nhận được bền vững và sâu sắc.
Quan điểm coi HS là bạn đọc đã phần nào phát huy tính tích cực, chủ động
trong tiếp nhận TP. Muốn phát triển năng lực cho HS cần phải đưa các em vào các
dạng bài tập thực hành. Chúng tôi đề xuất một số dạng bài tập sau:
- Thuyết trình
Đây là dạng bài tập thực hành vừa có thể làm việc cá nhân, vừa có thể làm
việc theo nhóm. Trong dạy học TPVC, GV đưa ra những tình huống có vấn đề để
HS thảo luận, trao đổi hoặc các em tự suy nghĩ để đưa ra ý kiến đánh giá TP. Sau
thời gian chuẩn bị, GV yêu cầu HS thuyết trình và tổ chức cho HS thảo luận. Cần
phải tạo mọi cơ hội để HS được bộc lộ và GV phải biết lắng nghe từ nhiều phía.
Sau đó, GV có sự định hướng, điều chỉnh để đi đến phương án hợp lí nhất. Tuy
nhiên, cần tránh sự áp đặt từ phía GV.
- Thảo luận nhóm
Việc đánh giá TP có thể sẽ nảy sinh những vấn đề mâu thuẫn, những ý kiến
trái chiều từ phía HS, hay những ý kiến đánh giá có phần không thống nhất về một


vấn đề nào đó của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Vì vậy, GV cần đặt ra
tình huống có vấn đề để các em trao đổi, thảo luận. Cần tôn trọng ý kiến của HS,
nhưng cũng cần có sự điều chỉnh cần thiết, hợp lý để nội dung thảo luận hướng
đến cách hiểu, cách đánh giá thống nhất. GV đưa ra nhận xét, đánh giá kết quả của
mỗi nhóm, nếu cần thiết có thể lấy ý kiến đánh giá của tập thể lớp. Tuy nhiên,
trong quá trình thảo luận, GV phải chú ý bao quát hoạt động của từng cá nhân để
tránh tình trạng HS làm việc riêng hoặc không tham gia vào công việc của nhóm.
- Viết bài tập ngắn
Muốn kiểm tra khả năng tiếp nhận cũng như khả năng đánh giá TP của HS,
GV có thể yêu cầu viết bài tập ngắn như: biểu ý kiến, hoặc nêu cảm nhận về một

chi tiết, một hình ảnh, một từ ngữ, một nhân vật, một tình huống, một sự kiện…
nào đó trong TP. Với dạng bài tập ngắn, GV có thể yêu cầu HS thực hiện tại lớp,
hay bất kì thời gian nào trong tiết dạy (tính cơ động về thời gian). Với loại bài tập
này, GV có thể nắm bắt được cách hiểu, ý kiến đánh giá của HS về TP. GV nên
tránh đặt ra đề bài mà nội dung đã được thảo luận kĩ, để hạn chế thái độ học tập
thụ động, lười suy nghĩ của HS.
- Viết bài viết định kì
Đây là loại bài tập bắt buộc GV và HS phải thực hiện theo đúng phân phối
chương trình. Bài tập mang tính tổng hợp này là điều kiện phát huy năng lực đánh
giá cũng là cơ sở để nắm bắt năng lực đánh giá TPVC cũng như năng lực tạo lập
văn bản của HS. Với lợi thế về thời gian thực hiện (đối với bài viết tại lớp được
phân phối 2 tiết; bài viết ở nhà thuận lợi hơn về thời gian), giáo viên cần phải chọn
lựa thật kĩ đề tài. Đề bài đòi hỏi phải kích thích tư duy, kích thích sự sáng tạo, khả
năng đánh giá TP, tránh sự sao chép của HS. Tuy nhiên, để đánh giá đúng năng
lực, trình độ của HS, đề bài không được đánh đố.
- Viết nhật kí học văn
Với dạng bài tập này, GV có thể yêu cầu HS nêu cảm nhận, suy nghĩ, hoặc ý
kiến đánh giá về một vấn đề bất kì mà các em có ấn tượng nhất (tốt, hoặc không
tốt), nội dung đề bài có thể khai thác tốt năng lực đánh giá ở HS. Dạng bài tập này
vừa là sản phẩm của riêng các em, vừa phải trình nộp cho GV. GV phải kiểm tra


sổ nhật kí văn học theo đúng quy định đã đề ra, nhưng cần tế nhị giữ kín những
bộc bạch riêng tư của các em (GV có thể trao đổi riêng với HS nếu thấy cần thiết).
Chúng tôi cho rằng, những trang nhật kí không chỉ thể hiện năng lực văn mà còn
thể hiện được nhân cách, tâm hồn, tình cảm của các em. Tuy nhiên, GV phải thận
trọng với kiểu bài tập này, nếu không các em dễ rơi vào lối làm việc hình thức, đối
phó.
Trên đây, chúng tôi đưa ra một số hoạt động và một số bài tập nhằm hướng
HS chủ động vào hoạt động học, góp phần nâng cao năng lực đánh giá TPVC của

HS THPT.
1.2. Đảm bảo tính thống nhất và đa dạng trong hiệu quả tiếp nhận khi hướng dẫn
HS đánh giá TPVC
Tiếp nhận văn học là một hoạt động tràn đầy tính sáng tạo và mang đậm dấu
ấn chủ quan, cho nên thường có nhiều ý kiến, tranh luận khác nhau, thậm chí trái
chiều. Vì vậy, để đạt được hiệu quả tiếp nhận khi hướng dẫn, rèn luyện HS đánh
giá TPVC cần đảm bảo tính thống nhất và đa dạng trong tiếp nhận, đánh giá TP.
Tính thống nhất trong đánh giá TP dựa trên cơ sở tính khách quan của tiếp
nhận văn học và văn bản văn chương. Bản thân TP quy định chiều hướng và hiệu
suất cảm thụ, đánh giá của người đọc. Mọi cách đọc, cách đánh giá xa rời TP đều
không thể chấp nhận. Bởi, TP chính là mạch nguồn để người đọc có thể gạn đục,
khơi trong, tìm thấy giá trị chính nó. Hình tượng văn học là sự khái quát bản thân
cuộc sống theo một lí tưởng thẩm mĩ nhất định, mang đậm tính hư cấu của nhà
văn. Vì vậy, tiếp nhận TPVC là tiếp xúc với một đối tượng thẩm mĩ đặc biệt, một
sản phẩm tinh thần cao cấp. Do đó, nó quy định hoạt động tiếp nhận.
Thể loại, phương thức biểu hiện cũng quy định sự tiếp nhận TP. Mỗi thể loại
cho phép người đọc có cách tiếp cận riêng. Đọc thơ khác với đọc truyện, tiếp nhận
thể thơ lục bát không giống với thơ tự do… Mỗi TP bao giờ cũng là sáng tạo độc
đáo của người nghệ sĩ. Họ luôn có ý thức tìm tòi, khám phá để mang đến cho
người đọc những điều mới mẻ, thú vị. Nói như GS. Phan Trọng Luận: “Lựa chọn
hình thức nghệ thuật, phương thức biểu hiện thích hợp với nội dung đề tài, thị hiếu


nghệ thuật, khả năng cảm thụ của công chúng là việc làm giàu ý thức trách nhiệm
và chín chắn về tài năng của người cầm bút…”[11, tr.78].
Mỗi người là sản phẩm của thời đại, chịu sự ảnh hưởng, tác động của hoàn
cảnh lịch sử, xã hội. vì vậy, trong hoạt động tiếp nhận TPVC, dù muốn hay không
thì điều kiện lịch sử, giai cấp, tâm lí thời đại cũng góp phần tạo nên khuynh
hướng, chiều hướng khách quan trong cảm thụ, đánh giá văn học.
Những yếu tố từ phía văn bản TP và người đọc trên đây đều quy định tính

khách quan trong tiếp nhận của người đọc, tạo cơ sở để GV định hướng, quy tụ sự
cảm thụ, đánh giá của HS nhằm đạt được hiệu quả tiếp nhận trong sự thống nhất
và phù hợp với nội dung, ý nghĩa khách quan của TP.
Tính thống nhất trong tiếp nhận, đánh giá văn học có cơ sở từ những yếu tố
khách quan thuộc bản chất của văn chương. Mặt khác, hoạt động tiếp nhận TPVC
còn mang đậm dấu ấn chủ quan của người thưởng thức tạo nên tính đa dạng trong
cảm thụ, đánh giá văn học.
Tính chủ quan – phẩm chất trong tiếp nhận thể hiện cá tính sáng tạo, ở sự cảm
thụ xa gần, nông sâu khác nhau của bạn đọc phát triển về văn học trước một hiện
tượng văn học. Trước một chi tiết, một hình ảnh, một sự kiện, một nhân vật…
người đọc ý kiến khác nhau, đôi khi trái chiều nhưng vẫn phù hợp với hình tượng
khách quan, nội dung khách quan của TP. Ngay cả tác giả sáng tác với bạn đọc
không phải lúc nào cũng có sự thống nhất trong cảm thụ và đánh giá TP. Điều này
tạo nên sự phong phú, đa dạng trong hiệu quả tiếp nhận văn chương. N. Đ.
Moldavskaia khẳng định rằng: chúng ta có thể nói mà không sợ lập dị rằng trong
cảm thụ hình tượng nghệ thuật càng chủ quan bao nhiêu thì càng sâu sắc và càng
đầy đủ bấy nhiêu.
Dĩ nhiên, sự đa dạng mang màu sắc chủ quan của người đọc trong tiếp nhận
phải bắt nguồn từ những thành tố cấu thành văn bản. Mọi sự đọc thoát ly văn bản,
khước từ những yếu tố liên quan đến văn bản như: hoàn cảnh xã hội ,thị hiếu thẩm
mĩ thời đại, quan điểm nghệ thuật của tác giả… đều dễ rơi vào sự tiếp nhận tuỳ
tiện, áp đặt, dung tục làm giảm sút hiệu quả tiếp nhận. Vì vậy, GV cũng cần coi


trọng định hướng, điều chỉnh những đánh giá chủ quan, tuỳ tiện, lệch lạc trong tiếp
nhận của HS.
Với đối tượng HS THPT, tiếp nhận TPVC vừa phải đảm bảo nguyên tắc khách
quan, vừa phát huy tính chủ quan trong tiếp nhận. Để việc đọc văn của các em
không phải thuần túy là sự lặp lại mà phải trên cơ sở của sự kế thừa và phát huy.
GV chính là người hướng dẫn, dìu dắt nhằm tạo được hiệu quả thống nhất trong sự

đa dạng trong tiếp nhận, đánh giá TP của HS, qua đó, góp phần phát triển cho HS
năng lực văn nói chung cũng như năng lực đánh giá TPVC nói riêng.
2. Một số biện pháp rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho HS THPT
2.1. Hướng dẫn học sinh đánh giá TPVC trên quan hệ TP với tác giả
*Ý nghĩa và tác dụng của biện pháp
TP là kết quả từ tinh lực, bút lực của nhà văn. Tất cả những yếu tố như: tài
năng, cá tính, trí tuệ, văn hóa…của nhà văn đều chuyển hóa vào trong TP. Nó là
máu thịt, “là đứa con tinh thần” của tác giả. Phan Huy Chú có nhận xét: nhà văn,
nhà thơ thì “Diễn đạt tình cảm đến tột mức và thu lượm mọi cảnh hay việc lạ…
mà nhà học giả giỏi về điển chương không rỗi đầu để tâm đến, cũng không có tài
làm ra…”(Dẫn theo 15). Tìm hiểu TP mà không biết, không nắm bắt những thông
tin cần thiết về tác giả là một thiếu sót, thậm chí còn là sự hời hợt, nông cạn.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu mối quan hệ TP với tác giả là việc làm cần thiết.
Đánh giá TP trên quan hệ tác giả - TP đòi hỏi phải hướng dẫn HS đánh giá
TPVC đúng cá tính sáng tạo, tài năng, phong cách, sự trải nghiệm và tầm tư tưởng
của tác giả, góp phần đánh giá đúng những đóng góp, đặt đúng vị trí TG trong sự
phát triển chung của nền văn học dân tộc.
* Yêu cầu của biện pháp
Đánh giá TP trên quan hệ tác giả với TP đòi hỏi tìm hiểu về cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của tác giả, tìm hiểu một số TP tiêu biểu của tác giả đó, đồng thời
tìm hiểu thêm một số TP tiêu biểu của các tác giả cùng thời, cùng quan điểm sáng
tác và trào lưu nghệ thuật. Tìm hiểu quan điểm nghệ thuật của tác giả đối sánh với
quan điểm nghệ thuật của thời đại. Từ việc tìm hiểu trên, GV hướng dẫn HS phát
hiện và đánh giá được những mặt sau đây:


+ Đánh giá được những nét mới, những điểm sáng tạo hay những hạn chế còn
tồn tại trong nội dung và nghệ thuật của TP.
+ Thông qua nội dung tư tưởng trong TP đánh giá tầm tư tưởng và sự kinh lịch
của tác giả.

+ Đánh giá được những đóng góp của tác giả trong tiến trình phát triển văn
học dân tộc.
VD: Đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta cần đặt TP trong chủ đề về cảm
hứng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu như: Chạy giặc, Ngóng gió đông, Thơ
điếu Phan Tòng, Thơ điếu nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh…Hơn nữa đặt TP vào trong
dòng văn học yêu nước lúc bấy giờ như: thơ Nguyễn Quang Bích, Bùi Hữu Nghĩa
và những bài thơ châm biếm, đả kích của Nguyễn Khuyến, Tú Xương để đánh giá
đóng góp của Nguyễn Đình Chiểu về nội dung, nghệ thuật, về tư tưởng… khẳng
định vị trí của ông trong dòng văn học yêu nước, chống Pháp.
* Hướng dẫn thực hiện biện pháp
- Cho HS sưu tầm những tư liệu theo yêu cầu và sự chỉ dẫn của GV. Để
nguồn tư liệu thêm phong phú, HS không những tìm sách từ thư viện mà còn tra
cứu thông tin trên mạng internet (lưu ý số lượng những nội dung học tập vừa phải,
phù hợp với nội dung dạy học và thời gian học của HS).
VD: Tìm hiểu bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ, GV yêu cầu HS tìm hiểu những nội
dung sau:
+ Hoàn cảnh và tâm trạng của Hàn Mặc Tử khi sáng tác bài thơ này? Mối tình
đơn phương của tác giả với Hoàng Cúc là điều kiện duy nhất để tìm hiểu bài thơ
không?
+ Tác giả đã từng chịu ảnh hưởng của những trào lưu nghệ thuật nào, có
chuyển hoá vào TP không?
HS tra cứu sách và những thông tin về Hàn Mặc Tử, về bài thơ Đây thôn Vỹ
Dạ trên mạng góp phần làm rõ nội dung tư tưởng và nghệ thuật của TP.
- HS tự tìm hiểu, đưa ra ý kiến, nhận định về những đóng góp của TG cho sự
phát triển văn học.


VD: Chúng ta quen thuộc với những nhận định về nhà thơ Xuân Diệu như:
“Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, “ông hoàng của thơ tình”… Với bài
thơ Vội vàng, em có nhận định gì về nhà thơ (một câu ngắn gọn nhất)?

Với yêu cầu này buộc HS phải hoạt động, phải tư duy, nhất là yêu cầu mỗi HS
đưa ra một nhận định.
- Cho HS trao đổi, tranh luận để tìm được tiếng nói chung cho việc nhận định
về tác giả.
VD: Từ Bài ca ngất ngưởng, em có nhận xét gì về Nguyễn Công Trứ?
GV nên cho HS thảo luận nhóm, sau đó để các em phát biểu, tranh luận. Có
thể xảy ra những luồng ý kiến đánh giá khác nhau, việc tranh luận là cần thiết. Tuy
nhiên, GV phải là người trọng tài để giải quyết những ý kiến trên.
- GV đưa ra những bài viết, những lời bình luận của các nhà nghiên cứu có uy
tín đánh giá về tác giả để củng cố tri thức cho các em . Ý kiến của chuyên gia thể
hiện rõ tính trí tuệ và trình độ lý luận trong đánh giá. Đây là việc làm cần thiết.
VD: Sau khi học xong cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân,
GV có thể mượn lời nhận xét của GS. Nguyễn Đăng Mạnh để kết luận: “Có những
cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con
người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên
cao cả hơn, lớn lao hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp,
cái thiên lương”. Nhận định này càng khắc hoạ sâu sắc hình tượng Huấn Cao đối
với HS.
2.2. Hướng dẫn học sinh đánh giá TPVC trên quan hệ nội tại của các yếu tố
trong cấu trúc TP
* Ý nghĩa và tác dụng của biện pháp
Đánh giá TP cần tìm hiểu những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến
ý nghĩa TP. Nhưng, cấu trúc bên trong của TP mới chính là yếu tố quyết định giá
trị TP. Vì vậy, tiếp cận, đánh giá TP trên cơ sở tìm hiểu cấu trúc của chỉnh thể
nghệ thuật, tìm thấy sự liên hệ, sự liên kết giữa các yếu tố trong TP, mới có thể
nắm bắt được những nét đặc sắc của TP.


Biện pháp này giúp HS thấy được sự thống nhất giữa bộ phận và chỉnh thể,
nội dung và hình thức của TP, thấy được sự sáng tạo trong xây dựng hình tượng,

chọn lựa ngôn từ, sự phong phú về nội dung ý nghĩa TP.
* Yêu cầu của biện pháp
- Phải bám sát văn bản, lấy sự hiểu biết chỉnh thể TP làm cơ sở của mọi sự
đánh giá.
- Đọc kĩ văn bản, nắm bắt được thể loại, cốt truyện, bố cục, nhân vật, sự
kiện, tình huống, hình tượng, ngôn từ, chủ đề TP. Từ những hiểu biết trên, HS có
sự nhận thức, đánh giá đúng đắn về nội dung và hình thức của TP.
- Trong quá trình dạy học, HS phát hiện và ghi lại từ ngữ “đắt”, lời nói hay,
các biện pháp nghệ thuật, những khoảng trống, khoảng trắng, những tình huống
truyện độc đáo, sáng tạo … đồng thời, cũng phát hiện những hạn chế về nội dung
tư tưởng và hình thức nghệ thuật của TP.
* Hướng dẫn thực hiện biện pháp
- GV cho HS đọc, đọc diễn cảm toàn bộ văn bản, hoặc những đoạn quan
trọng theo định hướng của thầy, yêu cầu HS nêu những cảm nhận ban đầu về TP.
Với những văn bản thơ, GV tổ chức đọc diễn cảm tìm ra mạch cảm xúc của bài
thơ; còn TP truyện cũng phải chú ý đến hoạt động đọc, ngoài việc đọc ở nhà, GV
lựa chọn những đoạn quan trọng, những câu văn hay, tình cảm đẹp tạo cảm xúc
khi tìm hiểu TP. VD: tìm hiểu Vợ nhặt GV nên cho HS đọc các đoạn như: Tràng
gặp gỡ người phụ nữ nghèo trong những chuyến đẩy xe bò, cảnh Tràng đưa người
phụ nữ nghèo về nhà mình, tâm sự của mẹ chồng nàng dâu, một ngày mới trong
gia đình của Tràng.
- Cho HS phân chia bố cục, sau đó GV định hướng, tổ chức cho HS phát
hiện, lí giải các chi tiết, hình tượng, biện pháp nghệ thuật quan trọng để khái quát
nên nội dung và nghệ thuật TP. Trong quá trình tìm hiểu , GV yêu cầu HS đánh
giá hiệu quả diễn đạt trong từng đoạn, từng phần.
VD: Từ ngữ nào trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng thể hiện rõ vẻ đẹp
hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến? Hãy nêu một vài cảm nhận về từ ngữ
đó, chi tiết đó.



Yêu cầu này chủ yếu để cho HS phát hiện, lí giải, có những nhìn nhận và
đánh giá theo quan điểm riêng và là điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động của
HS trong học tập.
- Tổ chức HS thảo luận nhóm để thống nhất chi tiết nào, hình ảnh nào, từ ngữ
nào trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong TP và đánh giá giá trị của nó. GV định
hướng cách nhìn nhận và đánh giá TP dựa trên kết quả thảo luận của các nhóm và
ý kiến của nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
VD: Từ ngữ nào, câu thơ nào thể hiện quan niệm mới về tình yêu và khát
vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh? Em nêu
cảm nhận về nội dung mà bản thân đã lựa chọn.
GV tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm, sau đó trình bày kết quả làm việc
của các nhóm: cho HS trao đổi, tranh luận. GV có nhận xét, đánh giá, cần thiết
mượn ý kiến của các nhà phê bình để định hướng cách hiểu cho HS.
2.3. Hướng dẫn học sinh đánh giá TPVC trên quan hệ TP với bạn đọc và cuộc
sống.
* Ý nghĩa và tác dụng của biện pháp
Nhà văn là người đã sinh thành ra TP, còn cuộc sống, bạn đọc chính là người
nuôi dưỡng nó. Những TP còn sống mãi với thời gian không thể thiếu bạn đọc.
Chính bạn đọc của mọi thế hệ là người đã chắp thêm cho đôi cánh nghệ thuật của
TP. Hướng dẫn học sinh đánh giá TPVC trên quan hệ với bạn đọc và cuộc sống
hiện nay góp phần lí giải được giá trị, sức sống của TP với cuộc sống.
Hướng dẫn HS đánh giá TPVC trên quan hệ TP với bạn đọc và cuộc sống
hiện nay nhằm đánh giá đúng những giá trị đích thực mà TP mang lại như: nhận
thức, giáo dục tư tưởng tình cảm, thẩm mĩ, dự báo, giải trí và vai trò đồng sáng tạo
của bạn đọc trong tiếp nhận TPVC.
* Yêu cầu của biện pháp
- Biện pháp này yêu cầu tìm hiểu những tác động của TP đối với bạn đọc nói
chung và bạn đọc HS nói riêng và đời sống xã hội hiện nay. Sự tác động ấy có
giúp nâng tầm hiểu biết của họ về mĩ cảm nghệ thuật, quan niệm về cuộc sống, về
nhân sinh.



- Phát hiện sự chuyển biến trong nhận thức của bạn đọc - HS về lẽ sống, về
hành vi, về nhân sinh quan, thế giới quan và nhu cầu tự bộc lộ, tự điều chỉnh mình.
* Hướng dẫn thực hiện biện pháp
- Cho HS nêu cảm nghĩ hoặc rút ra bài học cho bản thân sau khi tiếp nhận
TP.
VD: Bài học lớn nhất của em sau khi học xong bài thơ Vội vàng của Xuân
Diệu?
Dạng câu hỏi này giúp HS tự do thể hiện suy nghĩ, quan điểm của bản thân.
Những suy nghĩ riêng tư của HS cần được tôn trọng, kể cả những ý kiến trái chiều
nhưng phù hợp với khuôn khổ của TP, khuyến khích những luận giải mới mẻ,
sáng tạo.
- Từ TP đã học, GV cho HS viết lại TP theo quan điểm của các em (viết lại
phần đầu hoặc phần cuối TP; viết lại một số sự kiện, chi tiết…) và giải thích tại
sao lại viết như vậy; viết kịch bản hoặc sáng tác thơ… Dù hình thức nào nhưng
phải liên quan đến TP và phù hợp với năng lực của HS.
VD: Nếu có một kết thúc khác cho truyện ngắn Chí phèo của Nam Cao thì
em dự kiến sẽ kết thúc như thế nào? Hãy viết lại, và giải thích cho kết thúc đó.
HS có điều kiện suy nghĩ và thể hiện sức sáng tạo, GV phải khích thích tố
chất sáng tạo ở HS, chọn những kết thúc hay, bất ngờ để nêu trước tập thể.
.
Tóm lại, ở trên, chúng tôi đã đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động dạy
học TP góp phần rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho HS THPT. Mỗi biện
pháp Những đề xuất trên có tính định hướng hoạt động dạy học TPVC cho GV.
Tuy nhiên, trong quá trình rèn luyện năng lực đánh giá, GV có thể linh động trong
tổ chức hoạt động để đạt hiệu quả tối ưu.

III. HIỆU QUẢ ĐỀ TÀI
Trong thời gian tiến hành thực nghiệm ở những lớp mà tôi đảm nhiệm, tôi

nhận thấy sự chuyển biến đáng kể về thái độ và kết quả học tập của HS. HS tích
cực hơn trong quá trình tự học, tự tìm tòi, khám phá. Với những yêu cầu được GV
đặt ra, các em đã tự giác, chủ động tiếp cận, khám phá TP, cập nhật những tri thức


liên quan đến bài học. Phương pháp dạy học thay đổi, bài học được thiết kế bằng
nhiều hoạt động đã gây hứng thú, cởi mở, sinh động cho giờ học. HS được làm
việc, được bộc lộ, trình bày, được thử thách, tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, tư
duy độc lập và biết phối hợp trong công việc nhóm. Hiệu quả học tập được nâng
cao. Chất lượng bài kiểm tra đã tăng dần ở mức khá giỏi, nhiều bài viết đi vào
chiều sâu, giàu cảm xúc. Điều đáng mừng là các em đã nói, đã viết bằng những
suy nghĩ, những cảm thụ, đánh giá riêng của mình. Biện pháp rèn luyện năng lực
đánh giá có tác dụng kích thích HS tự nhận thức, tự bộc lộ.
Dưới góc độ của người nghiên cứu đề tài, tôi thấy đây cũng chỉ mới là kết quả
bước đầu. Đề tài cần nhiều thời gian để nghiên cứu kĩ hơn, sâu rộng hơn nhằm
đánh giá một cách thuyết phục hiệu quả của đề tài.
IV. KẾT LUẬN
Phát triển toàn diện năng lực văn học là mục tiêu trọng yếu của chương trình
dạy học Ngữ văn ở trường THPT. Việc đổi mới nội dung và PPDH là hướng đến
mục tiêu trên. Để đào tạo những thế hệ HS trở thành những bạn đọc thực sự,
chúng ta phải quan tâm rèn luyện để phát triển toàn diện năng lực văn học cho các
em. Từ đòi hỏi trên, tôi chọn đề tài “Biện pháp rèn luyện năng lực đánh giá TPVC
cho HS THPT” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở
trường PT.
Quan điểm đưa HS vào trung tâm của quá trình dạy học thể hiện sự chuyển
biến quan trọng trong triết lý và tư duy giáo dục. Dạy học nói chung và dạy học
Ngữ văn nói riêng cần phải thiết kế theo hướng hoạt động. Chính trong hoạt động,
HS được rèn luyện, được thể nghiệm, được sáng tạo, được phát triển năng lực và
khám phá tiềm năng chính mình. Qua nghiên cứu, tôi nhận thấy mọi sự phát triển
năng lực không thể nằm ngoài hoạt động. Vì vậy, rèn luyện năng lực đánh giá

TPVC theo hướng hoạt động sẽ góp phần phát triển năng lực văn chương cho HS
THPT.
Từ cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tôi đã mạnh dạn đề xuất một số biện
pháp, định hướng hoạt động dạy học nhằm rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho
HS THPT. Mỗi biện pháp, tôi đề ra mục đích, yêu cầu và hướng dẫn thực hiện cụ


thể. Tôi đưa ra nhiều hoạt động cho HS thực hiện trước, trong và sau bài học, để
HS chủ động tìm kiếm, phát hiện kiến thức. Các biện pháp được chúng tôi đề xuất
góp phần tăng cường hiểu biết kĩ hơn, sâu sắc hơn về TP, là điều kiện cần thiết để
HS đánh giá TPVC.
Rèn luyện năng lực đánh giá TPVC cho HS THPT là việc làm cấp thiết và có
ý nghĩa. Phát triển toàn diện năng lực văn học của HS không thể không quan tâm
đến yêu cầu này. Đây là một đề tài hấp dẫn, có tính khoa học và thực tiễn cao.
Trong khuôn khổ của một sáng kiến, tôi chưa thể giải quyết trọn ven mọi vấn đề
của đề tài. Hi vọng với một công trình nghiên cứu khác, tôi có đủ điều kiện và thời
gian sẽ giải quyết đề tài một cách sâu sắc, toàn diện hơn, góp phần ứng dụng vào
dạy học Ngữ văn trong trường PT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. G. Côvaliôp (1971), Tâm lí học cá nhân, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Thanh Hùng ( 2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
3. A. N. Lêônchiep (1989), Hoạt động – ý thức – nhân cách, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
4. Phan Trọng Luận (1978), Con đường nâng cao hiệu quả dạy học văn, NXB
Giáo dục; Hà Nội .
5. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
6. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên) (2008), Ngữ văn 11, Tập 1-2, NXB Giáo Dục,
Hà Nội.

7. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên) (2008), Ngữ văn 11, Sách giáo viên, Tập 1-2,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Phan Trọng Luận (chủ biên) (1998), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở
nhà trường phổ thông, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
9. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương, bạn đọc sáng tạo, NXB ĐHQG, Hà Nội.
10. Phan Trọng Luận (2007), Văn học nhà trường: Nhận diện – Tiếp cận – Đổi
mới, NXB ĐHSP Hà Nội.


11. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh (2007), Phương pháp dạy học văn T1, NXB
ĐHSP, Hà Nội.
12. V. A. Nhikhônxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ
thông, NXBGD.
13. Z. Ia. Rez (chủ biên) (1983), Phương pháp luận dạy văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
14. Trần Đình Sử (2008), Lí luận văn học ( T2), NXB ĐHSP, Hà Nội.
15. Trịnh Xuân Vũ (2003), Phương pháp dạy học văn ở bậc trung học, NXB
ĐHQG TP HCM.
16. L. X. Vưgôtxki (1995), Tâm lí học nghệ thuật (tái bản), NXB KHXH- Trường
viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.




×