Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Sự kiện và nguyên nhân xảy ra các cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán mỹ - hy lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 50 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA KINH TẾ


Đề tài : SỰ KIỆN VÀ NGUYÊN NHÂN
XẢY RA CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
MỸ - HY LẠP
GVHD : Võ Thị Xuân Hạnh
Nhóm thực hiện : Nhóm 7

TPHCM, ngày 23 tháng 4 năm 2014


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................... 1
GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ ................................... 2
CHƢƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU ......................................... 4
1.1)

Đặt vấn đề ................................................................................................................. 4

1.2)

Mục tiêu của đề tài ................................................................................................... 4

1.2.1) Mục tiêu chung ........................................................................................................ 4
1.2.2) Mục tiêu cụ thể ....................................................................................................... 5


1.3)

Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................... 5

1.3.1) Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 5
1.3.2) Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................ 5
1.4)

Kết cấu của đề tài ..................................................................................................... 5

CHƢƠNG II: KHỦNG HOẢNG THỊ TRƢỜNG TÀI
CHÍNH HOA KỲ 2007 – 2009 .......................................... 6
2.1) Diễn biến cuộc khủng hoảng .................................................................................. 6
2.1.1) Thị trƣờng chứng khoán Mỹ năm 2007................................................................. 6
2.1.2) Thị trƣờng chứng khoán Mỹ năm 2008................................................................ 7
2.2)

Nguyên nhân khủng hoảng .................................................................................... 10

2.2.1)

Nguyên nhân trực tiếp ....................................................................................... 10

2.2.2)

Nguyên nhân gián tiếp ....................................................................................... 16

2.3)

Tác động của cuộc khủng hoảng đối với Mỹ và thế giới ..................................... 21


2.3.1) Tác động của cuộc khủng hoảng đối với Mỹ ....................................................... 21
2.3.2) Tác động của cuộc khủng hoảng đối với thế giới ................................................ 21
2.4)

Ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng đến thị trƣờng chứng khoán....................... 22

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

CHƢƠNG III: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở HY LẠP
...... .....................................................................................26
3.1)

Thực trạng Hy Lạp ................................................................................................ 26

3.2)

Thực tế diễn biến và tác động của khủng hoảng nợ công Hy Lạp. .................... 27

3.2.1)

Diễn biến khủng hoảng ...................................................................................... 27

3.2.2) Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ ........................................ 34
3.3)

Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công .......................................................... 36


3.3.1)

Tiết kiệm trong nƣớc thấp dẫn tới vay nƣớc ngoài cho chi tiêu công............ 36

3.3.2)

Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách ....................................... 37

3.3.4)

Nguồn thu giảm sút ............................................................................................ 37

3.3.5) Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và việc sử dụng nguồn
vốn không hiệu quả ................................................................................................................ 38
3.3.6)

Thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tƣ .................................... 39

3.3.7)

Tham nhũng, hối lộ ............................................................................................ 39

3.4)

Tác động khủng hoảng nợ công Hy lạp tới TTCK thế giới ................................ 40

3.5)

Nhận định về cuộc khủng hoảng này .................................................................... 43


Nhóm 7: Quản lý công nghiệp


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

LỜI CẢM ƠN
Đề tài này là kết quả của quá trình chúng em học tập và nghiên cứu. Nhờ sự
hướng dẫn và giúp đỡ của cô Võ Thị Xuân Hạnh, chúng em đã hoàn thành đề tài
đúng hẹn, tích lũy thêm những kiến thức liên quan đến môn học “Thị Trường
Chứng Khoán” và đặc biệt chúng em có cái nhìn bao quát về tình trạng ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính trong chính quốc gia đó và toàn thế giới.
Bước đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về các cuộc khủng hoảng trên thế giới có thể
nhóm em sẽ bỏ sót một số nước tiêu biểu vì kiến thức của chúng em còn hạn chế.
Do vậy, chúng em khó tránh khỏi những sai xót. Chúng em rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của Cô và các bạn học cùng lớp để hoàn thiện hơn
đề tài này và củng cố thêm kiến thức cho bản thân trong cùng lĩnh vực. Nhờ đó mà
chúng em sẽ hoàn thành tốt hơn bài thuyết trình sắp tới.
Chúng em đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Võ Thị Xuân Hạnh, Cô đã
định hướng đề tài, tận tình hướng dẫn cho chúng em về mặt nội dung lẫn hình thức
làm đề tài để có thể hoàn thành tốt báo cáo đúng hạn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các bạn đang học lớp Thị Trường
Chứng Khoán đã góp ý, chia sẽ một số kinh nghiệm để hoàn thành tốt bài báo cáo
này.

Nhóm 7

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 1



GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ
Dow Jones: chỉ số này để đánh giá khu vực công nghiệp của thị trường chứng
khoán tại Hoa Kỳ, nó là chỉ số lâu đời thứ hai ở Mỹ
Chỉ số S&P : chỉ số S&P 500: một chỉ số bao gồm 500 loại cổ phiếu được lựa
chọn từ 500 công ty có mức vốn hóa thị trường lớn nhất của Mỹ. Chỉ số S&P 500
được thiết kế để trở thành một công cụ hàng đầu của thị trường chứng khoán Mỹ và
có ý nghĩa phản ánh những đặc điểm rủi ro/lợi nhuận của các công ty hàng đầu.
Chỉ số Nasdaq: chỉ số kết hợp Nasdaq là chỉ số chứng khoán của tất cả các cổ
phiếu phổ thông và chứng khoán tương tự được niêm yết trên Sàn giao dịch chứng
khoán NASDAQ. Điều này có nghĩa rằng chỉ số được xây dựng từ hơn 3000 cổ
phiếu bộ phận. Do trên sàn Nasdaq có cả các cổ phiếu của các công ty Mỹ và công
ty nước Ngoài, nên chỉ số Nasdaq không chỉ là chỉ số cổ phiếu của chứng khoán
Mỹ.
Chỉ số VIX: chỉ số biến động giao dịch quyền chọn (CBOE). Chỉ số VIX được
dùng để tính toán biến động ngắn hạn của thị trường, việc tính toán chỉ số này chỉ
có giá trị trong 2 tháng. Chỉ số VIX phụ thuộc vào sự lo sợ của nhà đầu tư về khả
năng giá chứng khoán tiếp tục hạ.
IFM: IMF là viết tắt của quỹ tiền tệ quốc tế (International monetary fund). Là
một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối
đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu
cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C, thủ đô của Hoa Kỳ.
MBS (mortgage-backed securities): là các chứng khoán sinh ra từ sử dụng
huy động vốn bằng hình thức đòn bẫy tài chính thông qua việc cổ phiếu hóa các
khoản vay nợ mua nhà.
IMF: quỹ tiền tệ quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund) là một tổ
chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và

cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu.
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 2


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

CDS: hợp đồng hoán đổi tín dụng.
FED: Cục dự trữ liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System) là ngân hàng
trung ương của Hoa Kỳ.
SEC: ủy ban chứng khoán Mỹ.

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 3


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

CHƢƠNG I: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1) Đặt vấn đề
Thị trường chứng khoán (TTCK) là một kênh dẫn vốn quan trọng đồng thời
đóng vai trò là thước đo đánh giá hoạt động của nền kinh tế, nơi chính phủ thi hành
nhiều biện pháp quản lý đối với nền kinh tế. Nếu có khủng hoảng trên thị trường
chứng khoán thì chắc hẳn ảnh hưởng của nó là không nhỏ đối với mỗi quốc gia. Và
thật sự thì điếu đó đã xảy ra, bằng chứng là các cuộc khủng hoảng đã liên tiếp diễn
ra vào cuối những năm của thế kỷ XXI, như cuộc Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ
2007-2009 và Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp vào đầu năm 2010.
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh

vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007 với sự sụp đổ
của “bong bóng thị trường bất động sản”, kế tiếp là nhiều lĩnh vực tài chính như
ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán cũng sụp đổ, đưa Mỹ rơi vào tình cảnh tồi tệ
chưa từng có và lan ra toàn thế giới.
Khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng nợ công với điểm bùng
nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ
liên tục tăng lên. Nguyên nhân đầu tiên và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo
EU đề cập là tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế
khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích
thích nền kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công
một cách đáng kể.
Tất nhiên hai cuộc khủng hoảng trên đều có tác động đến thị trường chứng
khoán của 2 quốc gia đó. Để biết rõ hơn về những gì đã xảy ra cũng như hậu quả mà
các cuộc khủng hoảng để lại cho thị trường chứng khoán hai nước Mỹ, Hy Lạp và
thế giới, nhóm chúng em xin trình bày đề tài: “Sự kiện và nguyên nhân xảy ra các
cuộc khủng hoảng trên thị trƣờng chứng khoán Mỹ - Hy Lạp”.

1.2) Mục tiêu của đề tài
1.2.1) Mục tiêu chung

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 4


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Tìm hiểu thực trạng và diễn biến của các cuộc khủng hoảng tài chính tại
Mỹ và Hy Lạp, đi sâu vào phân tích nguyên nhân khủng hoảng và tìm hiểu ảnh
hưởng của nó đến thị trường chứng khoán tại Mỹ, Hy Lạp và các nước trên thế

giới.
1.2.2) Mục tiêu cụ thể
-

Tìm hiểu thực trạng và diễn biến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và Hy Lạp.

-

Phân tích những nguyên nhân xảy ra các cuộc Khủng Hoảng Tài Chính này.

-

Phân tích những ảnh hưởng của Khủng Hoảng Tài Chính đến Thị Trường
Chứng Khoán tại Mỹ, Hy Lạp và các nước trên thế giới.

-

Phân tích những tác động của khủng hoảng tài chính tới kinh tế Việt Nam
nói chung và TTCK nói riêng và đề ra các giải pháp hạn chế các tác động đó.

1.3) Phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
1.3.1) Phạm vi nghiên cứu
Đề tài phân tích những ảnh hưởng của Khủng Hoảng Tài Chính đến Thị Trường
Chứng Khoán tại Mỹ giai đoạn 2007-2009, tại Hy Lạp giai đoạn đầu năm 2010 và
các nước trên thế giới.
1.3.2) Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp thông tin
từ các báo cáo của các tổ chức nghiên cứu kinh tế, các công ty chứng khoán tại Mỹ,
Hy Lạp và các nước trên thế giới. Từ đó đưa ra các nhận xét và đánh giá về mức độ
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến thị trường chứng khoán tại quốc gia đó và

toàn thế giới.

1.4) Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài này được chia thành 5 chương cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Mở đầu.
Chƣơng 2: Khủng hoảng thị trƣờng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 - 2009
Chƣơng 3: Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
Chƣơng 4: Kết luận

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 5


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

CHƢƠNG II: KHỦNG HOẢNG THỊ TRƢỜNG
TÀI CHÍNH HOA KỲ GĐ 2007 – 2009
2.1) Diễn biến cuộc khủng hoảng
2.1.1) Thị trƣờng chứng khoán Mỹ năm 2007
Thị trường chứng khoán Phố Wall – thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới –
đã trải qua một năm có thể nói là “năm đen tối” nhất trong vòng 20 năm qua, với
nhiều đợt sụt giá nghiêm trọng:
- Ngày 27/2/2007, phố Wall đã phải chứng kiến một ngày giao dịch đen tối
nhất kể từ sau vụ khủng bố 11/9/2000: các cổ phiếu trên Phố Wall đều đồng loạt
mất giá, đẩy chỉ số chứng khoán DJ giảm 416,2 điểm (3,29%) xuống 12,216,24
điểm và chỉ số Nasdaq giảm 3,86% xuống mức 2.407,86 điểm vào lúc đóng cửa
phiên giao dịch ngày 27/2.
- Trong phiên giao dịch ngày 9/8, Chỉ số Down Jones giảm gần 387 điểm, tức
2,8% xuống dưới 13.500 điểm (mức giảm lớn nhất kể từ sau cú giảm 416 điểm hồi

cuối tháng hai vừa rồi) trong khi chỉ số S&P giảm 1,7% và Nasdaq giảm 1,4%, đợt
rớt giá này kéo dài liên tục đến nửa đầu tháng 9.
- Ngày 19/10, DJ mất tới 366,94 điểm (2,64%) – ghi nhận đây là lần thứ 9 mất
giá trong một phiên lớn nhất kể từ ngày 19/10/1987 (khi đó DJ mất giá tới 23% do
các nhà đầu tư lo ngại lãi suất và sự phát triển chậm lại của kinh tế Mỹ).
- Trong những phiên giao dịch cuối tháng 11, đầu tháng 12/2007, TTCK Phố
Wall lại thêm một đợt “chao đảo”. Các chỉ số chứng khoản chủ chốt như DJ,
Nasdaq và S&P 500 đều giảm xuống mức thấp mới kể từ tháng 2/2007. Đợt giảm
giá này khiến các nhà đầu tư tỏ ra lo ngại và liên tưởng tới một ngày “Thứ 2 đen
tối” trên Phố Wall.
Trước sự chao đảo của TTCK và khủng hoảng tín dụng, Cục dự trữ liên bang
Mỹ (FED) đã không thể đứng ngoài cuộc. Để bình ổn TTCK, FED đã phải “bơm”
hàng chục tỷ USD vào thị trường:

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 6


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

- Chỉ trong 2 ngày 9 và 10/8, FED đã rót 62 tỷ USD vào hệ thống tài chính-đây
là đợt “bơm tiền” với số lượng lớn nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tháng 9/2001.
- Ngày 18/9/2007, trong nỗ lực ngăn chặn sự sụt giá kéo dài trên các TTCK
Mỹ, lần đầu tiên trong vòng gần 40 tháng, FED đã quyết định thực hiện chính sách
tiền tệ nới lỏng thông qua cắt giảm lãi suất cơ bản 0,5% xuống còn 4,75%/năm.
- Ngày 31/10/2007, chỉ hơn một tháng sau lần cắt giảm lãi suất trước, FED tiếp
tục thực hiện cắt giảm lãi suất, với mức cắt giảm 0,25%, lãi suất cơ bản đã giảm
xuống còn 4,5%/năm.
- Trong cuộc họp thường kỳ ngày 11/12/2007, lần thứ 3 trong năm, FED đã

phải thực hiện nới lỏng tiền tệ thông qua quyết định hạ thêm 25 điểm lãi suất cơ bản
xuống còn 4,25%/năm.
- Bên cạnh đó, FED cùng một số NHTW trên thế giới đã thành lập một quỹ
“ứng cứu” thị trường lên tới 81 tỷ USD. Ngay sau khi quỹ này được thành lập đã có
hàng trăm ngân hàng đệ đơn xin vay. Tính đến cuối tháng 12 đã có 60 tỷ USD được
giải ngân, số tiền còn lại sẽ tiếp tục được giải ngân vào đầu năm 2008.
- Những nỗ lực can thiệp của FED dường như chưa đủ lực để hỗ trợ cho sự
phục hồi trên các TTCK Mỹ. Có thể thấy rằng, sự biến động trên TTCK Mỹ trong
năm 2007 rất phức tạp, và bất kỳ sự phục hồi nào đều chỉ mạng tính ngắn hạn và
tạm thời. Giới đầu tư tiếp tục tỏ ra lo ngại về những thiệt hại xuất phát từ các khoản
cho vay thế chấp nhà đất không có khả năng thanh toán ở Mỹ sẽ khoét sâu thêm vào
tình trạng vốn đang yếu kém của thị trường tiền tệ. Giới đầu tư cũng cho rằng,
những giải pháp của FED vẫn chưa thực sự quyết liệt trong nỗ lực khôi phục thị
trường tài chính, các nhà đầu tư mong chờ một quyết định cắt giảm lãi suất mạnh
mẽ hơn, với 75 điểm cơ bản trong cuộc họp thường kỳ của FED vào trung tuần
tháng 1/2008.
2.1.2) Thị trƣờng chứng khoán Mỹ năm 2008
Bước vào năm 2008, kinh tế Mỹ và cả thế giới vẫn “hứa hẹn” sự tăng trưởng dù
những lo ngại về một sự bất ổn nền tài chính Mỹ đang manh nha bộc lộ. Thực tế

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 7


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

GDP của Mỹ, Nhật, nền kinh tế 15 nước sử dụng chung đồng Euro vẫn đạt mức
tăng trưởng trong quý 1.
Thế nhưng, những diễn biến phức tạp trên thị trường hàng hóa cơ bản khi giới

đầu cơ gia tăng lũng đoạn đã khiến giá lương thực - thực phẩm tăng vọt, giá dầu
tăng đột biến lên 147,27 USD/thùng vào tháng 7/2008..., đẩy lạm phát ở mức cao.
Tiếp đó, nhu cầu hàng hóa bắt đầu suy giảm, sản xuất đình trệ, xuất khẩu bắt đầu
giảm mạnh. Một cuộc suy thoái kinh tế lộ rõ khi bước vào quý 3/2008, đồng thời
nguy cơ giảm phát đang cận kề với nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Chính sách tiền tệ của nhiều ngân hàng trung ương đã thay đổi chóng vánh,
trong đó Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã 6 lần hạ lãi suất cơ bản, đưa mặt bằng
lãi suất đồng USD từ 4,25% xuống 0-0,25%, Nhật hạ lãi suất đồng Yên xuống còn
0,1%, ECB hạ lãi suất đồng Euro từ 4,75% xuống 2,5%...
Kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới nói chung cũng chịu tác động nghiêm trọng từ
việc “bong bóng” thị trường bất động sản Mỹ “xì hơi”, với rủi ro lan tỏa từ Mỹ sang
các nước phát triển và toàn cầu, với hệ quả là sự đổ vỡ dây chuyền của hệ thống tài
chính.
Sự đổ vỡ và tan rã của hệ thống ngân hàng đầu tư ở Phố Wall là sự thay đổi
mang tính chất lịch sử của ngành tài chính thế giới, khi các tên tuổi uy tín như
Lehman Brothers bị phá sản, Bear Stearns và Merill Lynch bị thâu tóm, Morgan
Stanley và Goldman Sachs phải chuyển đổi sang mô hình ngân hàng tổng hợp (bank
holding company).
Hệ lụy của những thương vụ đầu tư trên thị trường nợ dưới chuẩn ở Mỹ là một
kết cục tồi tệ tất yếu của nền tài chính Mỹ với 25 ngân hàng thương mại, tiết kiệm
bị phá sản-trong đó nổi lên là vụ phá sản của Washington Mutual.
Khủng hoảng cũng gây nên những hệ lụy đau đớn cho thế giới tài chính châu
Âu, với sự phá sản của nhiều ngân hàng nhỏ, trong khi nhiều định chế tài chính lớn
như UBS (Thụy Sỹ), Royal Bank of Scotland, HBOS (Anh), BNP Paribas (Pháp),
Fortis (Bỉ, Hà Lan) vẫn đứng trước sóng gió, cần được giải cứu, tăng vốn... và đang
chịu những khoản thua lỗ khổng lồ.

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 8



GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Năm 2008, giới đầu tư từng chứng kiến các chỉ số chứng khoán Mỹ đồng loạt
tăng trên 11%, một mức tăng “kinh hoàng” trong phiên giao dịch ngày 13/10. Thế
nhưng đó chỉ là bề nổi cho một tảng băng chìm.
Trong 5 ngày giảm điểm liên tiếp trước đó từ (1/10-7/10), chỉ số Dow Jones đã
mất 1.400 điểm, tương đương mức sụt giảm 13% giá trị và xuống dưới ngưỡng
9.500 điểm. Chỉ số S&P 500 và chỉ số Nasdaq cũng có mức trượt giảm trên 10%
sau 5 ngày – mức giảm đi vào lịch sử ở thị trường phát triển nhất thế giới này.
Thời điểm cuối tháng 9 đầu tháng 10 đã tô đậm nhất về bức tranh tối tăm của thị
trường chứng khoán Mỹ, trong sóng gió của một cuộc Đại khủng hoảng tài chính,
dẫn đến một bầu không khí bi quan tột độ của giới đầu tư.
Chỉ số Dow Jones có lúc đã giảm 42% giá trị trước khi có sự phục hồi và giảm
34,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số S&P 500 giảm 39,3% giá trị, chỉ số Nasdaq
hạ 41,5%.
Giá trị vốn hóa toàn thị trường chứng khoán (cổ phiếu) Mỹ mất khoảng 7.500 tỷ
USD-mức giảm lớn nhất trong lịch sử thị trường này.
Giá trị cổ phiếu trong 9 ngành cơ bản của chỉ số S&P 500 cũng sụt giảm mạnh,
với mức giảm kỷ lục của ngành tài chính, nguyên vật liệu...

Xét riêng 30 cổ phiếu blue-chip trong chỉ số Dow Jones, 28/30 cổ phiếu đều
giảm mạnh, chỉ có hai mã chứng khoán của Tập đoàn McDonalds (NYSE-MCD) và
Wal Mart Stores (WMT) là có sự tăng trưởng.

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 9



GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Vốn hóa thị trường của 30 cổ phiếu trong chỉ số này đã sụt giảm hơn 1.000 tỷ
USD, trong đó cổ phiếu Citigroup, General Motor, General Electric có mức giảm
lớn nhất-riêng cổ phiếu General Motor đang đứng trước khả năng bị loại khỏi chỉ số
Dow Jones.

Còn nhớ, khi cuộc Đại khủng hoảng kinh tế xảy ra năm 1929, chỉ số Dow Jones
và S&P 500 mất 17%. Sang các năm 1930, 1931,1932, chỉ số Dow Jones giảm lần
lượt là 34%, 53% và 22%. Đến năm 1933, thị trường chứng khoán Mỹ mới hồi phục
với chỉ số Dow Jones tăng 67% và chỉ số S&P 500 tăng 48%.
Trong năm 2008, thị trường chứng khoán giảm mạnh và được ví như thời kỳ
năm 1931. Và điều này làm giới đầu tư liên tưởng tới năm 2009 sẽ giống như năm
1932 - khi thị trường chứng khoán sẽ giảm ít hơn năm trước đó.
Theo kịch bản này, 2010 sẽ là năm hồi phục của thị trường chứng khoán Mỹ,
giống như sự hồi phục ấn tượng của năm 1933 thế kỷ trước.
Một năm sóng gió của cuộc khủng hoảng tài chính - suy thoái kinh tế toàn cầu
đã qua đi, song hệ lụy của nó chắc chắn sẽ vẫn còn để lại cho năm 2009. Nhiều điều
khó tin đã xảy ra, mà sử sách sẽ còn lưu giữ.

2.2)

Nguyên nhân khủng hoảng
2.2.1)

Nguyên nhân trực tiếp

Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về
nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây. Trong khi nguồn vốn tín

dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh
nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom và khủng hoảng các
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 10


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày
càng kiểm soát thâm thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài.
Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường
không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài
toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái
quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín dụng, chính
là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007.
Cách thức tạo khủng hoảng:
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn được thực hiện thông qua một công cụ tài
chính hiện đại khá tinh vi được gọi là nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation).
Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát triển
mạnh từ thập kỷ 90.
Về bản chất, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng
các tài sản sẵn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành
các loại chứng khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát
hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ
một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp
nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.
Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao
gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các
khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ

dưới chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield bond) hay các khoản cho vay
bất động sản thương mại.
Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất thiết phải
nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách dễ
dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản
đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư tự tin bơm vốn vào hoạt
động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng.
Quá trình này được thực hiện một cách cơ bản như sau: trước tiên, ngân hàng
đầu tư tạm ứng nguồn vốn cho các công ty tài chính chuyên về cho vay thế chấp
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 11


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

mua nhà dưới chuẩn. Các công ty tài chính thực hiện cho vay mua nhà thông qua
mạng lưới các đại lý cho vay. Các đại lý cho vay là người làm việc trực tiếp với
khách hàng, thẩm định tín dụng theo các mẫu hồ sơ chuẩn của công ty tài chính và
chuyển hồ sơ cho công ty tài chính phê duyệt. Sau khi phê duyệt, công ty tài chính
sẽ làm thủ tục thế chấp nhà đất và tiến hành giải ngân. Các công ty tài chính sẽ gom
các khoản cho vay lại thành một danh mục tín dụng gồm nhiều khoản vay và bán lại
cho ngân hàng đầu tư mà thực chất là thanh toán số tiền ngân hàng đầu tư đã cung
ứng trước cho công ty tài chính. Sau khi đã mua danh mục tín dụng dưới chuẩn, các
ngân hàng đầu tư thực hiện chứng khoán hóa chúng. Danh mục tín dụng được bán
sang cho một công ty có mục đích đặc biệt (special purpose vehicle) do ngân hàng
đầu tư lập lên và công ty này phát hành chứng khoán nợ cho nhà đầu tư.
Công ty đặc biệt này không có vốn, không có nhân viên mà chỉ có tài sản là
danh mục cho vay và công nợ là các trái phiếu phát hành. Tất cả các hoạt động như
theo dõi, thu đòi nợ và thanh toán gốc, lãi trái phiếu đều được thuê ngoài cho công

ty dịch vụ (thường chính là công ty tài chính thực hiện cho vay). Trong điều kiện lý
tưởng, khi các danh mục cho vay được thu hồi toàn bộ và thanh toán hết nợ trái
phiếu cho nhà đầu tư thì công ty đặc biệt này hoàn thành nhiệm vụ và được giải thể.
Chứng khoán nợ phát hành tạm gọi là trái phiếu được đảm bảo bởi danh mục cho
vay thế chấp mua nhà (mortgage backed obligations). Trái phiếu được phân ra thành
nhiều gói (tranche) được định mức tín nhiệm với các hệ số khác nhau, có mức độ
rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau, ví dụ gói A, gói B và gói Z. Gói A với
hệ số tín dụng cao nhất được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên. Sau khi thanh toán hết
gốc của gói A, sẽ đến lượt gói B và cuối cùng là gói Z. Gói Z là gói đặc biệt không
được định mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro tín dụng cao nhất do đó có tính chất như
cổ phiếu. Nếu danh mục tín dụng hoạt động tốt, gói Z sẽ hưởng nhiều lợi nhuận
nhất và ngược lại. Nguyên tắc phân chia dòng tiền cho các trái chủ được gọi là
nguyên tắc thác nước tức là nước chảy từ trên xuống dưới. Như vậy các nhà đầu tư
có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở
thích rủi ro của mình. Đây cũng chính là động lực kích thích nhu cầu mua các loại
trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn.

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 12


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Diễn biến của tình trạng cho vay cầm cố nhà đất dưới chuẩn ở Mỹ: Trên thực tế
là ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả
lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ
giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và
dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao
thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp

Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản.
Thứ nhất là, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự
trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng
cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay
tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so
với lãi suất cơ bản của FED, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng
phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là
trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003
thì chỉ còn 1%.
Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc
bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu
được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua
hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty
này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay
của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm
bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho
các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear
Stearns và Merrill Lynch. Điều này được tiến hành cụ thể như sau: Fannie Mae,
hoặc là một công ty tài chính khác như Lehman Brothers, bỏ tiền ra mua lại các
khoản cho vay thế chấp từ các ngân hàng thương mại, tập trung chúng thành từng
loại khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư.
Ví dụ, Fannie Mae mua 1.000 khoản vay thế chấp với các đặc điểm giống nhau
với gốc là 200.000 USD cho mỗi khoản vay. Khi tập trung lại thì tổng trị giá các
khoản vay này sẽ là 200.000.000 USD. Fannie Mae có thể biến khoản này thành

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 13



GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

100.000 MBS, trị giá 2.000 USD một phần và bán lại cho các nhà đầu tư. Nếu nhà
đầu tư A mua 10 MBS thì sẽ trả 20.000 USD.
Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc
được chuyển đến hằng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ
trung gian) trong một khoản thời gian nhất định nào đó. Tóm lại, nếu không có gì
trục trặc thì sau khi hết khoảng thời gian nhận lại tiền, thì tổng số tiền mà nhà đầu tư
nhận được sẽ là trên 20.000 USD (Tiền vốn gốc bỏ ra đầu tư cộng với tiền lãi hằng
năm). Các MBS dựa trên các khoản vay có tính chất rủi ro cao hơn thì tất nhiên sẽ
đem lại lời nhiều hơn cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành
các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động
sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty
chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các
nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn
ngoại quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô
cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của
chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm
đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn
các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương
mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của
người vay. Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công
ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo
hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được gọi là Credit Default Swap
(CDS), với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp những
người vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi
thường. Sự việc này đã tạo nên một loạt chân rết mới, kéo thêm các thành phần
khác nhảy vào cuộc chơi, bởi vì bán bảo hiểm loại này trong lúc thị trường bất động

sản đang phất lên và ít người vỡ nợ thì rất có lời. Hiện tượng bong bóng bất động
sản nảy sinh: Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 14


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà.
Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường
được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa
thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi
suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào
thành phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate). Bất kể khả
năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này
đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ
vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Điều đó cho chúng ta thấy rằng khoản
cho vay dưới chuẩn đã tăng lên một cách nhanh chóng. Cũng theo ước tính của
nhiều chuyên gia (Thời Báo Kinh tế VN ngày 03/10/2008) trong 22.000 tỷ USD giá
trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000 tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng
4.000 tỷ USD là nợ xấu. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản
cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty
khác, chẳng hạn như Lehman Brothers. Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các
nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn
chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có
thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các công ty bảo hiểm và đầu tư
khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng mạnh tay hơn trong việc bán
CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình. Vì dễ vay cho nên nhu cầu

mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân
đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất)
đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên.
Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả
nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó,
một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Sự sụp đổ dây chuyền bất động sản – tài chính:
Do lo lắng về diễn biến lạm phát lạm phát gia tăng mạnh tăng từ 1.6% (2002)
đến 4.3% (2006), Cục Dự trữ liên bang (DTLB) bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến
việc thị trường bất động sản (BĐS) bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi
vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của FED chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 15


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

đã tăng lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho
vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ
vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người
mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu thấp
hơn khoản nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền
với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh
trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không
được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà
cho ngân hàng trưng thu lại. Việc ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ
ngân hàng mỗi tháng dẫn đến việc trị giá của các MBS bị tụt dốc. Như đã nói lúc
đầu, có rất nhiều nhà đầu tư ở Phố Wall đã mua MBS. Do đó, khi MBS mất giá thì
đồng nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu hụt vốn. Bên

cạnh đó, các công ty bảo hiểm MBS, chẳng hạn như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn
đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Ngoài ra, các
ngân hàng thương mại hoặc các công ty cho vay thế chấp còn giữ lại phần lớn các
khoản vay cho mình (thay vì bán lại cho Fannie Mae chẳng hạn) cũng nhìn dòng
vốn và tín dụng của mình bị cạn kiệt khi phải đương đầu với tỷ lệ mất khả năng trả
nợ ngày càng cao của người vay thuộc nhóm dưới chuẩn. Vì có nhiều mối liên hệ
chằng chịt giữa người vay và nhiều thành phần cho vay trực tiếp cũng như gián tiếp,
việc tụt dốc của thị trường bất động sản đã ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tài
chính nói chung. Mức độ lan tỏa và nghiêm trọng của vấn đề là do sự mua đi bán lại
các công cụ tài chính phát sinh (các MBS và CDS) đã kéo quá nhiều các thành phần
đầu tư, trong cũng như ngoài nước, vào cuộc chơi trong khi luật lệ của sân chơi thì
vẫn thiếu sót hoặc không rõ ràng. Vấn đề mấu chốt hiện giờ là sự khan hiếm tín
dụng đang hoành hành. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu
tư bắt đầu bán tháo bán đổ các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm cách bảo tồn vốn.
Sự việc này dẫn đến niềm tin vào thị trường bị tụt dốc và "suy nghĩ và hành động
bầy đàn" trở nên phổ biến, bắt buộc chính phủ phải xen vào thị trường một cách
rộng lớn và táo bạo để khôi phục niềm tin.
2.2.2)

Nguyên nhân gián tiếp

 Sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô:
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 16


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Các Ngân hàng trung ương của các nước phương Tây đã cắt giảm lãi suất quá

sâu và duy trì mức lãi suất thấp trong thời gian quá dài, sau sự sụp đổ hàng loạt của
các công ty công nghệ và những bê bối tài chính của các tập đoàn trong năm 20002002. Lãi suất cơ bản thấp và tín dụng rẻ, dễ tiếp cận trở thành nhân tố kích thích
mạnh đầu tư vào tiêu dùng trong nền kinh tế. Niềm tự hào về 3/4 sự tăng trưởng của
nền kinh tế Mỹ dựa vào tiêu dùng trong nước lại là nguyên nhân của những tích tụ
khổng lồ nợ quá hạn ở các ngân hàng cũng như làm gia tăng tình trạng chứng khoán
hoá các khoản nợ của các tín dụng cho vay, ngân hàng và đầu tư mất khả năng kiểm
soát tình hình, dự trữ bắt buộc nằm mức dưới chuẩn và năng lực thanh khoản của
các ngân hàng bị giảm sút. Do đó, khi "bong bóng" nhà đất bị nổ, sự suy sụp của
các ngân hàng và các tập đoàn đầu tư lớn ở Mỹ sẽ tất yếu xảy ra.
Ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển và các nước xuất khẩu dầu
đã thêm vào sự dư thừa tiền tệ toàn cầu thông qua việc neo giữ tỷ giá ngoại tệ.


Khủng hoảng từ hành vi mua bán khống trục lợi

Các nhà đầu cơ đoán chắc rằng giá cổ phiếu của những tập đoàn liên quan đến
cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm đã ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra. Quá
trình này tạo nên một áp lực giảm giá lớn không cứu vãn nổi. Và khi giá trị các cổ
phiếu này giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua lại và trả về nơi cho vay kèm theo
một ít phí, số tiền chênh lệch còn lại họ sẽ hưởng trọn.
Không dừng lại ở đó, các nhà đầu cơ còn nghĩ ra phương thức mua bán khống
đến hai lần, tức là họ không cần vay cổ phiếu của các tập đoàn nữa nhưng vẫn ra
lệnh bán. Sau đó, trong thời gian ba ngày họ sẽ tìm cách mua lại số lượng cổ phiếu
đã bán kia để hưởng chênh lệch do giá cổ phiếu giảm mạnh. Thực tế hình thức này
có thể thực hiện được do các nhà đầu cơ đã lợi dụng khe hở: mua bán ba ngày sau
mới phải giao cổ phiếu.
 Quản lý lỏng lẻo, thông tin thiếu minh bạch
Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp
luật về sự minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước


Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 17


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

đã không bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trường trong hơn hai mươn
năm qua.
Kể từ thập niên 1980, thị trường tại chính Mỹ và thể giới đã nhanh chóng phát
triển các công cụ chứng khoán phát sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán hóa
các khoản nợ và đàu tư. Chứng khoán phát sinh và chứng khoán hóa, mặc dù giúp
tăng tài chính và phân tán rủi ro, đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu
ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm
Ngay từ đầu, giới chức trách và ngân hàng Mỹ đã không những không kiểm
soát mà còn khuyến khích các hoạt động xin vay không đủ tiêu chuẩn của người
dân, việc vay dưới chuẩn một cách ồ ạt và quá dễ dãi khiến cho thị trường bất động
sản ở Mỹ ngày càng phức tạp, dẫn đên việc không thể kiểm soát được các khoản nợ
đó. Thêm vào đó, chính phủ Mỹ cũng như giới chức trách tại Mỹ đã có những phản
ứng quá chậm chạp trước những thay đổi chóng mặt của thị trường.
Không một cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài
chính có đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp các thao tác chứng khoán để
có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tại sản nằm
trên sổ sách của các công ty tài chính và ngân hàng.
Hơn nữa, nhiều thao tác này lại được che đậy qua hoạt động đầu cơ của các
quỹ đầu tư một loại hình nắm giữ tới gần 3000 tỉ đô la giá trị tài sản nhưng không
hề cáo bạch tài sản với công chúng và gần như không chịu sự giám sát của bất kì cơ
quan nhà nước nào
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế
2001, kết luận: “ hệ thống tài chính của Mỹ dã không thực hiện được hai trách

nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính
Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm- chẳng hạn như tạo ra các sản
phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của
mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt
giá”.

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 18


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Bên cạnh đó, giới chức trách cũng làm ngơ trước hàng loạt các phát kiến tài
chính của giới ngân hàng thương mại như MBS và CDS mà tài sản đảm bảo lại
chính là các khoản vay dưới chuẩn… chính sự lỏng lẻo trong quản lý, cùng sự tham
lam quá mức của nhà đầu tư, và sự vô trách nhiệm của NHTM đã đẩy tình hình tài
chính Mỹ đi đến một kết cục thê thảm.


Đòn bẩy tài chính quá cao

Đòn bẩy tài chính là việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ từ các khoản
vay thay cho vốn chủ sở hữu. Đòn bẩy tài chính được tính bằng công thức: tổng tài
sản /vốn chủ sở hữu. thông thường thì các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính
khi mà nhu cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp khá cao, trong khi vốn chủ sở hữu
không đủ để tài trợ.
Riêng đối với các NHTM, đòn bẩy tài chính đo lường mức độ rủi ro của ngân
hàng trong việc đáp ứng sự giảm giá của tài sản hoặc đáp ứng các khoản nợ. Tỷ lệ
đòn bẩy tài chính đối với các NHTM thường bị khống chế ở mức độ nhất định,

nhưng đối với các ngân hàng đầu tư thì tỷ lệ này cao hơn rất nhiều. Khác với các
NHTM, các ngân hàng đầu tư không do ngân hàng trung ương mà do SEC kiểm
soát. Nhờ sự nới lỏng của luật lệ, các ngân hàng đầu tư đã kinh doanh theo lối: “đòn
bẩy tài chính” (sử dụng các khoản vay để kiếm lợi nhuận cao hơn so với việc chỉ sử
dụng vốn chủ sở hữu). Thông thường, tỷ lệ này thường được khống chế ở mức 12x
đối với các NHTM và 20x đối với các ngân hàng đầu tư. Từ năm 1975, các ngân
hàng đầu tư được quy định tỷ lệ này không vượt quá 15x, tuy nhiên việc bãi bỏ quy
định về hạn chế tài chính của chính phủ Mỹ từ năm 2004, cho phép ác tổ chức phi
ngân hàng hoạt động vứi tỷ lệ vay vốn lớn đã tác động đến SEC, và SEC đã bãi bỏ
quy định này dối với 5 đại gia lớn ở phố Wall.
Trên thực tế, trong thời gian các ngân hàng đầu tư hoạt động sinh lợi, đòn bẩy
tài chính đã được coi là nhân tố kích hoạt nện kinh tế, tuy nhiên khi đòn bẩy tài
chính bị lạm dụng , dần dần vượt qua khỏi tầm kiểm soát thì đòn bẩy tài chính tăng
cao lại trở thành “ liều thuốc độc”: giết chết các ngân hàng này, theo quan điểm
IMF, chính sách thuế của Mỹ đã gián tiếp khuyến khích việc sử dụng đòn bẩy tài
chính của khu vực doanh nghiệp cũng như dân cư. Cụ thể, luật thuế doanh nghiệp
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 19


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

của Mỹ đã cho phép khấu trừ chi phí lãi vay khi tính thuế thu nhập ndoanh nghiệp.
Trong khi đó, việc huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu lại không hề
nhận được sự ưu đãi nào về thuế, điều này vô hình chung đã gián tiếp khuyến khích
các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tài chính sử dụng vốn vay trong hoạt động
sản xuất kinh doanh hơn là tăng vốn chủ sở hữu.
Từ khi cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ nổ ra đến nay có rất nhiều bài báo cũng
như các bài phân tích của các chuyên gia đề cập đến một phần tác động của” đòn

bẩy tài chính” như một nguyên nhân gây ra khủng hoảng. họ cho rằng đòn bẩy tài
chính quá cao là một trong những nguyên nhân chính khiến những đại gia như Bear
Stearns, Lehman Brothers, Merrill Lynch, Freddie Mac và Fannie Mae ”ra đi” . cụ
thể, từ năm 2004, ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC) đã bãi bỏ quy định về tỷ lệ đòn
bẩy tài chính không được phép vượt quá 15x đối với 5” đại gia” phố Wall (Bear
Stearns, Lehman Brothers, Merrill Lynch, Goldman Sechs, Morgan Stanley). Tính
đến năm 2008, cả 5 ngân hàng này đều có tỷ lệ đòn bảy tài chính rất cao, xấp xỉ
hoặc hơn 30x. chính vì vậy, không ngạc nhiên khi 2 “ địa gia” bất động sản Freddie
Mac và Fannie Mae với đòn bẩy tài chính hơn 60x là nhưng nạn nhân đầu tiên của
cuộc khủng hoảng.
 Khủng hoảng niềm tin
Có thể nói rằng khủng hoảng tài chính hiện nay là môt phần xuất phát từ sự sụp
đổ thảm khốc của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau vè mức độ cho vay
cũng như tài sản. Nhưng giao dịch phức tạp được tạo ra để loại br rủi ro và che giấu
những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Đây được ví dụ là một trò chơi
mà khi người ta bắt đầu cảm nhân thấy mùi của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài
chính thì khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị tường xuống dốc và tất cả mọi người đều bị
thua lỗ. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức đột tin cậy đã xuống
mức thấp
Khủng hoảng độ tin cậy cũng dần vượt ra khỏi lĩnh vực ngân hàng đặt trong bối
cảnh toàn cầu, tại hội nghị G8 tại Hokkaido, Mỹ đã phải đưa ra lời bảo đảm rằng
mọi thứ cuối cùng đã quy trở lại đúng quỹ đạo của nó, điều này cho tháy sự mất tin
tưởng toàn cầu đối với các chuyên gia của chính phủ Mỹ.
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 20


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh


Như vậy, khủng hoảng niềm tin đã khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ trở
nên ngày càng thảm khốc, và sự mất niềm tin ấy có lẽ sẽ còn dai dẳng- một hiệu
ứng đổ vở lâu dài và trầm trọng mà Mỹ sẽ phải mất rất nhiều thời gian để có thể vực
dậy được.
2.3) Tác động của cuộc khủng hoảng đối với Mỹ và thế giới
2.3.1) Tác động của cuộc khủng hoảng đối với Mỹ
Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào
suy thoái từ tháng 12 năm 2007. NBER dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm
trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng từ
tháng 1 tới tháng 9 năm 2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị mất việc
làm.
Ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa
thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng
tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng của các hộ gia đình lại làm cho các
doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy
cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General
Motors, Ford Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực
vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. Ngày 12 tháng 12
năm 2008, GM đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực
Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế
giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện
thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua
dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này
làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.
2.3.2) Tác động của cuộc khủng hoảng đối với thế giới
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế
suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng
xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore
và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng trưởng chậm lại.

Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 21


GVHD: Th.S Võ Thị Xuân Hạnh

Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động nghiêm
trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến mức
trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền kinh tế
lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban Nha cùng
đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy thoái kinh tế
đầu tiên kể từ ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ, nên
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá
dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho
sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các
nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra đã
làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao
trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng hoảng giá
lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp phải đợt mất
giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục đầu tư của mình
sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc Thụy Sĩ đã khiến cho
các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác, gây khó khăn cho xuất
khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở một số nước buộc họ phải
xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tiền tệ khi
won liên tục mất giá từ đầu năm 2008.

2.4) Ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng đến thị trƣờng chứng khoán

Từ đó thì thị trường Chứng khoán Mỹ cũng bị ảnh hưởng khá lớn. Sau cuộc
khủng bố 11/9/2001 làm cho thị trường chứng khoán Mỹ phải gần như đóng cửa tất
cả, các thị trường chứng khoán phố Wall và Nasdaq của nước Mỹ cũng đóng cửa
gần một tuần lễ (từ ngày 11/9/2001 đến 17/9/2001) tại những nơi giao dịch các nhà
đầu tư đã bán tống bán tháo những cổ phiếu để đổi lấy tiền vàng hoặc đầu tư sang
loại chứng khoán khác cho an toàn hơn.
Trong tuần giao dịch trở lại đầu tiên chỉ số công nghiệp Dowjens đã giảm thể
thảm tới 14,2% và đã mất 1.370 điểm. Chỉ số S và Q 500 giảm 11,6% xuống chỉ
Nhóm 7: Quản lý công nghiệp

trang 22


×