Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

quả trình tranh giành ảnh hưởng giữa nga và mỹ ở các nước thuộc sng thời kỳ sau chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
T
5
8

T
5
8

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Đinh Thị Huê
T
0

Q U Ả TRÌNH TRANH GIÀNH Ả N H H Ư Ở N G GIỮA NGA
T
1

V À M Ỹ Ở C Á C N Ư Ớ C T H U Ộ C S N G T H Ờ I K Ỳ SAU
CHIẾN T R A N H L Ạ N H
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
T
3

Mã số: 60 22 50
T
3

T7
3



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
T
8

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS. NGUYỄN CẢNH
T
3

5
T8
3

HUỆ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
T
3


Lời cảm ơn

Luận văn này được hoàn thành tại khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh.
T
5

Tôi xin bày tỏ lòng biếtt ơn sâu sắc tới PGS — TS Nguyễn Cảnh Huệ đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành luận văn.
T

5

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch
sử, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học thuộc trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, đóng góp những ý kiến quý báu trong suốt quá
trình tôi hoàn thiện luận văn.
T
5

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy cô và bạn bè đồng
nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai cùng gia đình đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học và hoàn thành luận văn này.
T
5

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 10 năm 2009
T
5

Đinh Thị Huê
T
5


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ............................................................................................................ 2
T
6
8


T
6
8

MỤC LỤC............................................................................................................. 3
T
6
8

T
6
8

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................... 5
T
6
8

T
6
8

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 6
T
6
8

T
6
8


1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 6
T
6
8

T
6
8

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................ 7
T
6
8

T
6
8

3. Giới hạn đề tài ................................................................................................................... 9
T
6
8

T
6
8

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 10
T

6
8

T
6
8

5. Đóng góp của luận văn .................................................................................................... 10
T
6
8

T
6
8

6. Bố cục của luận văn ........................................................................................................ 11
T
6
8

T
6
8

Chương 1. CÁC NƯỚC THUỘC SNG TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA NGA VÀ MỸ ............................................................................................ 11
T
6
8


T
6
8

1.Khái quát vê các nước thuộc SNG ................................................................................... 11
T
6
8

T
6
8

1.1.1 Vị trí địa - chính trị ................................................................................................ 11
T
6
8

T
6
8

1.1.2 Tiềm năng kinh tế .................................................................................................. 13
T
6
8

T
6

8

1.2. Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ............................... 15
T
6
8

T
6
8

1.2.1 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga ................................... 15
T
6
8

T
6
8

1.2.2 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Mỹ .................................... 23
T
6
8

T
6
8

Chương 2. QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA NGA VÀ MỸ

Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG SAU CHIẾN TRANH LẠNH. .......................... 29
T
6
8

T
6
8

2.1. Vấn đề dầu mỏ, khí đốt ................................................................................................ 29
T
6
8

T
6
8

2.2. Cách mạng màu sắc .................................................................................................... 40
T
6
8

T
6
8

2.4. Vấn đề Chesnhia .......................................................................................................... 59
T
6

8

T
6
8

2.5. Vấn đề Nam Osettia ..................................................................................................... 65
T
6
8

T
6
8

Chương 3. NHẬN XÉT VÈ QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG
GIỮA NGA VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA
VẤN ĐỀ .............................................................................................................. 75
T
6
8

T
6
8

3.1 Nhận xét về quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG.
............................................................................................................................................. 75
T
6

8

T
6
8


3.2 Triền vọng của vấn đề: .................................................................................................. 81
T
6
8

T
6
8

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 89
T
6
8

T
6
8

PHỤ LỤC ............................................................................................................ 92
T
6
8


T
6
8

PHỤ LỤC I: Thương mại hai chiều giữa Nga với các nước thànhviên SNG ..................... 92
T
6
8

T
6
8

PHỤ LỤC II: NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CÁC NƯỚC SNG: .......................... 93
T
6
8

T
6
8

1. Cộng hòa Armenia: ................................................................................................ 93
T
6
8

T
6
8


2. Cộng hòa Azerbaijan: ............................................................................................ 93
T
6
8

T
6
8

3. Cộng hòa Belarus ................................................................................................... 94
T
6
8

T
6
8

4. Cộng hòa Grudia .................................................................................................... 95
T
6
8

T
6
8

5. Kazakhstan ............................................................................................................. 96
T

6
8

T
6
8

6. Kyrgystan ............................................................................................................... 97
T
6
8

T
6
8

7. Moldova ................................................................................................................. 98
T
6
8

T
6
8

8. Tajikistan ............................................................................................................... 99
T
6
8


T
6
8

9. Turkmenistan ....................................................................................................... 100
T
6
8

T
6
8

1 0 . U c r a i n a ......................................................................................................... 101
T
6
8

T
6
8

1 1 . Uzbekistan ...................................................................................................... 101
T
6
8

T
6
8


12. Liên bang Nga: .................................................................................................. 102
T
6
8

T
6
8

TÀI LIÊU THAM KHÁO ................................................................................ 110
T
6
8

T
6
8


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EPP (Easternt Partnership Program): Chương trình đối tác
T
6

phương Đông EU (Europe Union): Liên minh châu Âu G8 (Group 8):
Tổ chức các nước phát triển IAEA (International Atomic Energy
Agency): Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
NATO (North Atlantic Treaty Organization): Hiệp ước quân sự Bắc
T

6

Đại Tây Dương
NGOs (Non - Government Organization): Tổ chức phi chính phủ
T
6

OPEC (Organizạtion Petrol Export Country): Tô chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ
OSCE (Organization Security Cooperation Europe): Tổ chức an ninh và
T
6

Hợp tác châu Âu
PACE (Europen Parliament Subcommitee): Uỷ ban Nghị viện châu Âu
T
6

SEO (Shanghai Convention Organization): Tổ chức Hiệp ước
T
6

Thượng Hải SNG/CIS (Commonwealth of Independent States): Cộng
đồng các quốc gia độc lập
TBCN: Tư bản chủ nghĩa XHCN: Xã hội chủ nghĩa
T
6


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ cổ đại đến hiện đại, mối quan hệ giữa
các nước lớn luôn là mối quan hệ chi phối cục diện thế giới, ảnh hưởng đến
tình hình chính trị quốc tế. Trong thời kỳ Chiên tranh lạnh (1947-1991), trật
tự thế giới hai cực Xô-Mỹ luôn đặt thế giới trong tình trạng chiến tranh. Cuối
thập niên 80 của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh kết thúc, tiếp theo đó là sự tan
vỡ của Liên Xô - thành trì của Chủ nghĩa xã hội trên thế giới - đã đưa đến sự
thay đổi lớn lao trong cục diện thế giới. Trật tự thế giới theo thể chế hai cực
Yalta không còn tồn tại nữa, nhường chỗ cho một trật tự thế giới mới đang
dần được hình thành. Trật tự thế giới trong tương lai được dự đoán sẽ phát
triển theo xu hướng đa cực hóa, cùng tồn tại và phát triển, song cũng có
những mâu thuẫn hết sức gay gắt, quyết liệt giữa các nước, các khu vực với
nhau. Mỗi dân tộc đều vì lợi ích của dân tộc mình cạnh tranh gay gắi với nhau
để đạt được một địa vị thích hợp trong cục diện thế giới tương lai. Là hai
nước lớn trên thế giới, Nga và Mỹ cũng không nằm ngoài xu thế phát triên đó.
T
6

Mỹ - siêu cường số một thế giới, ngày càng tìm cách mở rộng phạm vi
ảnh hưởng của mình tới mọi khu vực trên thế giới nhằm khẳng định hơn nữa
vai trò của mình đối với thế giới. Trong những khu vực Mỹ hướng tới, vùng
lãnh thổ thuộc Cộng đồng các Quốc gia độc lập (SNG) là nơi Mỹ đặt ưu tiên
khá lớn nhằm tranh giành ảnh hưởng với Nga.
T
6

Nước Nga - tuy nằm trong hoàn cảnh bất ổn về kinh tế và chính trị từ sau
sự sụp đổ của Liên Xô, song vẫn là một cường quốc về quân sự và có tiềm lực
mạnh về kinh tế. Với tham vọng khôi phục lại địa vị trên trường quốc tế của
Liên Xô trước đây, Nga cũng tăng cường mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các

khu vực trên thế giới, thiết lập các mối quan hệ rộng rãi, có lợi cho mình
trong quan hệ quốc tế.
T
6

Trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai cường quốc Liên
Xô và Mỹ là quan hệ đối đầu căng thẳng với liên tiếp những cuộc chạy đua vũ
trang. Cũng trong thời kỳ này, vùng ảnh hưởng của mỗi nước được phân chia
rõ ràng và là vùng "bất khả xâm phạm" của đối phương. Liên Xô tạo ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với Đông Âu, các nước XHCN và đặc biệt ở các nước
Cộng hòa thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Ngược lại,
Mỹ có ảnh hưởng tại Tây Âu và các nước TBCN khác.
T
6

Sau khi Liên Xô tan rã, các nước Cộng hòa trong Liên bang Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Xô Viết lần lượt tách ra khỏi Liên Xô và tuyên bố độc lập.
T
6

Mười hai trong số mười lăm nước tập hợp lại trong Cộng đồng các quốc
gia độc lập (SNG), trừ ba nước Baltic. Mặc dù tuyên bố độc lập nhưng tình
T
6


hình ở các nước này luôn bất ổn về chính trị, yếu kém về kinh tế. Trong hoàn
cảnh nước Nga chưa thoát khỏi khủng hoảng, vùng này trở thành một
"khoảng trống quyền lực". Mỹ muốn tạo ảnh hưởng của mình trên khu vực
này để kiềm chế Nga, tiến sát biên giới Nga. Do đó, Mỹ muốn giữ được địa vị

cũ cần có sự điều chỉnh đường lối đối ngoại, tăng cường chính sách ngoại
giao với các nước, tăng cường ảnh hưởng của mình đối với các khu vực trên
thế giới. Nước Nga không từ bỏ tham vọng trở thành một trong những cực
quan trọng của cục diện thế giới tương lai, điều này càng được biểu hiện rõ rệt
dưới thời Tổng thống V.Putin

0
T1
6

Khu vực thuộc lãnh thổ các nước SNG (bao gồm mười hai nước Cộng
hòa thuộc Liên Xô cũ) hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như xung
đột sắc tộc, bất ổn về chính trị, sự lạc hậu về kinh tế, đặc biệt là thiếu nguồn
vốn để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên vô cùng giàu có. Để giải
quyết được những vấn đề trên, bên cạnh nội lực bản thân, các nước này cần
dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Lợi dụng tình hình đó, các nước lớn không
ngừng can thiệp để tìm kiếm lợi ích trên tất cả các mặt.
T
6

Tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở khu vực thuộc lãnh thổ các nước
SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh là một vấn đề mang tính thời sự, có tính
thực tiễn cao. Đây là một nội dung mới trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại,
chưa được đề cập nhiều trong các giáo trình, tài liệu chuyên khảo.
T
6

Tìm hiểu quá trình tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở vùng lãnh thổ
thuộc các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh góp phần bổ sung nguồn
kiến thức về quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế hiện đại nói riêng,

phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và công tác giảng dạy.
T
6

Với những lý do trên, chúng tôi chọn đê tài "Quá trình tranh giành ảnh
hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh"
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học. Trong khuôn khổ có hạn của luận văn
và giới hạn nhận thức chủ quan, chúng tôi chỉ mong muốn bước đâu tìm hiểu
một cách có hệ thống cuộc tranh chấp giữa hai nước lớn Nga và Mỹ ở vùng
lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay.
T
6

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG
thời kỳ sau Chiến tranh lạnh" là vấn đề mang tính thời sự, chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập một cách trọn vẹn vấn đề này. Trong các bài viết trên
các tạp chí chuyên ngành và trong các cuốn sách về chính sách đối ngoại,
quan hệ quốc tế của Nga và Mỹ có phân tích về quá trình tranh chấp ảnh
hưởng giữa hai nước ở khu vực này. Hầu hết những tác phẩm và bài viết chủ
yếu tìm hiểu từng mảng thời gian hoặc không gian cụ thể, hay phân tích chính
sách của Nga và Mỹ đối với từng khu vực hoặc trong một khoảng thời gian
T
6


nhất định.
Một nhóm tác giả thuộc Viện nghiên cứu Châu Âu trong cuốn "Cộng
đồng các Quốc gia độc lập - quá trình hình thành và phát triển" do Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2007 (Nguyễn Quang Thuận chủ biên) đã

phân tích bối cảnh ra đời, quá trình phát triển và triển vọng của các nước
SNG. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu mang tính toàn diện về sự phát
triển của Cộng đồng các Quốc gia độc lập. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của
Nga đối với tổ chức này. Ngược lại, các nước SNG cũng là ưu tiên số một
trong chính sách đối ngoại của Nga bởi vị trí địa - chính trị và nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú ở một số nước thuộc Cộng đồng. Trong cuốn
sách có đề cập cuộc tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở các nước này tuy
chưa tập trung. Tuy nhiên, vấn đề này mới được đề cập rải rác trong từng
chương, từng mục của cuốn sách.
T
6

"Bàn cờ lớn" là công trình nổi tiếng của học giả, chính trị gia Zbigniew
Brzezinski. Cuốn sách tập trung phân tích, đánh giá tình hình thế giới sau khi
Liên Xô sụp đổ, về sự phân bố địa bàn chính trị thế giới, đặc biệt là "bàn cờ
Âu - Á", đồng thời đề cao vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ ở hiện tại và cả
trong tương lai. Tác giả khẳng định: "Sự sụp đổ của đế quốc Nga đã tạo ra
một khoảng trống về quyền lực ngay ở trung tâm lục địa Âu - Á", "lục địa Âu
- Á là một bàn cờ lớn, ở đấy ván cờ đấu tranh giành vị thế đứng đầu toàn cầu
vẫn tiếp tục được chơi". Tuy nhiên, là một người có tư tưởng chống cộng khét
tiếng, Z.Brzezinski không thể tránh khỏi cái nhìn phiến diện khi nhìn nhận
nhiều vấn đề. Chính trị gia nổi tiếng này cố tình không nhìn thấy xu thế phát
triển của thế giới là đa cực hóa. Mọi cuộc tranh chấp ảnh hưởng của các nước
lớn ở các khu vực, trong đó có tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở vùng lãnh
thổ thuộc các nước SNG đều chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan, do đó Mỹ không dễ dàng đạt được mục đích.
T
6

Tác giả Đỗ Thanh Hải trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 7-8/2005 có bài

viết "Cạnh tranh ảnh hưởng Nga - Mỹ ở Trung Á và Cápcadơ sau sự kiện
11/9". Bài viết tập trung phân tích những điều chỉnh chính sách của Nga và
Mỹ đối với Trung Á và Cápcadơ sau sự kiện 11/9, trên cơ sở đó đánh giá và
dự báo về quá trình cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai nước ở khu vực này. Do
khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo nên các sự kiện trước 11/9 và những khu
vực khác thuộc không gian hậu Xô viết (Baltic) chưa được phân tích sâu sắc.
Trong các công trình nghiên cứu về mối quan hệ Nga - Mỹ từ sau Chiến tranh
lạnh đến nay phải kể đến công trình "Quan hệ Nga - Mỹ sau Chiến tranh lạnh"
của tác giả Hà Mỹ Hương. Sau khi khái quát lại quan hệ Xô - Mỹ trong Chiến
tranh lạnh và những tiền đề của quan hệ hợp tác Nga - Mỹ sau Chiến tranh
lạnh, tác giả phân tích sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của mỗi nước sau
khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Đường lối đối ngoại của nước Nga dưới thời
Tổng thống B.Yeltsin lấy "định hướng Đại Tây Dương" và sau đó là "định
T
6


hướng Á - Âu" làm trọng tâm. Bước sang thời kỳ V.Putin, lợi ích dân tộc
được đặt lên hàng đầu, các nước thuộc Liên Xô cũ là ưu tiên số một trong
chính sách đối ngoại. Nước Mỹ trong giai đoạn đầu sau Chiến tranh lạnh,
Tổng thống B.Clinton thực hiện chính sách "Cam kết và mở rộng"
(Engagement and Enlargement) nhằm mở rộng mô hình Mỹ ra toàn thế giới.
Bước sang giai đoạn G. Bush, trước những thay đổi mau lẹ của tình hình thế
giới và trong lòng nước Mỹ sau sự kiện 11/9, vị Tổng thống của phái Diều
hâu đưa ra chiến lược "đánh đòn phủ đầu", tấn công vào những nơi mà Mỹ
cho là có thể tấn công hoặc đe dọa nước Mỹ.
Trên cơ sở phân tích sự điều chỉnh đường lối đối ngoại của hai nước sau
Chiến tranh lạnh, tác giả tìm hiểu quan hệ Nga - Mỹ trên các lĩnh vực chính
trị - an ninh, kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ. Trong lĩnh vực
chính trị - an ninh, hai nước đã có sự hợp tác để giải quyết nhiều vấn đề quốc

tế: vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triêu Tiên, vấn đề hòa giải ở Trung Đông....
Bên cạnh sự hợp tác kể trên, Nga và Mỹ vẫn có những bất đồng chưa thể giải
quyết được, trong số đó có khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ. Ở đây, hai
nước không thể dung hòa lợi ích của nhau. Mỹ lo sợ Nga sẽ nắm lấy khu vực
này làm đối trọng với mình; trong khi Nga coi đây là vùng ảnh hưởng truyền
thống của Nga. Mặc dù có đề cập đến vấn đề các nước SNG và Baltic trong
quan hệ Nga - Mỹ, cuốn sách chưa dẫn ra nhiều sự kiện chứng minh một cách
thuyết phục cho sự tranh chấp của Nga và Mỹ ở khu vực này.
T
6

Dù vậy, công trình này là sự gợi ý cho chúng tôi trong khi tìm hiểu vấn
đề và là một tài liệu tham khảo quan trọng.
T
6

Năm 2001, sự kiện nước Mỹ bị tấn công làm bàng hoàng nhân dân Mỹ
và thế giới. Tổng thống V.Putin là nguyên thủ quốc gia nước ngoài đầu tiên
gọi điện chia sẻ với Tổng thống và nhân dân Mỹ. Hàng loạt các báo lớn trên
thê giới không bỏ lỡ cơ hội, nhanh chóng có những bài viết phân tích mối
quan hệ Nga - Mỹ trong hoàn cảnh mới. Tác giả Nguyễn Đình Lập đã tổng
hợp những bài viết đó trong cuốn "Quan hệ Nga - Mỹ: vừa là đối tác, vừa là
đối thủ".
T
6

Cuốn sách phân tích mối quan hệ Nga - Mỹ trên cơ sở lợi ích và toan
tính chiến lược riêng của mỗi quốc gia. Trong cuốn sách có dành một phần
nói về tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở Trung Á và Cápcadơ. Do tập trung
vào những biến cố từ sự kiện 11/9 trở về sau nên thập kỷ 90 của thế kỷ XX

chưa được tác giả đề cập tới và các khu vực khác của không gian hậu Xô viết
cũng bị bỏ ngõ.
T
6

3. Giới hạn đề tài
Chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu tất cả mọi cuộc tranh chấp ảnh
hưởng Nga - Mỹ ở tất cả các khu vực trên thế giới. Tên gọi của đề tài chứa
T
6


đựng giới hạn của vấn đề chúng tôi cần giải quyết.
Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn trong những sự kiện xảy ra từ khi Chiến
tranh lạnh kết thúc đến nay. Những sự kiện trước thập niên 90 của thế kỷ XX
được xem là dẫn nhập của vấn đề.
T
6

Về không gian, đề tài giới hạn trong "vùng lãnh thổ thuộc các nước
SNG" - những nước thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết.
T
6

Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết bao gồm mười lăm nước,
trong số đó, mười hai quốc gia đã tập hợp lại trong Cộng đồng các Quốc gia
độc lập (SNG), còn lại ba nước Baltic (Latvia, Litva, Estonia). Nga cũng là
một thành phần trong SNG. Tuy nhiên, trong luận văn chúng tôi coi Nga là
một chủ thể của cuộc tranh giành ảnh hưởng, do đó SNG chỉ giới hạn trong
mười một nước còn lại.

T
6

4. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp luận, trong suốt quá trình nghiên cứu, chúng tôi
đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hô Chí Minh để
phân tích, nhìn nhận và đánh giá vấn đề.
T
6

Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp được
chúng tôi sử dụng chủ yếu trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Phương
pháp lịch sử được sử dụng nhằm tái hiện lại bức tranh sinh động của quá trình
tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ
sau Chiến tranh lạnh. Tranh chấp giữa hai nước diễn ra trên các lĩnh vực kinh
tế, an ninh - chính trị, quân sự.
T
6

Trên cở sở bức tranh sinh động ấy, chúng tôi sử dụng phương pháp logic
để rút ra bản chất của vấn đề. Thực chất của tranh chấp Nga - Mỹ ở khu vực
này là tranh giành bá quyền ở "khoảng trống quyền lực", là muốn tìm kiếm lợi
ích của mỗi nước, quyền lợi của mười một nước còn lại hầu như không được
tôn trọng. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế
nhằm làm rõ những nhân tố quốc tế chi phối đến quá trình tranh giành ảnh
hưởng của Nga và Mỹ trên địa bàn SNG.
T
6

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần dựng lại quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga
và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.
T
6

Trên cơ sở đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét về quá trình này và
những vấn đề có tính chát lý luận.
T
6

Không dừng lại ở đó, chúng tôi cũng dự báo triển vọng của vấn đề,
T
6


những kịch bản có thể xảy ra trong quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga
và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG.
Bên cạnh những đóng góp trên, tư liệu và kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho phần lịch sử quan hệ quốc tế trong
giảng dạy và nghiên cứu.
T
6

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
T
6

Chương I: Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và

T
6

Mỹ.

Chương II: Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước
thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.
T
6

Chương III: Nhận xét về quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và
Mỹ ở các nước thuộc SNG và triển vọng của vấn đề.
T
6

Chương 1. CÁC NƯỚC THUỘC SNG TRONG CHÍNH
SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ
1.Khái quát vê các nước thuộc SNG
1.1.1 Vị trí địa - chính trị

Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG/CIS) là sản phẩm trực tiếp từ sự
sụp đổ của Liên Xô. Đây là tổ chức hợp tác của 12 trong số 15 nước Cộng hòa
thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết.
T
6

Cộng đồng các quốc gia độc lập ra đời trong bối cảnh quốc tế hết sức đặc
biệt, đó là sự sụp đổ của các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu. Vào những
năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, nhân loại chứng kiến
một sự kiện "làm rung chuyển thế giới" - sự sụp đổ của hệ thống XHCN. Vào

thời gian này, do sự khủng hoảng kinh tế, chính trị sâu sắc, Liên Xô tiến hành
công cuộc cải tổ nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng nhưng trên thực
tế tình hình không được giải quyết, ngược lại khủng hoảng còn trầm trọng
hơn. Năm 1991, những mâu thuẫn kinh tế và chính trị lên đến đỉnh cao và
cuối cùng chế độ Xô viết hoàn toàn sụp đổ sau cuộc đảo chính ngày 19-81991.r
T
6

Ngày 8 - 12 - 1991, Tổng thống ba nước Nga, Ucraina, Belarus ra tuyên
bố chung, trong đó nêu rõ Liên bang Xô viết không còn tôn tại nữa và quyết
định thành lập một hình thức liên minh mới gọi là Cộng đồng các quốc gia
T
6


độc lập (SNG). Hiệp ước đã xác nhận: "Liên bang Xô viết như một chủ thể
pháp lý và địa chính trị quốc tế đã hoàn toàn kết thúc sự tồn tại của mình" [10,
tri 2]. Tám nước còn lại tuyên bố tham gia SNG. Ngày 21-12-1991, tại thủ đô
Alma Ata (Kazakhstan), 11 nước Cộng hòa ký kết Hiệp định về giải tán Liên
bang Xô viết, chính thức thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập.
Toàn bộ lãnh thổ của các quốc gia thuộc SNG nằm gọn trong diện tích
Liên bang Xô viêt trước kia. Về vị trí địa lý, hầu hết các nước này đều nằm
phía Tây và có đường biên giới chung với nước Nga, tạo thành một hành lang
bảo vệ biên giới phía Tây cho nước Nga. Diện tích của 11 nước trong SNG
(không bao gồm Nga) khoảng 5.025.500 km với dân số khoảng 300 triệu
người. Các nước SNG có vị trí ở phía đông châu Âu và phía Tây Nam châu
Á. Có thể chia các nước SNG thành các tiểu khu vực: Trung Á (bao gồm các
nước Uzbekistan, Cazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Tagikistan), ngoại
Kavkaz (gôm Grudia, Azecbaizan, Armenia) và các nước phía Tây (Ucraina,
Belarus, Moldova). Địa hình của khu vực thuộc các nước SNG nhìn chung rất

đa dạng, nhưng kiểêu địa hình chủ yếu là đồi núi.
T
6

Do vị trí tiếp giáp với cả hai châu lục nên đây là khu vực gây được sự
chú ý của các nước lớn.\
T
6

SNG là con đường thông ra phía Tây của nước Nga để sang châu Âu.
Các nước SNG còn là hành lang bảo vệ an ninh cho Nga khi NATO đang
bành trướng về phía Đông. Từ các nước SNG, Nga có thể kiểm soát được con
đường tiến xuống Nam Á, xuống vùng Ấn Độ Dương, ngăn chặn các thế lực
tôn giáo cực đoan tiến vào nước Nga. Do từ thời Liên Xô, đặc biệt là dưới
thời Stalin đã thực hiện chiến lược di dân, đưa người Nga đến các khu vực
này định cư, do đó hiện nay ở các nước này vẫn còn rất nhiều người gốc Nga
sinh sống nên chính quyền Nga cần bảo vệ quyền lợi của người Nga. SNG là
khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga, do đó bảo vệ ảnh hưởng ở khu vực
cũng chính là bảo vệ uy tín, chủ quyền và thể diện nước Nga trên trường quốc
tế. Tổng thống Nga V.Putin từng tuyên bố ưu tiên số một trong chính sách đối
ngoại của Nga là bảo vệ người Nga và quyền lợi nước Nga.
T
6

Trong số các nước SNG, Ucraina là nước lớn thứ hai sau Nga về địa vị
chiến lược và tiềm năng kinh tế, có tầm quan trọng bậc nhất đối với Nga. Vào
giữa thế kỷ XVII, Ucraina tự nguyện gia nhập vào nước Nga Sa hoàng, nhờ
đó thế lực của nước Nga lớn mạnh lên đáng kể. Sự kiện Ucraina tuyên bố tách
khỏi Liên bang Xô viết là một đòn giáng nặng nề đối với Liên Xô và là sự
kiện góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của thể chế XHCN. Hiện nay, trên

lãnh thổ Ucraina còn lại rất nhiều vũ khí hạt nhân từ thời Liên Xô. Phần lớn
chúng đều đã hết hạn bảo quản và Ucraina không có kinh phí để duy trì. Nếu
những kho vũ khí này rơi vào tay bọn khủng bố thì an ninh của thế giới nói
chung, của Ucraina và các nước SNG bị đe dọa nghiêm trọng. Bên cạnh đó,
T
6


về mặt chính trị, Ucraina không muốn duy trì tổ chức SNG trong khi Nga thì
ngược lại. Ucraina coi SNG là công cụ để Nga áp đặt ảnh hưởng đối với các
nước Cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây.
Với những ý nghĩa trên, SNG là khu vực "bất khả xâm phạm" của Nga.
T
6

Đối với Mỹ, mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của các nhiệm kỳ Tổng
thống Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới đến nay là thiết lập trật tự thế giới do
Mỹ lãnh đạo, kiềm chế sự nổi lên của các cường quốc khác đe dọa vị thế của
Mỹ. Xét về địa – chiến lược, châu Âu án ngữ vị trí trọng yếu trên thế giới.
Nằm cạnh dòng hải lưu Bắc Đại Tây Dương, châu Âu có lợi thế trong việc sử
dụng và kiểm soát các tuyến giao thông huyết mạch trên Đại Tây Dương để
sang Bắc và Nam Mỹ. Sau đó, qua kênh đào Sue, các nước châu Âu có thể
đến được vùng vịnh Persique, Nam Á và Đông Nam Á trên những tuyến
đường biển ngắn nhất. Đồng thời, từ châu Âu cũng có thể đến vùng Kavkaz,
Trung Á, Viễn Đông bằng đường bộ. Do mối quan hệ chặt chẽ giữa châu Âu
với Mỹ nên mọi biến cố quan trọng ở châu Âu trên tất cả các lĩnh vực luôn có
ảnh hưởng nhất định đối với Hoa Kỳ. Đối với nước Nga, các chính quyền kế
tiếp nhau của Mỹ nhận thấy đây là một "thế lực" có nhiều khả năng đe dọa thế
lực của Mỹ trong tương lai. Để kiềm chế Nga, một trong những biện pháp có
tính khả quan là thu hẹp ảnh hưởng của nước này ở những khu vực truyến

thống, SNG là một khu vực như vậy. Nêu SNG có ý nghĩa sống còn với Nga
thì với Mỹ, khu vực này cũng có tầm quan trọng đáng phải quan tâm.
Z.Brzezinski - nguyên trợ lý an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ đã gọi khu
vực "hậu Xô viết" này là "Balkan Âu - Á", là bàn cờ lớn trong ván cờ địa chính trị của Mỹ ở đại lục địa Á - Âu. Nếu kiểm soát được khu vực này, Mỹ
không những sẽ có điều kiện để khống chế hai lục địa Á - Âu, kiềm chế Nga ở
phía tây và phía bắc, mà còn kiểm soát được Ấn Độ ở phía nam, kiểm soát
được Trung Quốc ở phía đông và kiểm soát được châu Âu ở phía tây. Bên
cạnh đó, nếu tiếp cận được khu vực này, Mỹ coi như đã đặt chân được vào
"sân sau" của Nga, từ đó có những can thiệp vào Nga khi cần thiêt.
T
6

1.1.2 Tiềm năng kinh tế

SNG là một trong những khu vực giàu tài nguyên vào loại bậc nhất của
T
6

thế giới. Không chỉ có tài nguyên trên mặt đất, trong lòng đất của các nước
thuộc khu vực này cũng rất phong phú tài nguyên. Có thể kể đến một số loại
tài nguyên như than đá, vàng, đồng, kẽm, nhôm..., trong đó dầu mỏ, khí đốt là
nguồn tài nguyên chiếm vị trí số một. Tuy nhiên, do những bất ổn về chính trị
và sự yếu kém về kinh tế nên những loại tài nguyên này chưa được khai thác


đúng tiềm năng. Các nước lớn rất muốn tham gia vào quá trình thăm dò, khai
thác các nguồn tài nguyên của khu vực này.
Không chỉ giàu có về tài nguyên, các nước SNG còn là thị trường nhiều
T
6


tiềm năng. Hầu hết các nước này đều mới tuyên bố giành độc lập, đang trong
thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, vì vậy họ rất cần những nguồn
vốn đầu tư từ bên ngoài để một mặt tạo đà cho phát triển kinh tế, mặt khác
ngày càng bớt phụ thuộc vào Nga hơn. Hiện nay, trong nội bộ các nước SNG
đang diên ra quá trình tái liên kết kinh tế giữa các nước thành viên nhằm khôi
phục những quan hệ kinh tế và thương mại, củng cố quan hệ hữu nghị anh em
giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra không dễ dàng như
mong đợi của các nước SNG. Có thể kể đến một số nguyên nhân của nó như
chưa có cơ cấu liên kết mang tính chính trị hiệu quả, chất lượng của các sản
phẩm xuất khẩu rất thấp dẫn đến khả năng cạnh tranh kém do công nghiệp lạc
hậu và thiết bị máy móc cũ kỹ .Vì vậy, bên cạnh sự giúp đỡ lẫn nhau của các
nước trong khu vực, SNG rất cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là từ các
nền kinh tế mạnh. Đây là một cơ hội lớn cho Mỹ đặt chân vào khu vực SNG
trong lĩnh vực kinh tế.

Đối với Nga, mậu dịch giữa Nga và SNG luôn chiếm tỉ trọng cao trong
T
6

cán cân ngoại thương giữa hai bên. Trong kim ngạch ngoại thương của Nga,
các nước SNG chiếm 23%. Nga chiếm tới 70% xuất nhập khẩu của SNG.
Trong năm 1998, tổng giá trị trao đổi thương mại của các nước SNG xuất
khẩu vào Nga là 51,7% còn nhập khẩu từ Nga là 38,8%. Mặt khác, đối với
một số nước SNG, thị trường Liên bang Nga không chỉ hấp dẫn mà đôi khi là
duy nhất cho việc xuất nhập khẩu các sản phẩm công nông nghiệp, nguyên
liệu thô và vật liệu. Số liệu ngoại thương của các nước cho thấy, tỉ trọng của
Nga đối với xuất khẩu của Belarus năm 1998 là 64,9%, còn đối với tổng xuất
khẩu của các nước SNG là 89,2%, những chỉ số này của Moldova tương ứng



là 53,3% và 78,5%, Kazakhstan là 28,9% và 73,5%, với Ucraina là 23,1% và
69,2%(13,tr34).
Một tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng cho khu vực này là "vàng đen".
T
6

Khu vực Trung Á được đánh giá có trữ lượng dầu khí lớn hơn cả Cowet, vùng
vịnh Mehico và Biên Bắc. Nước Nga cũng là nước có trữ lượng dầu mỏ và
khí đốt lớn vào loại bậc nhất trên thế giới. Tuy nhiên, để khí đốt Nga đến
được với thị trường thế giới, các hệ thông đường ống dẫn dầu của Nga đểu
phải đi qua các nước SNG để tới cảng Novorosik trên biển Đen trước khi xuất
khẩu trên thị trường châu Âu và thế giới là con đường ngắn nhất.
Mỹ hiện nay chiếm 1/4 nhu cầu tiêu thụ dầu thô trên thế giới, do đó Mỹ
T
6

không thể bỏ qua khu vực giàu tài nguyên dầu mỏ này. Nền kinh tế Mỹ phát
triển nhanh nhưng phụ thuộc quá nhiều vào nguồn năng lượng từ bên ngoài.
Trong tương lai gần, khi các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ chưa được
đưa vào sử dụng rộng rãi, chưa đóng vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế Mỹ
thì khu vực SNG vẫn còn là một trong những mục tiêu chủ đạo mà chính sách
đối ngoại của Mỹ không thể không chú ý tới.
1.2. Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ
1.2.1 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga

T
6

Liên bang Xô viết tan rã, nước Nga được quốc tế công nhận kế tục vai


trò của Liên Xô trên trường quốc tế, được thừa hưởng một thực lực quân sự to
lớn. Tuy nhiên điều này cũng không giúp Nga thoát khỏi khủng hoảng toàn
diện về kinh tế, chính trị, xã hội... Trong khi đó, nước Nga phải "thừa kế \ một
khoản nợ lớn do Liên Xô trước đây để lại (khoảng 103 tỉ ƯSD). Nền kinh tế
trong nước suy sụp, nợ nước ngoài thúc ép, Nga không còn cách nào khác là
trông chờ vào sự giúp đỡ to lớn về kinh tê ở bên ngoài với hi vọng đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng trên. Mỹ và các nước phương Tây được Nga coi là


chỗ dựa của mình trong việc đưa nền kinh tế Nga thoát khỏi khủng hoảng. Do
đó, trên lĩnh vực tư tưởng, nước Nga tuyên bố hoàn toàn đoạn tuyệt với Liên
Xô, lựa chọn bạn đồng minh trên cơ sở cùng có lợi. Giới lãnh đạo Nga cho
rằng các nước dân chủ phương Tây có nền kinh tê thị trường là những "đồng
minh" của Nga. Một đường lối đối ngoại do Bộ trưởng Ngoại giao Nga lúc đó
là Kozyrev vạch ra và được Tổng thống Yeltsin chấp nhận "tự nguyện ngả
theo phương Tây". Mục tiêu hàng đầu của đường lối đối ngoại mới là Nga
phải được tham gia khu vực thịnh vượng chung Tây Âu, chuyển từ nên chính
trị XHCN sang nền chính trị dân chủ theo kiểu Tây Âu và khôi phục lại nền
kinh tế. Hai mục tiêu trên chi phối toàn bộ chính sách đối ngoại của Nga trong
những năm 1991 - 1993. Trong chính sách đối ngoại mới, nước Nga tự coi
mình là một thành viên của Tây Âu và mong muốn hoàn toàn đứng vào thế
giới của các nước phương Tây. Do đó những chính sách của Nga hoàn toàn lệ
thuộc vào Mỹ với hi vọng điều này sẽ giúp Nga gia nhập vào xã hội phương
Tây và các cơ cấu kinh tế thế giới.
Nga đặt toàn bộ hi vọng vào liên minh chiến lược với Mỹ (sau này được
T
6

thay đổi bằng sự hợp tác chiến lược). Nga tự nguyện phụ thuộc vào Mỹ và các

nước phương Tây để đổi lấy sự trợ giúp kinh tế, đầu tư và hiện đại hóa công
nghệ cho Nga. Chính sách đối ngoại của Nga ở thời kỳ này nêu ra răng, Nga
cần phải đi theo con đường Đức, Nhật - tạm thời phụ thuộc vào Mỹ và các
nước phương Tây để khôi phục lại nền kinh tế, tạm thời từ bỏ chính sách đối
ngoại độc lập để hòa nhập với Mỹ và thế giới phương Tây. Do vậy, Nga cho
rằng việc Nga gia nhập NATO và khôi thị trường chung châu Âu là hoàn toàn
phù hợp. Ngày 20 - 12 - 1992, Tổng thống Nga B.Yeltsin đã đưa ra vấn đề
Nga muốn gia nhập NATO như là một "mục tiêu chính trị lâu dài". Nhằm
thúc đẩy Nga có thể nhanh chóng hòa nhập vào thế giới Tư bản chủ nghĩa, Bộ
trưởng bộ Ngoại giao Nga kêu gọi cần phải thay đôi thái độ với thế giới này,
cần phải công nhận Mỹ đóng một vai trò tích cực trong thế giới hiện tại và


việc duy trì sự có mặt quân sự của Mỹ ở các nước thuộc thế giới thứ ba có thể
là một nhân tố cân bằng.
Để nhận được sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ và phương Tây, Nga đã phải
T
6

đơn phương thực hiện nhiêu đòi hỏi, yêu cầu của các nước này, trong đó có
nhiều yêu cầu không phù hợp với tình hình nước Nga. Nga phải chấp nhận từ
bỏ quyền lợi của mình ở các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu. Trong khi đó,
Nga không đòi hỏi một sự cam kết nào từ Mỹ và phương Tây. Điều này có
nghĩa là Nga chấp nhận một sự nhượng bộ vô điều kiện chỉ để đổi lấy sự ủng
hộ của những nước này. Đối với các nước thuộc Liên Xô cũ, Nga thực hiện
chính sách "thoát li", nghĩa là không can dự trước mọi vấn đề xảy ra ở các
nước này, thả nổi quyền lợi chính trị ở đây cho Mỹ và các nước Tây Âu. Điều
này đúng với mong muốn của Mỹ đang tìm cách lôi kéo các nước này hội
nhập với thế giới phương Tây để cô lập và uy hiếp Nga, ngăn chặn sự thành
lập liên minh giữa Nga và các nước này. Liên Xô tan rã, Nga xuất hiện với tư

cách một quốc gia độc lập song sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự đã yếu đi
nhiều so với Liên Xô trước đây. Vì thế Nga buộc phải từ bỏ hoặc tham gia rất
hạn chế vào nền chính trị thế giới. Mặt khác, thời kỳ này do các nhà lãnh đạo
Nga quá chú trọng vào quan hệ với phương Tây nên chưa có những chính
sách tích cực với những khu vực khác trên thế giới như châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ Latinh, đặc biệt là lãnh thổ thuộc các nước SNG.
Sự thay đổi định hướng tư tưởng - chính trị của Nga được Mỹ và các
T
6

nước phương Tây ủng hộ. Tuy nhiên những quan điểm trên đây hoàn toàn
không phù họp với Nga - một dân tộc luôn tự hào mình là cường quốc cho dù
tạm thời suy yếu. Trước hết, việc các nhà lãnh đạo hướng nước Nga đi theo
con đường Đức - Nhật là hoàn toàn không phù hợp bởi sự thua trận của Đức,
Nhật trong cuộc chiên tranh thế giới thứ hai và sự thua trận của Nga trong
chiến tranh Lạnh không giống nhau. Nga hoàn toàn không bị tước đi chính
sách đối ngoại của riêng mình, mà chính Nga tự nguyện từ bỏ quyền ngoại


giao độc lập để phụ thuộc vào Mỹ và phương Tây để hi vọng nhận được một
sự trợ giúp to lớn về kinh tế.
Mặt khác, đê sớm cải thiện quan hệ với Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nga
T
6

phải tiến hành cải cách nóng vội, thiếu các tiền đề vật chất cũng như tư tưởng
cần thiêt. Điều này ngày càng đẩy Nga vào cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn
như nạn thất nghiệp, lạm phát tăng nhanh, cuộc đấu tranh giành quyền lực
giữa các phe phái chính trị.. .khiến cho người dân Nga bất bình. Một làn sóng
phản đối chính sách thân phương Tây dấy lên. Hoa Kỳ sau một thời gian chờ

đợi sự ổn định và phục hồi của nền kinh tế Nga cũng dần dần mất hi vọng bởi.
Sự khủng hoảng ngày càng tăng trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Các yêu tố đó
đã khiến cho sự "thân mật" ban đầu giữa Mỹ với Nga giảm dần. Bên cạnh đó,
đường lối đối ngoại của giới lãnh đạo Nga cũng không tạo được sự đồng tình
trong nước. Nhà nước Nga đang dần được phục hồi, giới chính trị Nga muôn
nhìn thấy Nga là một cường quôc, được tôn trọng trong các vấn đề quồc tế
chứ không phải là một nước Nga chỉ biết gật đầu theo Mỹ và phương Tây.
Bắt đầu từ năm 1994, chính sách đối ngoại của Nga không chỉ tập trung
T
6

vào phương Tây và có những biện pháp tích cực nhằm khôi phục lại ảnh
hưởng của Liên Xô trước đây, đặc biệt ở các nước SNG. Nga tăng cường
quan hệ với các nước này đê khôi phục lại ảnh hưởng của mình ở đó. Đồng
thời, quan hệ này giúp Nga khắc phục được sự lệ thuộc quá lớn vào phương
Tây, giúp Nga đảm bảo an ninh quốc gia và vị trí trên trường quôc tê. Chính
sách này được thể hiện trong tuyên bố của Tổng thống Nga: "đã đến lúc sửa
đổi sự thái quá trong quan hệ với phương Tây, cần nghĩ về đối tác chiến lược
trong tương lai" (64, tr 15). Lúc này, sự thống nhất của Nhà nước Liên bang
Nga được giữ vững nên Nga nhận thấy lợi ích của các nước thuộc Cộng đồng
các Quốc gia Độc lập (SNG) không thể tách rời khỏi lợi ích của Nga. Việc
Mỹ tranh thủ sự xa rời của Nga đối với các nước này trong thời kỳ đầu để tìm
cách lôi kéo họ đi theo Mỹ hòng cô lập Nga đã uy hiếp nghiêm trọng đên an


ninh quốc gia của Nga. Do vậy, Nga nhận thấy cần phải xác lập lại vị trí của
mình trong phạm vi những biên giới mới, thiết lập quan hệ với các nước trước
đây hầu như là bộ phận cấu thành và xác định những lợi ích quốc gia mới của
mình. Trong đường lối đối ngoại, Nga đã thay đổi thái độ thoát li khỏi các
nước SNG trong thời kỳ đầu sau khi Liên Xô tan rã bằng tuyên bố: "Nga có

trách nhiệm đặc biệt đối với khu vực thuộc Liên Xô trước đây và có lợi ích
đặc biệt ở Đông Âu. Lực lượng vũ trang của Nga có thể lập căn cứ quân sự ở
khu vực thuộc Liên Xô cũ, chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh toàn khu vực"(84,
tr3). Như vậy, sau một thời kỳ tạm rút lui, Nga đã bắt đầu lên tiếng khẳng
định vị trí của mình. Tháng 2 - 1995, Tổng thống B.Yeltsin đã nêu lên một
cách toàn diện các mục tiêu chiến lược đối ngoại của Nga và chỉ rõ mục tiêu
hàng đầu là tăng cường nhất thể hóa về kinh tế, chính trị, quân sự với các
nước SNG; còn với Mỹ và các nước phương Tây chỉ còn là quan hệ bạn bè
bình đẳng. Tổng thống Yeltsin cũng yêu cầu Mỹ công nhận vị trí đặc biệt của
Nga trong khu vực Liên Xô trước đây, phản đối Mỹ đơn phương can thiệp
vào việc duy trì hòa bình trên phần lãnh thô Liên Xô cũ.
Từ chính sách thân và tuyệt đối nghe theo phương Tây, chính sách đối
T
6

ngoại của Nga chuyển sang mục tiêu "đặt lợi ích dân tộc lên hàng đâu", đặc
biệt từ khi E.Primacov lên làm Ngoại trưởng, đường lối đối ngoại của Nga
ngày càng cứng rắn hơn. Primacov đã nói về một số nhiệm vụ ưu tiên trong
chính sách đối ngoại của nước Nga (3, tr 46): thứ nhất, tạo những điều kiện
đối ngoại tốt nhất, thuận lợi nhất cho việc củng cố toàn vẹn lãnh thổ Nga; thứ
hai, cũng có các xu thế hướng tâm, liên kết trên lãnh thổ Liên Xô cũ, loại trừ
khả năng để bất cứ thế lực bên ngoài nào chia rẽ Nga và các nước SNG vì
mục đích trên; thứ ba, phát triển các mối quan hệ có hiệu quả giữa các quốc
gia, ngăn chặn sự hình thành các lò lửa căng thẳng mới. Primacov gọi đó là
chính sách "ngoại giao đa phương", "ngoại giao tích cực".


Chính sách đôi ngoại của Nga tiếp tục được thể hiện trong "Học thuyết
T
6


an ninh quốc gia của Liên bang Nga" tháng 12 - 1997. Học thuyết nêu rõ, để
bảo vệ quyền lợi dân tộc trên trường quốc tế, Nga sẽ tiến hành đường lối đối
ngoại tích cực, củng cố vị trí cường quốc của mình, tăng cường liên kết với
các nước SNG...
Trong chính sách đối ngoại của Nga, các nước SNG luôn ở vị trí ưu tiên
T
6

hàng đầu. Đối với Nga, quan trọng trước hết là những gì đang diễn ra trong
SNG sát biên giới Nga. Một trong những nguyên nhân chính mà Bộ trưởng
Ngoại giao đầu tiên của Liên bang Nga A.Kozyrev bị cách chức là do ông ta
không chú ý đúng mức đến việc giữ gìn và củng cố quan hệ với các nước láng
giềng của Nga, trước hết là SNG. Khi E.Primacov lên làm Bộ trưởng Ngoại
giao (1995), công việc đó được đẩy lên nhưng sự chuyển biến về chất không
đáng kể. Có nhiều lý do, song một trong những lý do quan trọng là Tổng
thống B.Yeltsin ít thực hiện các chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa nguyên thủ
quốc gia Nga và các nước lân cận để bàn bạc, tìm cách giải quyêt kịp thời
những vấn đề lớn trong quan hệ song phương giữa Nga với từng quốc gia
SNG cũng như quan hệ đa phương trong khuôn khổ SNG.
Sau khi lên làm Tổng thống, V.Putin đã xác định lại đường lối đối ngoại
T
6

của Nga. Đó là đường lối đối ngoại thực dụng, đặt quyền lợi nước Nga và dân
tộc Nga lên vị trí hàng đầu, mọi chính sách đối ngoại đều phục vụ cho mục
tiêu này. Phương hướng địa - chính trị trong chính sách đối ngoại của Nga là
không gian SNG. Quan hệ với các nước SNG vẫn là hướng ưu tiên chính của
Nga bởi đây là khu vực "cận ngoại biên" có tầm quan trọng chiến lược đối với
Nga. Nga quan tâm tới mục tiêu quanh đường biên giới của mình là các quốc

gia hữu nghị, ổn định, dân chủ và phồn thịnh. Nga cho rằng các nước SNG tự
mình quyết định tiến trình chuyển đổi mô hình phát triển dân chủ thị trường.
Dựa trên những kinh nghiệm tích lũy được, Nga quan niệm tăng cường hợp
tác kinh tế - thương mại với các nước SNG là điều kiện tiên quyết cho ổn định


và phát triển trong khu vực, và vai trò của Nga là không thể thay thế được.
Mục tiêu mà Nga đặt ra là xây dựng một hệ thống kinh tế đảm bảo cho sự
phát triển hiệu quả của các nước thành viên, Nga hướng tới không gian tự do
hóa kinh tế cũng như đầu tư trong khu vực.
Sau khi lên cầm quyền, khác với người tiền nhiệm, V.Putin đã thực hiện
T
6

hàng loạt chuyến viếng thăm: Thăm Belarus ngày 14 - 4 - 2000, chỉ ba tuần
sau khi trúng cử Tổng thống (26 - 3 - 2000); trong vòng một năm đã thăm
Ucraina hai lần; thăm một loạt nước như Ưzbekistan, Turmenistan,
Azerbaijan; gặp gỡ các nguyên thủ quốc gia SNG nhiều lần tại các hội nghị
trong khuôn khổ tổ chức SNG. Lên làm chủ điện Kremli với một thuận lợi
tuyệt vời là có sự hậu thuẫn toàn diện của người tiền nhiệm Putin, Tổng thống
D. Medvedev chắc chắn sẽ tiếp tục đưa nước Nga đi theo con đường mà ông
Putin đã kiên trì thực hiện trong suốt hai nhiệm kỳ. Ngày 31 - 8 - 2008, Tổng
thống Medvedev đã vạch ra 5 nguyên tắc mà chính sách ngoại giao tương lai
của Moskva sẽ lấy đó làm căn cứ và cho biết nếu cần thiết, nó có thể mở đầu
cho các biện pháp trừng phạt của Nga đối với các nước khác. Thứ nhất, tôn
trọng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. Thứ hai, thế giới phải
đa cực. Nước Nga không công nhận một thế giới mà ở đó, tất cả các quyết
định được ban hành bởi một phía, thậm chí đó là một quốc gia hùng mạnh
như Mỹ. Điều đó cũng giống như một thế giới đầy bất ổn và luôn bị đe dọa
bởi xung đột. Thứ ba, Nga không muốn đối đầu với bất kỳ nước nào và không

có ý định để mình bị cô lập. Thứ tư, Nga sẽ bảo vệ tính mạng của công dân
nước mình, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu. Thứ năm, Nga cũng như những nước
khác trên thế giới đều có những khu vực được ưu tiên và Nga sẽ phát triển
quan hệ ở những khu vực thân thiện.
Trong số các nước SNG, quan hệ Nga - Belarus được xem là mối quan
T
6

hệ mẫu mực do sự gần kết về kịch sử, truyền thống gắn kết về dân tộc, tôn
giáo. Trước hết, mối quan hệ này được thể hiện trong việc xây dựng một nhà


nước Liên minh với đồng Rúp Nga dự kiến đưa vào sử dụng vào cuối năm
2006, nhưng trên thực tế chưa thực hiện được. Hiện nay Nga là bạn hàng lớn
nhất của Belarus, đồng thời Belarus cũng là bạn hàng lớn nhất của Nga trong
số các nước SNG. Thương mại có một vị trí quan trọng trong quan hệ kinh tế
giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, vẫn đề không phải chỉ ở lĩnh vực thương mại,
mà là sự liên kết chặt chẽ thông qua việc thành lập nhiều xí nghiệp liên doanh
giữa Nga và Belarus, loại bỏ những hạn chế về thuế quan, thông qua những
biện pháp nhằm thống nhất các quy định điều tiết. Ngày 3 — 2 - 2009, Nga và
Belarus đã ký kết hiệp định hợp tác bảo vệ biên giới đường không và thành
lập hệ thống phòng không chung giữa hai nước. Hệ thống phòng không chung
gồm năm đơn vị không quân, 10 đơn vị tên lửa đất đối không, năm đơn vị kỹ
thuật vô tuyến và một đơn vị chống nhiễu.
Như vậy, nếu xét về tình trạng kinh tế thì các nước SNG khó có gì để hỗ
T
6

trợ cho Nga; ngược lại đa số họ còn khó khăn nhiều hơn, nhất là trong lĩnh
vực năng lượng, khí đôi (Belarus, Ưcraina, Moldova hâu như nhập hoàn toàn

năng lượng từ Nga). Tuy vậy, Nga rất cần đến các nước này và đặt họ vào ưu
tiên số một bởi nhiều lý do về lịch sử, văn hóa gắn bó trước đây cũng như
ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống giống nhau do 70 năm sống chung
dưới thời Xô viêt, và quan trọng nhất là ý nghĩa về vị trí địa – chiến lược của
những nước này đối với Nga. Nó biểu hiện ở chỗ mọi diễn biến lớn của những
nước láng giềng này đều tác động tức thời đến tình hình nước Nga. Nếu để
cho những nước này (đặc biệt là Ucraina) rơi vào vòng ảnh hưởng của Mỹ thì
vị trí và an ninh của Nga ở khu vực chắc chắn sẽ bị tổn thương.
Tóm lại, nếu xem xét tất cả các mặt, nhất là từ góc độ lợi ích an ninh của
T
6

Nga thì việc Nga tuyên bố rằng các nước SNG thuộc hàng ưu tiên số một
trong chính sách đối ngoại của mình là hoàn toàn chính xác, bởi nếu Nga
củng cố tốt mối quan hệ với những nước này thì họ chính là vành đai an ninh
và khu đệm an toàn giữa Nga và Mỹ. Tuy nhiên, dù Liên bang Nga coi họp


tác với các nước SNG là ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mình,
nhưng trên thực tế Nga chưa làm được như vậy. Trong khi đó, các nước SNG
khác lại luôn lo sợ Nga muốn gây áp lực chính trị, quân sự nhằm giữ lấy vai
trò lãnh đạo trong SNG, vì vậy họ muốn tìm kiếm các đối tác khác ngoài khu
vực để tránh sự phụ thuộc vào Nga. Những mâu thuẫn giữa các nước trong
SNG, đặc biệt là giữa Nga - Grudia, Nga - Belarus, Nga - Ucraina cho thấy
triển vọng phát triển Nga - các nước SNG còn lại còn hết sức phức tạp và
nhiều khó khăn.
1.2.2 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Mỹ

Mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của các đời Tổng thống Mỹ kế tiếp nhau
T

6

Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là thiết lập trật tự do Mỹ lãnh
đạo, kiềm chế sự nổi lên của các cường quốc khác đe dọa vị thế và lợi ích của
Mỹ.
Vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ đắc cử sau khi Liên Xô tan rã là
T
6

B.Clinton. Việc xây dựng một đường lối đối ngoại mới phù hợp hơn là điều
cấp thiết. Ngay khi bước vào Nhà Trắng, trong diễn văn nhậm chức ngày 20 Ì - 1993, Tổng thống mới đã phác họa những nét lớn trong chính sách ngoại
giao mới của Hoa Kỳ. Ông nêu rõ: "Rõ ràng nước Mỹ phải tiếp tục lãnh đạo
thế giới, đây là công việc mà trong quá khứ chúng ta đã nỗ lực rất nhiều mới
làm đươc". Nói đến cơ hội và thách thức mới, B.Clinton nhấn mạnh: "để đổi
mới được nước Mỹ, chúng ta phải đương đầu với những thách thức ở ngoài
cũng như ở trong nước. Không còn phân chia đâu là thách thức từ bên ngoài
và đâu là từ bên trong" (32, tr 177-178). Trong nhiệm kỳ đầu làm chủ Nhà
Trắng, B.Clinton đã công bố "Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở
rộng" (Chiến lược hai chữ E: Engagement and Enlargament). Yêu cầu bao
trùm của nó là mở rộng và tăng cường cộng đồng các nền dân chủ theo kinh
tế thị trường của thế giới. Điều này có nghĩa Hoa Kỳ tìm cách củng cố và mở
rộng quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, từ đó thiết lập một trật tự


quốc tế tư bản chủ nghĩa do Mỹ chỉ huy. "Chiến lược an ninh quốc gia cam
kết và mở rộng" (hay còn gọi là Học thuyêt Clinton) vừa kế thừa những chính
sách đối ngoại của những người tiền nhiệm, vừa có những điều chỉnh cho phù
họp với thực tế Mỹ và tình hình thế giới "hậu Xô viêt" (4, tr 135).
Sau khi trở thành vị Tổng thống thứ 43 trong lịch sử Hoa Kỳ, G.Bush
T

6

ngay lập tức thể hiện sự cứng rắn, hiếu chiến vốn là thuộc tính cố hữu của
Đảng Cộng hòa. Cũng với mục tiêu đối ngoại xuyên suốt, không thay đổi là
củng cố vị thế siêu cường thế giới duy nhất và vai trò lãnh đạo thế giới theo
trật tự đơn cực, chính quyền của Tổng thống Bush còn bộc lộ rõ hơn xu
hướng đơn phương, cường quyền trong chính sách đối ngoại so với thời
Clinton. Người ta từng hi vọng rằng sự kiện 11-9 với hậu quả khủng khiếp về
nhiêu mặt của nó có thể làm cho giới "diều hâu" trong chính quyền Mỹ vốn tự
tin vào sức mạnh vô song của Mỹ bớt hung hãn, khi cả nước Mỹ bất ngờ hứng
chịu một đòn tấn công vừa gây nhiều thiệt hại vừa mang tính cảnh báo đó.
Nhưng vẫn như trước đây, dựa vào ưu thế vượt trội của siêu cường thế giới,
chính quyền Bush bắt thế giới phải tuân theo quy tác hành xử, chuẩn mực giá
trị Mỹ. Ngân sách quốc phòng Mỹ trong những năm gần đây liên tục tăng
cao, bằng khoảng 50% chi phí quốc phòng của cả thế giới cộng lại và trong
những năm tới có thể lên đến 500 tỉ USD. Đây là một con số cao kỷ lục và
chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ, gây lo ngại cho nhiều nước. Và trên thực
tế, bằng cách đó, Mỹ đã phát động một cuộc chạy đua vũ trang cực kỳ nguy
hiểm.
Kể từ sau sự kiện 11—9, Mỹ đã chuyển hướng chính sách ngoại giao
T
6

sang "ngoại giao thời chiến", theo đó Mỹ chú trọng lợi ích hợp tác trong cuộc
chiến chống khủng bố toàn cầu. Phương châm ngoại giao của Mỹ là lấy chống
khủng bố làm tiền đề, trong đó Mỹ sẽ căn cứ vào mục tiêu chống khủng bố cụ
thể để tìm đồng minh có giá trị. Với chính sách "ngoại giao thời chiến",
G.Bush đã thay đổi phương châm "tránh thương vong" của B.Clinton trước



đây. Tư duy ngoại giao của Mỹ hiện nay xuât phát từ giả thuyết: Tấn công là
biện pháp tốt để phòng ngự. Với thực lực quân sự mạnh nhất thế giới hiện
nay, Mỹ từ chối bất kỳ một hiệp định quốc tế nào hạn chế hoạt động của Mỹ.
Washington cho rằng cộng đồng quốc tế không nên gây khó khăn cho chính
sách ngoại giao của Mỹ.
Hiện nay, Mỹ cho rằng mối đe dọa toàn cầu mà Mỹ đang phải đối mặt là
T
6

chủ nghĩa khủng bố và các thế lực Hồi giáo cực đoan. Thách thức đặt ra trước
nước Mỹ là tiến công chủ nghĩa cực đoan, đồng thời tránh xung đột giữa các
nền văn minh (71, tr 18). Học thuyết này chủ trương "đánh trước để phòng
ngừa trong những trường họp cần thiết phải tự vệ". Mỹ không ngần ngại tấn
công trước dù ra quân một mình. Quân đội Mỹ lúc nào cũng phải hùng mạnh
để ứng phó với những nước nào có thể "đe dọa" Hoa Kỳ.
Đối với Nga, ngay từ khi nước này mới ra đời, Clinton đã tuyên bố "Mỹ
T
6

sẽ tìm cách hợp tác với Nga để làm cho thế giới an toàn hơn, ủng hộ nền dân
chủ và kinh tế thị trường". Vị Tổng thống này cho rằng Mỹ có ba lợi ích trong
việc họp tác với Nga: Một là làm cho thế giới an toàn hơn, tiếp tục giảm nguy
cơ chiến tranh hạt nhân và không phổ biến vũ khí hạt nhân; hai là ủng hộ sự
phát triển dân chủ và tự do cho nhân dân Nga; ba là ủng hộ một nền kinh tế tự
do (83, tr 35). Trong thời kỳ đầu sau khi Liên Xô tan rã, Nga được đặt lên tầm
quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ không chỉ vì những
lợi ích trên. Nga từ "kẻ thù trực tiếp" trở thành "kẻ thù tiềm ẩn" của Mỹ. Do
đó Mỹ thực hiện chính sách vừa giúp đỡ vừa kiềm chế Nga. Tuy thực lực
giảm sút song Nga vẫn là một cường quốc hạt nhân, là mối đe dọa lớn đối với
an ninh Mỹ. Vì vậy Mỹ một mặt ra sức giúp đỡ Nga về kinh tế và vận động

các nước phương Tây, các đồng minh của mình giúp đỡ để Nga có thể cải
cách kinh tế, đưa đất nước đi theo con đường dân chủ, kinh tế thị trường tự do
và chính trị đa đảng. Mỹ làm như vậy nhằm ràng buộc Nga phải lệ thuộc vào
Mỹ. Mặt khác, Mỹ lại tìm cách cô lập, ngăn sự phục hồi của Nga bằng viện


×