Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Xây dựng chương trình điều khiển trạm trộn bê tông dùng PLC Misubishi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.87 KB, 45 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Kỹ thuật điều khiển khả trình đã phát triển mạnh và chiếm một vị trí rất quan trọng
trong các ngành kinh tế quốc dân. Kỹ thuật điều khiển logic khả trình phát triển trên cơ sở
công nghệ máy tính và từng bước phát triển tiếp cận theo nhu cầu phát triển của công nghiệp.
Ngày nay PLC có 1 vị trí rất quan trọng trong nền công nghiệp và nó được coi là trung tâm là
bộ não của các hệ thống điều khiển.
Là một sinh viên ngành tự động hóa , em cảm thấy rất tự hào khi được học tập và nghiên cứu
các bộ môn trong ngành tự động hóa trong đó điển hình là bộ môn PLC với những ứng dụng
rất quan trọng và rộng lớn trong các ngành công nghiệp cũng như đời sống.
Và đặc biệt là trong kỳ làm đồ án tốt nghiệp này chúng em đã có cơ hội kiểm nghiệm tính
đúng đắn và ứng dụng những kiến thức lý thuyết đã được học về PLC .
Nội dung đồ án tốt nghiệp của chúng em là :” Xây dựng chương trình điều khiển trạm
trộn bê tông dùng PLC Misubishi” với 4 nội dung chính :
- Tìm hiểu khái quát chung về công nghệ trộn bê tông
- Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông
- Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC
- Thiết kế chương trình điều khiển
Em xin chân thành cám ơn thầy giáo TS.XXX đã quan tâm và hướng dẫn , giúp đỡ nhóm 22
lớp XXXXX chúng em tận tụy, nhiệt tình .
Em xin chân thành cám ơn !
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2011
Sinh viên thực hiện


Nguyễn XXXXXx
1
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG NGHỆ TRỘN BÊ TÔNG
1.1.Tổng quan về trạm trộn bê tông


Hình 1.1 . Trạm trộn bê tông
1.1.1. Khái niệm và chức năng của trạm trộn bê tông
Trạm trộn bê tông được chế tạo nhằm sản xuất ra bê tông với chất lượng tốt và đáp ứng
nhanh nhu cầu về bê tông trong xây dựng. Trạm trộn bê tông là hệ thống máy móc có mức độ
tự động hóa cao thường được sử dụng phục vụ cho các công trình vừa và lớn hay cho một khu
vực có nhiều công trình đang xây dựng.
Trước đây khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, máy móc còn nhiều lạc hậu thì việc có
được một khối lượng bê tông lớn chất lượng tốt là điều rất khó khăn .
Chính vì vậy để thiết kế những dây chuyền bê tông tự động là điều cần thiết cho mỗi
công trường cũng như ngành xây dựng trong nước. Một trạm trộn gồm có 3 bộ phận chính:
Bộ phận chứa vật liệu và nước, bộ phận định lượng và máy trộn. Giữa các bộ phận có các
thiết bị nâng, vận chuyển và các phễu chứa trung gian.
2
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông

Công nghệ sản xuất bê tông nói chung tương tự nhau:
Vật liệu sau khi định lượng được đưa vào trộn đều. Trong trường hợp kết hợp sản xuất bê
tông và vữa xây dựng trong một dây chuyền thì có thể giảm được 32% diện tích mặt bằng, từ
30%÷50% công nhân, từ 8%÷19% vốn đầu tư thiết bị. Một nhà máy bê tông và vữa liên hiệp
có hiệu quả cao khi lượng bê tông và vữa cung cấp không quá 300.000 m
3
/ năm.
1.1.2. Cấu tạo chung của trạm trộn
Một trạm trộn gồm có 3 bộ phận chính: Bãi chứa cốt liệu, hệ thống máy trộn bê tông và
hệ thống cung cấp điện.
a) Bãi chứa cốt liệu.
Bãi chứa cốt liệu là một khoảng đất trống dùng để chứa cốt liệu (cát, đá to đá nhỏ) ở
đây cát, đá to, đá nhỏ được chất thành các đống riêng biệt.
Yêu cầu đối với bãi chứa cốt liệu phải rộng và thuận tiện cho việc chuyên chở cũng
như lấy cốt liệu đưa lên máy trộn.

b) Hệ thống máy trộn bê tông.
Hệ thống máy trộn bê tông bao gồm hệ thống thùng chứa liên kết với hệ thống định
lượng dùng để xác định chính xác tỉ lệ các loại nguyên vật liệu cấu tạo nên bê tông. Băng tải
dùng để đưa cốt liệu vào thùng trộn và gồm máy bơm nước, máy bơm phụ gia, xi lô chứa xi
măng, vít tải xi măng, thùng trộn bê tông, hệ thống khí nén.
Giữa các bộ phận có các thiết bị nâng, vận chuyển và phễu chứa trung gian.
c) Hệ thống cung cấp điện.
Trạm trộn bê tông sử dụng nhiều động cơ có công suất lớn vì vậy trạm trộn bê tông cần
có một hệ thống cung cấp điện phù hợp để cung cấp cho các động cơ và nhiều thiết bị khác.
1.2. Phân loại trạm trộn
Dựa theo năng suất, người ta chia các nơi sản xuất bê tông thành 3 loại như sau :
- Trạm bê tông năng suất nhỏ (10÷30 m
3
/ h)
- Trạm trộn bê tông năng suất trung bình (30÷60 m
3
/ h)
- Nhà máy sản xuất bê tông năng suất lớn (60÷120 m
3
/ h)
Có 2 dạng trạm trộn:
3
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông

1.2.1. Trạm cố định
Trạm phục vụ cho công tác xây dựng một vùng lãnh thổ đồng thời cung cấp bê tông phục
vụ trong phạm vi bán kính làm việc hiệu quả. Thiết bị của trạm được bố trí theo dạng tháp,
một công đoạn có ý nghĩa là vật liệu được đưa lên cao một lần, thao tác công nghệ được tiến
hành. Thường vật liệu được đưa lên độ cao từ (18÷20) m so với mặt đất, chứa trong các phễu
xi măng (chứa trong xi lô).

Trong quá trình dịch chuyển xuống chúng được đi qua cân định lượng sau đó đưa vào
máy trộn. Điểm cuối cùng của cửa xả bê tông phải cao hơn miệng cửa nhận của thiết bị nhận
bê tông.Trong dây chuyền có thể lắp bất cứ loại máy trộn bê tông nào chỉ cần chúng đảm bảo
mối tương quan về năng suất với các thiết bị khác. Để phục vụ cho công tác bê tông yêu cầu
khối lượng lớn, tập trung, đường xá vận chuyển thuận lợi, cự ly vận chuyển dưới 30 km thì sử
dụng trạm này là kinh tế nhất.
Trong trường hợp vừa có các công trình tập trung yêu cầu khối lượng lớn, vừa có các điểm
xây dựng phân tán đặc trưng cho các đô thị Việt Nam cần sử dụng sơ đồ hỗn hợp, vừa cấp hỗn
hợp khô cho các công trình nhỏ, phân tán đường xá lưu thông kém. Nếu cung cấp bê tông thì
phải dùng ôtô trộn còn cung cấp hỗn hợp khô thì việc trộn sẽ được tiến hành trên đường vận
chuyển hay tại nơi đổ bê tông.
1.2.2. Trạm tháo lắp di chuyển được
Dạng này có thể tháo lắp di chuyển dễ dàng, di động phục vụ một số vùng hay công trình
lớn trong một thời gian nhất định. Thiết bị công nghệ của trạm thường được bố trí dạng 2 hay
nhiều công đoạn, nghĩa là vật liệu được đưa lên cao nhờ các thiết bị ít nhất là 2 lần. Thường
trong giai đoạn này phần định lượng riêng và phần trộn riêng, giữa hai phần được nối với
nhau bằng thiết bị vận chuyển (gầu vận chuyển, băng tải xe, xe vận chuyển).
Vật liệu được đưa lên cao lần đầu nhờ máy xúc, gàu xúc băng chuyền....vào các phễu
riêng biệt sau đó là quá trình định lượng. Tiếp theo vật liệu được đưa lên cao lần nữa để cho
vào máy trộn.
Cũng như dạng trên, trong dây chuyền có thể lắp bất cứ loại máy trộn nào miễn là đảm
bảo mối tương quan về năng suất và chế độ làm việc của các thiết bị khác. Cửa xả phải cao
hơn cửa nhận bê tông của thiết bị vận chuyển (nếu tháp cao hơn phải đưa lên cao một lần
nữa). So với dạng cố định loại trạm này có độ cao nhỏ hơn nhiều (từ 7m÷10m) nhưng lại
chiếm mặt bằng khá lớn. Phần diện tích dành cho khu vực định lượng, phần diện tích dành cho
trộn bê tông và phần nối giữa hai khu vực dành cho vận chuyển. Trên thực tế, tổng mặt bằng
cho loại trạm này nhỏ hơn vì chúng có sản lượng nhỏ hơn nên bãi chứa cũng nhỏ hơn.
4
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông


Khi xây dựng các công trình phân tán, đường xấu, lưu thông xe không tốt thường sử dụng các
trạm trộn di động hoặc cung cấp bê tông khô trên các ô tô trộn. Việc trộn được tiến hành trên
đường vận chuyển hay tại nơi đổ bê tông.
1.3. Máy trộn
1.3.1. Cấu tạo chung của các máy trộn
Nhìn chung các máy trộn bê tông có nhiều loại và có tính năng khác nhau nhưng cấu tạo
chung của chúng đều có các bộ phận:
-Bộ phận cấp liệu: Bao gồm máng cấp liệu và các thiết bị định lượng thành phần cốt liệu khô
như đá, cát, sỏi, xi măng.
-Bộ phận thùng trộn: Thùng trộn .
-Bộ phận dỡ sản phẩm.
-Hệ thống cấp nước.
1.4. Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của trạm trộn bê tông
1.4.1.Cấu tạo
 Bãi chứa cốt liệu: Từ bãi chứa cốt liệu cát và đá. Vật liệu được đưa xuống 3 băng tải riêng
biệt chờ để tiến hành cân.
 Bộ phận định lượng:
Phân phối liệu gồm 3 phễu: hai phễu đá và một phễu cát, định lượng có 3 quả cân điện tử (3
cảm biến trọng lượng). Việc đóng, mở các phễu được điều khiển bằng các xi lanh khí nén
riêng biệt. Phía dưới các phễu là một thùng đáy được mở nhờ một xi lanh khí nén lần lượt các
cửa xả xuống thùng cân, sau khi cân xong thì thùng liệu được trút xuống phễu trộn chung.
 Chuyển xi măng lên xi lô:
Xi măng được đưa lên xi lô chứa bằng cách bơm xi măng từ xe chở xi măng chuyên dụng lên
xi lô.
Xi măng được đưa lên miệng xi lô nhờ trục vít xoắn hướng trục với xi lô chứa. Từ miệng xi lô
chứa xi măng được vận chuyển tới cân định lượng rồi xả vào thùng trộn.
 Xe kíp, dùng để vận chuyển cốt liệu từ 3 phễu riêng biệt lên các thùng cân.
1.4.2. Quá trình chuẩn bị
5
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông


Từ các nguyên vật liệu xây dựng để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng là bê tông ta cần
thực hiện các công việc như sau:
Cốt liệu được để riêng biệt ở bãi chứa cốt liệu. Cốt liệu được máy xúc lật đưa lên đầy
các thùng phễu riêng rẽ, chờ xả xuống băng tải để vận chuyển lên các thùng cân cốt liệu, xi
măng được đưa lên xi lô chứa xi măng trên cao. Nước được bơm lên đầy các thùng chứa để
chờ cân định lượng.
a) Kiểm tra các điều kiện làm việc
Để bắt đầu một quá trình hoạt động mới, tránh trường hợp có quá trình hoạt động trước đó
(chẳng hạn như sự cố). Trong thùng cân nước, cân phụ gia, cân xi măng, thùng trộn vẫn chưa
xả hết nguyên liệu. Tại bàn điều khiển người vận hành ấn nút Reset để:
• Mở cửa xả bê tông
• Mở cửa xả thùng cân cát
• Mở cửa xả thùng cân đá.
• Mở cửa xả thùng cân xi măng
• Mở cửa xả thùng cân nước, phụ gia.
Lúc này mới cho phép hệ thống làm việc .
Sau khi quá trình chuẩn bị xong. Từ máy tính người vận hành nhập các thông số của mác
bê tông như: khối lượng cát, đá1, đá2, xi măng, nước, phụ gia, số mẻ và các dữ liệu quản lý
hành chính như tên lái xe, biển số xe, ngày, giờ xuất hành...
Sau đó tới tủ điều khiển người vận hành chọn chế độ hoạt động cho máy là tự động hay bằng
tay.
Nếu là chế độ tự động người vận hành nhấn nút Auto, nếu là chế độ bằng tay thì nhấn nút
Manual
b) Chế độ điều khiển tự động
Ở chế độ điều khiển tự động người vận hành chỉ cần nhấn nút Start trên bàn điều
khiển. Động cơ trộn bê tông cho chạy ở chế độ không tải. Máy sẽ tự động cân đo các khối
lượng nguyên vật liệu, ở đây thực hiện phương pháp cân riêng lẻ.
Mở van xả cát, cát được xả xuống băng tải để đưa lên thùng cân. Đồng thời đá cũng
xả để đưa lên thùng cân.

Trong quá trình cân cốt liệu đồng thời cân luôn xi măng ,nước và phụ gia. Xi măng từ xi lô chứa
đưa vào thùng cân nhờ vít tải, khi khối lượng xi măng bằng khối lượng đặt thì dừng động cơ vít
6
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông

tải. Nước, phụ gia được bơm lên đưa vào thùng cân cho đến khi bằng khối lượng đặt thì dừng
động cơ bơm nước và phụ gia.
Khi điều kiện thùng trộn “rỗng’, cửa xả thùng trộn “đóng”, thì cốt liệu và xi măng được
đưa đổ vào thùng trộn bê tông bắt đầu quá trình trộn khô. Sau thời gian trộn khô là 30s thì xả
nước và phụ gia vào trộn, bắt đầu thời gian trộn ướt là 30s (Thời gian trộn một mẻ khoảng
60s) thì cửa xả thùng trộn mở ra, bê tông được xả vào xe chuyên dụng. Sau thời gian xả
khoảng 10s, đóng cửa xả bê tông lại. Kết thúc một mẻ trộn.
Để chuẩn bị cho một mẻ trộn mới thì trong quá trình trộn bê tông và sau khi xả nguyên
liệu: cát, đá, nước, xi măng và phụ gia tiếp tục được vận chuyển lên thùng cân nghĩa là:
Khi số mẻ trộn chưa bằng số mẻ đặt thì sau khi xả cốt liệu và xi măng xong sẽ tiếp tục quay lại
thực hiện cân cốt liệu và xi măng. Khi xả nước và phụ gia xong cũng tự động quay lại cân nước,
phụ gia. Khi cân đủ thì dừng lại chờ mẻ tiếp theo.
Khi số mẻ bằng số mẻ đặt thì dừng hết quá trình cân lại.
c) Chế độ điều khiển bằng tay
Ở chế độ điều khiển bằng tay,người vận hành gạt công tắc cân vật liệu xuống OFF,
quan sát số liệu cân bằng thiết bị hiển thị trên bàn điều khiển hoặc quan sát trên màn hình
phần mềm.
Nhấn nút chạy động cơ trộn.
Đưa tay gạt sang chế độ hoạt động bằng tay, gạt chuyển mạch đóng mở cửa xả sang vị trí
“Stop”, khi cần điểu khiển, gạt chuyển mạch sang vị trí đóng hoặc mở cửa xả để đóng, mở cửa
xả.
Nhấn nút cấp cát,đá, đồng thời cấp luôn xi măng, nước, phụ gia. Người vận hành theo
dõi số cân hiển thị trên máy tính, khi đủ nhấn vào một lần nữa các nút để dừng quá trình cấp..
Khi cốt liệu đã được cấp đủ đưa chúng vào thùng trộn. Lúc này nhấn nút xả cốt liệu đồng thời
nhấn nút xả xi măng. Do động cơ trộn luôn chạy trong quá trình hoạt động nên sau khi xả

xong cốt liệu, xi măng coi như máy đang trôn bê tông khô, thời gian trộn ướt được bắt đầu
tính khi xả nước và phụ gia. Sau khi trộn ướt mẻ bê tông đã được hoàn thành, người vận hành
chỉ việc nhấn nút xả bê tông.
Không để chuyển mạch đóng mở cửa xả ở vị trí “tự động” vì khi đó có thể bê tông sẽ bị
xả theo chế độ tự động trong khi chưa cân đủ nước hoặc đủ xi măng.
1.5. Thành phần vật liệu trộn bê tông
Để kết cấu được bê tông nhất thiết cần có các nguyên liệu sau:
7
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông

1.5.1.Xi măng
Xi măng kết hợp với nước tạo thành hồ xi măng xen giữa các hạt cốt liệu, đồng thời tạo
ra tính linh động của bê tông (được đo bằng độ sụt nón) Mác của xi măng được chọn phải lớn
hơn mác của bê tông cần sản xuất, sự phân bố giữa các hạt cốt liệu và tính chất của nó ảnh
hưởng lớn đến cường độ của bêtông. Bình thường hồ xi măng lấp đầy phần rỗng giữa các hạt
cốt liệu và đẩy chúng ra xa nhau một chút (với cự li bằng 243 lần đường kính hạt xi măng).
Trong trường hợp này phát huy được vai trò của cốt liệu nên cường độ của bê tông khá
cao và yêu cầu cốt liệu cao hơn cường độ bê tông khoảng 1,5 lần. Khi bê tông chưá lượng hồ
xi măng lớn, các hạt cốt liệu bị đẩy ra xa nhau hơn đến mức chúng hầu như không có tác dụng
tương hỗ nhau. Khi đó cường độ của đá, xi măng và cường độ của vùng tiếp xúc đóng vai trò
quyết định đến cường độ bê tông nên yêu cầu cốt liệu thấp hơn .
Tuỳ yêu cầu của loại bê tông có thể dùng các loại xi măng khác nhau, có thể dùng xi
măng pô lăng, xi măng pô lăng bền sunfat, xi măng pôlăng xủ, xi măng puzolan và các chất
kết dính khác để thoả mãn yêu cầu của chương trình.
1.5.2 . Cát
Cát để làm bê tông có thể là cát thiên nhiên hay cát nhân tạo cỡ hạt từ (0,14÷5) mm
theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), từ (0,15÷4,75) mm theo tiêu chuẩn Mỹ, từ (0,08÷5) mm
TCVN. Lượng cát khi trộn với xi măng và nước, phụ gia phải được tính toán hợp lý, nếu
nhiều cát quá thì tốn xi măng không kinh tế và ít cát quá thì cường độ bê tông giảm.
1.5.3. Đá dăm

Sỏi có mặt tròn, nhẵn, độ rộng và diện tích mặt ngoaì nhỏ nên cần ít nước, tốn xi măng
mà vẫn dễ đầm, dễ đổ nhưng lực dính bám với vữa xi măng nhỏ nên cường độ bê tông sỏi
thấp hơn bê tông đá dăm. Ngược lại đá dăm được đập vỡ có nhiều góc cạnh, diện tích mặt
ngoài lớn và không nhẵn nên lực dính bám với vữa xi măng lớn tạo ra được bê tông có cường độ
cao hơn. Tuy nhiên mác của xi măng đá dăm phải cao hơn hay bằng mác của bê tông tạo ra hay
bê tông cần sản xuất.
1.5.4. Nước
Nước để trộn bê tông (rửa cốt liệu, nhào trộn vệ sinh buồng máy, bảo dưỡng bê tông)
phải đảm bảo không ảnh hưởng xấu đến thời gian đông kết và thời gian rắn chắc của xi măng
và không ăn mòn thép. Nước sinh hoạt là nước có thể dùng được .
Lượng nước nhào trộn là yếu tố quan trọng quyết định tính công tác của hỗn hợp bê
tông. Lượng nước dùng trong nhào trộn bao gồm lượng nước tạo hồ xi măng và lượng nước
do cốt liệu. Lượng nước trong bê tông xác định tính chất của hỗn hợp bê tông. Khi lượng
nước quá ít, dưới tác dụng của lực hút phân tử nước chỉ hấp thụ trên bề mặt vật rắn mà chưa
8
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông

tạo ra độ lưu động của hỗn hợp, lượng nước tăng đến một giới hạn nào đó sẽ xuất hiện nước
tự do, màng nước trên mặt vật rắn dày thêm, nội ma sát giảm xuống, độ lưu động tăng thêm,
lượng nước ứng với lúc bê tông có độ lưu động lớn nhất mà không bị phân tầng gọi là khả
năng giữ nước của hỗn hợp.
Nước biển có thể dùng để chế tạo bê tông cho những kết cấu làm việc trong nước bẩn
nếu tổng các loại muối trong nước không vượt quá 35g trong một lít nước. Tuy nhiên cường
độ bê tông sẽ giảm và không được sử dụng trong bê tông cốt thép.
1.5.5. Phụ gia
Phụ gia là các chất vô cơ hoặc hoá học khi cho vào bê tông sẽ cải thiện tính chất của hỗn
hợp bê tông hoặc bê tông cốt thép. Có nhiều loại phụ gia cho bê tông để cải thiện tính dẻo, cường
độ, thời gian rắn chắc hoặc tăng độ chống thấm.
Thông thường phụgia sử dụng có hai loại: Loại rắn nhanh và loại hoạtđộng bề mặt.
Phụ gia rắn nhanh thường là loại muối gốc (CaCl

2
) hay muối Silic. Do là chất xúc tác và
tăng nhanh quá trình thuỷ hoá của C
3
S và C
2
S mà phụ gia CaCl
2
có khả năng rút ngắn quá
trình rắn chắc của bê tông trong điều kiện tự nhiên mà không làm giảm cường độ bê tông ở
tuổi 28 ngày.
Hiện nay người ta sử dụng loại phụ gia đa chức năng, đó là hỗn hợp của phụ gia rắn
nhanh và phụ gia hoạt động bề mặt hoặc các phụ gia tăng độ bền nước.
Thành phần vật liệu của bê tông đóng vai trò quyết định đến chất lượng hay quyết định
đến cường độ chịu lực cũng như mác của bê tông.Từ thực nghiệm người ta đã xác định được
mác của bê ông ứng với từng loại vật liệu nhất định với một tỉ lệ xác định, ngược lại từ mác
của bê tông người ta dễ dàng tra được tỉ lệ thành phần trong bê tông.
1.5.6. Tỷ lệ pha trộn các thành phần trong bê tông
Khái niệm mác bê tông : Khi nói đến mác bê tông là nói đến khả năng chịu nén của mẫu
bê tông. Theo tiêu chuẩn xây dựng hiện hành của Việt Nam (TCVN 3105:1993, TCVN
4453:1995), mẫu dùng để đo cường độ là một mẫu bê tông hình lập phương có kích thước 150
mm × 150 mm × 150 mm, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn quy định trong TCVN
3105:1993, trong thời gian 28 ngày sau khi bê tông ninh kết. Sau đó được đưa vào máy nén để
đo ứng suất nén phá hủy mẫu (qua đó xác định được cường độ chịu nén của bê tông), đơn vị
tính bằng MPa (N/mm²) hoặc daN/cm² (kg/cm²).
Trong kết cấu xây dựng, bê tông chịu nhiều tác động khác nhau: chịu nén, uốn, kéo,
trượt, trong đó chịu nén là ưu thế lớn nhất của bê tông. Do đó, người ta thường lấy cường độ
chịu nén là chỉ tiêu đặc trưng để đánh giá chất lượng bê tông, gọi là mác bê tông.
9
Chương 1. Khái quát chung về công nghệ trộn bê tông


Mác bê tông được phân loại từ 100, 150, 200, 250, 300, 400, 500 và 600. Khi nói rằng
mác bê tông 200 chính là nói tới ứng suất nén phá hủy của mẫu bê tông kích thước tiêu chuẩn,
được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn, được nén ở tuổi 28 ngày, đạt 200 kG/cm². Còn
cường độ chịu nén tính toán của bê tông mác 200 chỉ là 90 kG/cm² (được lấy để tính toán thiết
kế kết cấu bê tông theo trạng thái giới hạn thứ nhất).
Ngày nay người ta có thể chế tạo bê tông có cường độ rất cao lên đến 1000 kg/cm².
Độ sụt bê tông : Độ sụt hay độ lưu động của vữa bê tông, dùng để đánh giá khả năng dể chảy
của hỗn hợp bê tông dưới tác dụng của trọng lượng bản thân hoặc rung động
-Thành phần định mức cấp phối vật liệu cho 1 m3 bê tông dùng xi măng Hoàng Thạch
PCB.30 .
stt
Mác bê tông
Xi măng
(kg)
Cát
(
m
3
)
Đá
(
m
3
)
Nước
(Lit)
1 150 228,205 0,505 0,913 185
2 200 330,505 0,481 0,900 185
3 250 415,125 0,455 0,887 185

Bảng 1.1. Thành phần định mức cấp phối
Từ bảng trhành phần bê tông này , ta có thể tính toán giá trị khối lượng của đá , cát , xi măng ,
nước , phụ gia cho từng mẻ . Sau đó lấy các giá trị này để lập thành 1 giá trị tương ứng đưa
vào đầu cân để lấy tín hiệu điều khiển đưa về PLC
10
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

Chương 2
YÊU CẦU ĐIỀU KHIỂN CÔNG NGHỆ TRẠM TRỘN
BÊ TÔNG
2.1. Yêu cầu công nghệ của trạm trộn bê tông
2.1.1.Yêu cầu công nghệ của cối trộn
Khi động cơ trộn quay, qua hộp giảm tốc nó kéo trục trính cối trộn quay. Trên trục chính
có gắn các cánh trộn, các cánh trộn quay trong cối trộn sẽ đảo đều vật liệu trong cối trộn
Thời gian trộn có thể kéo dài từ 30 đến 60 giây tuỳ theo người vận hành đặt
+ Yêu cầu chiều quay cánh trộn :
- Đây là chuyển động quay theo một chiều,
- Không cần ổn định tốc độ
- Mômen quay lớn
- Làm việc liên tục trong cả ca sản xuất
+ Yêu cầu đối với động cơ kéo cánh trộn
- Làm việc trong chế độ dài hạn
- Không cần ổn định tốc độ
- Động cơ trộn có các thông số : P =22 Kw , n = 1000 v/ph
+ Yêu cầu điều khiển :
Khi khởi động trạm trộn, động cơ trộn hoạt động đầu tiên, ta phải chắc chắn các thiết bị
khác trong trạm sẵn sàng hoạt động, các cửa xả sẵn sàng( khí nén đủ ), nguyên vật liệu đủ, se
skíp ở vị trí hứng liệu, cửa xả bê tông ở vị trí đóng, nguồn điện cấp cho các thiết bị khác đã có
đủ, các yêu cầu về mác bê tông, số lượng bê tông cần trộn rõ ràng.
2.1.2 Yêu cầu nghệ của xe skíp kéo liệu

Cấu tạo là một thùng rỗng có miệng đễ hứng cốt liệu , có cửa xả cốt liệu, di chuyển lên-
xuống trên 2 thanh ray và được một tời kéo liệu kéo
11
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

Hoạt động: ở đầu chu kỳ hoạy động xe skíp nằm ở vị trí chờ cốt liệu từ bong ke rơi
xuống, khi khối lượng vật liệu đã đủ nó được tời kéo liệu kéo lên vị trí đổ cốt liệu vào cối
trộn nếu lúc đó cửa xả bê tông đã đóng, động cơ trộn còn đang làm việc và số mẻ trộn còn
tiếp tục. Nếu trong quá trình kéo lên tói gần vị trí đổ cốt liệu mà chu kì trộn của mẻ trước chưa
kết thúc ( Trong cối trộn vật liệu vẫn còn, bê tông chưa xả hết hoạc cửa xả chưa đóng lại ) thì
xe skíp phải dừng lại cho đén khi chu kì hoạt động của mẻ trước kết thúc mới được phép đi
lên đổ cốt liệu vào cối trộn. Sau khi đổ hết cốt liệu nó laị đi xuống vị trí chờ đổ cốt liệu
+ Yêu cầu chuyển động:
• Dừng khi: Đợi xả cốt liệu từ bong ke
Chờ kết thúc chu kì trộn của mẻ trước
Chờ đổ hết cốt liệu cào cối trộn
• Đi lên khi: Không có lệnh dừng để đợi
Trọng lượng cốt liệu trong thùng đã đủ
• Đi xuống khi: Đã đổ hết cốt liệu vào cối trộn
+Yêu cầu về động cơ
- Làm việc ở chế độ ngắn hạn lặp lại
- Có đảo chiều quay
- Khởi động trong chế độ đầy tải
- Không cần ổn định tốc độ trong xuốt quá trình làm việc
- Động cơ có P = 7,5 Kw, n = 1450 v/ph
2.1.3 Yêu cầu công nghệ của vít tải đứng
Cấu tạo: Gồm một trục vít vô tận lằm trong một ống bằng kim loại. Nó được kéo quay
bằng động cơ KĐB. Khi quay nó kéo vật liệu kằm trong các khoang trống đi theo. Vít tải đứng
chỉ làm việc khi ta cấp xi măng cho silô chứa
+Yêu cầu về chuyển động

- Không đảo chiều quay
- Không ổn định tốc độ
12
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

- Chỉ hoạt động khi cấp xi măng lên silô chứa
- Hoạt động trong chế độ dài hạn
+ Yêu cầu về động cơ
- Động cơ có công suất P = 7,5 Kw, n = 1450 vòng / phút
- Hoạt động ở chế độ dài hạn
- Không đảo chiều quay
- Không ổn định tốc độ trong quá trình làm việc
2.1.4 Yêu cầu công nghệ của vít tải xiên
Cấu tạo giống vít tải đứng
Hoạt động: Khi có lệnh điều khiển, động cơ quay kéo vít tải quay, nó xẽ đưa dần xi măng
lên thùng cân. Đây là chuyển động không đảo chiều quay, không cần ổn định tốc độ , dừng
chính sác
Yêu cầu đối với động cơ kéo vít tải xiên
- Động cơ có công suất P =11 Kw, n= 1450 v/ph
- Hoạt động ở chế độ ngắn hạn lặp lại
- Không đảo chiều quay
- Không ổn định tốc độ trong quá trình làm việc
2.1.5. Yêu cầu công nghệ của máy nén khí
Máy nén khí tạo ra nguồn khí có áp suất cao cấp cho các pitông đóng mở cửa xả cốt liệu,
xả nước, xả ximăng và bê tông. Trong trạm trộn máy nén khí còn phải làm việc trước cả cối
trộn . Máy sẽ tự dừng hoạt động khi áp suất trong bình đạt yêu cầu
+ yêu cầu về động cơ kéo máy nén khí
- không ổn định tốc độ
- chỉ quay theo một chiều
- làm việc ở chế độ ngắn hạn lặp lại

- Động cơ có thông số P = 2 Kw, n = 1450 v/ph
13
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

2.1.6. Yêu cầu công nghệ của bơm nước
Bơm nước cấp nước từ bể chứa lên thùng cân nước. Đây là hoạt động không đảo chiều quay
và có dừng chính xác.
+ yêu cầu về động cơ kéo máy bơm nước
- không ổn định tốc độ
- chỉ quay theo một chiều
- làm việc ở chế độ ngắn hạn lặp lại
- Động cơ có thông số P = 3 Kw, n = 1450 v/ph
2.1.7. Yêu cầu công nghệ của cửa xả cốt liệu
Các cửa xả cốt liệu được đóng mở nhờ lực của các pittông khí nén. Quá trình đóng mở này
phải thật chính xác về thời gian thực. Nếu sai, khối lượng vật liệu cho vào trộn xẽ sai và ta
không khống chế được mác bêtông cũng như khối luọng một mẻ trộn
2.2.Thiết kế trạm biến áp
Công suất tính toán của trạm là: (công thức 2.1)
Stt = (Pđộng cơ trộn + Pđộng có xe kíp + Pvít tải + Pnén khí +Pbơm nước +Pbơm phụ gia
+Pđầm cát +Pđầm xi + Pđầm đá)/ 0,8 (2.1)
Trong đó: 0,8 là hệ số cosϕ tính chung cho toàn bộ động cơ.
Do sử dụng một máy biến áp nên ta chọn công suất của máy biến áp SđmB lớn hơn hoặc
bằng công suất tính toán Stt (SđmB Stt)
Ta chọn công suất máy biến áp là: SđmB=200 KVA 35 KV/ 0,4KV. Do máy biến áp này
được chế tạo trong nước nên ta không phải tính toán đến hệ số hiệu chỉnh nhiệt độ.
Để trạm trộn hoạt động liên tục, khi xảy ra mất điện thì trạm đã lắp một máy phát điện dự
phòng. Máy này được đấu song song với máy biến áp. Khi xảy ra mất điện thì ngay lập tức
máy phát sẽ cấp điện trở lại cho hệ thống được tiếp tục làm việc.
2.3. Lựa chọn máy cắt điện
 Bảng thông số của máy cắt điện:

14
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

Loại Điện áp định
mức
Dòng điện
làm việc
Giới hạn dòng
điện cắt
Dòng điện
xung kích
PB – 35/400 35KV 400A 44KA 50KA
Bảng 2.1. Thông số của máy cắt điện
Từ các thông số của quá trình chọn thông số máy cắt ta có thể chọn được cầu chì cao áp. Cầu
chì cao áp ta chọn loại của hãng SIMENS chế tạo các thông số ở bảng dưới đây:
Loại Uđm Iđm Icắt N min Icắt N max
3GD 201 – 3B 35KV 30A 62A 63KA
Bản 2.2. Thông số cầu chì cao áp của hãng Simens
2.4. Chọn tủ động lực
Tủ động lực gồm có 1 Aptômat tổng đầu vào và1 aptômat cấp từ lưới điện xuống các
nhánh, một aptômat từ máy phát dự phòng, có 7 aptômat nhánh đầu ra đóng, cắt cho các động
cơ phụ tải.
Aptômat trong tủ động lực sử dụng aptômát của hãng Merlin Gerin của Pháp chế tạo. Các
aptômát được đặt trong vỏ tủ tự tạo.
Bảng lựa chọn aptomat cho tủ động lực: dùng aptomat hạ áp kiểu MCCBS và ELCBS của
hãng Mitsubishi
Loại Số lượng Uđm Iđm Ingắt
NF630-SE 2 500V 300A 600A
NF100-SA T/A 1 415V 80A 160A
NF50-HC 2 380V 5A 10A

NF100-ST/A 1 380V 25A 60A
NF30-SS 6 380V 3A 6A
15
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

Bảng 2.3. Thông số aptomat hạ áp
2.5. Các phần tử đóng cắt, bảo vệ, đo lường liên động
2.5.1. Thiết bị bảo vệ
Các thiết bị bảo vệ khác nhau sẵn sàng bảo vệ máy phát, máy biến áp đường dâyvà thiết
bị tiêu thụ lưới điện.
Mục đích của các thiết bị này là phát hiện sự cố cách ly chúng khỏi lưới một cách chọn lọc và
nhanh chóng sao cho có thể hạn chế được nhiều nhất hậu quả của sự cố. Vì vậy các rơ le bảo
vệ cần phải tác động nhanh với độ tin cậy cao và khả năng sẵn sàng đáp ứng cao nhất có thể
được.
a)Cầu chì
dùng để bảo vệ cho thiết bị điện và lưới điện tránh khỏi dòng điện ngắn mạch. Cầu chảy có
bộ phận chủ yếu là dây chảy. Trị số mà dòng điện mà dây chảy bị chảy đứt được gọi là dòng
điện giới hạn (Igh). Rõ ràng, cần có dòng điện giới hạn lớn hơn dòng điện định mức (Igh
>Iđm) để dây chảy không bị đứt khi làm việc với dòng điện định mức. Thông thường, đối với
dây chảy cầu chì thì: Igh= (1,25÷1,45)Iđm.
Nhược điểm: Khi xảy ra sự cố ngắn mạch, dây chảy đứt, người vận hành phải thay dây chảy
cầu chì do đó ảnh hưởng đến năng suất làm việc của máy
Việc để cho người vận hành thay dây chảy cầu chì là tạo cho người vận hành chấp hành
không đúng dẫn đến làm sai.
Rơ le nhiệt:dùng để bảo vệ các thiết bị điện (động cơ) khỏi bị quá tải
Rơ le nhiệt có dòng điện làm việc tới vài trăm Ampe, ở lưới điện một chiều 440V và xoay
chiều tới 500V, tần số 50Hz.
Trong thực tế sử dụng, dòng điện định mức của rơle nhiệt thường được chọn bằng dòng điện
định mức của động cơ điện cần được bảo vệ quá tải, sau đó chỉnh giá trị của dòng điện tác
động dựa theo công thức 2.2 :

Itđ = (1,2÷1,3) Iđm ( 2.2 )
b)Công tắc
Là khí cụ đóng- cắt bằng tay hoặc bằng tác động cơ khí ở lưới điện hạ áp.
Việc đóng, ngắt các tiếp điểm cũng có thể theo các nguyên tắc cơ khí khác nhau
16
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

Sử dụng công tắc hành trình kiểu gạt có cần gạt với bánh xe ở đầu cần. Khi bị gạt, cần gạt sẽ
gạt sang trái hoặc sang phải và từ đó đóng hoặc ngắt tiếp điểm bên trong công tắc.
c)Nút ấn
Dùng để đóng- cắt mạch ở lưới điện hạ áp. Nút ấn thường được dùng để điều khiển các rơ le,
công tắc tơ, chuyển đổi mạch tín hiệu, bảo vệ... Sử dụng phổ biến nhất là dùng nút ấn trong
mạch điều khiển động cơ để mở máy, dừng và đảo chiều quay.
Nút ấn cũng có kiểu hở và kiểu được bảo vệ kín để chống bụi, nước, chống nổ... và có loại
có cả đèn báo để trạng thái của nút ấn.
d)Aptomat (máy ngắt tự động)
Là khí cụ điện đóng mạch bằng tay và cắt mạch tự động khi có sự cố như: quá tải, ngắn mạch,
sụt áp...
Kết cấu các aptomat rất đa dạng và được chia theo chức năng bảo vệ: aptomat dòng điện cực
đại, aptomat dòng điện cực tiểu, aptomat điện áp thấp...
Aptomat dòng điện cực đại được dùng để bảo vệ mạch điện khi quá tải và ngắn mạch.
Aptomat điện áp thấp dùng để bảo vệ mạch điện khi điện áp tụt thấp không đủ điều kiện làm
việc hoặc khi mất điện áp.
Các aptomat có thể kết hợp nhiều nguyên lý làm việc thành các aptomat vạn năng: vừa bảo vệ
quá dòng hay ngắn mạch, vừa bảo vệ điện áp thấp, vừa bảo vệ quá tải...
e)Các rơle
Rơle là loại khí cụ điện tự động dùng để đóng- cắt mạch điện điều khiển hoặc mạch bảo
vệ để liên kết giữa các khối điều khiển khác nhau, thực hiện các thao tác logic theo một quá
trình công nghệ.
-Rơle điện từ: là loại rơle đơn giản nhất và dùng rộng rãi nhất, làm việc dựa trên nguyên lý

điện từ và về kết cấu nó tương tự như công tắc tơ nhưng chiều đóng- cắt mach điện điệu
khiển, không trực tiếp dùng trong mạch lực...
-Rơ le trung gian: khuyếch đại các tín hiệu điều khiển, nó nằm ở vị trí giữa hai rơle khác nhau.
Số lượng tiếp điểm (tiếp điểm thường đóng, tiếp điểm thường mở, tiếp điểm chuyển đổi có
cực động chung) của rơle trung gian thường nhiều hơn các loại rơle khác.
-Rơle dòng điện: bảo vệ mạch điện khi dòng điện trong mạch vượt quá hay giảm dưới một trị
số nào đó đã được chỉnh định trong rơle.
17
Chương 2.Yêu cầu điều khiển công nghệ trạm trộn bê tông

-Rơle điện áp: bảo vệ các thiết bị điện khi điện áp đặt vào thiết bị tăng quá hoặc giảm quá mức
qui định.Cuộn điện áp được mắc song song với mạch điện của thiết bị điện cần bảo vệ.
Rơle điện áp chia ra 2 loại theo nhiệm vụ bảo vệ:
+ Rơle điện áp cực đại: nắp từ động không quay ở điện áp bình thường. Khi điện áp tăng quá
mức, lực từ thắng lực cản lò xo, nắp từ động sẽ quay và rơle tác động.
+Rơle điện áp cực tiểu: nắp từ động sẽ quay ở điện áp bình thường. Khi điện áp giảm quá
mức, lực lò xo thắng lực từ, nắp từ động sẽ quay ngược và rơle tác động.
-Rơle thời gian: Là loại rơ le tạo trễ đầu ra nghĩa là khi đầu vào có tín hiệu điều khiển thì sau
một khoảng thời gian nào đó đầu ra mới tác động (tiếp điểm rơle mới đóng hoặc mới mở).
Thời gian trễ có thể từ vài phần giây đến hàng giờ hoặc hơn nhiều.
2.5.2. Khóa liên động
Để đảm bảo điều khiển tin cậy các thiết bị đóng cắt cao áp trong mỗi khoang và ở mức
cao hơn trong toàn bộ hệ thống được khoá liên động với nhau.
Các điều khiển khoá liên động phụ thuộc vào cấu hình mạch khoá liên động và trạng thái của
hệ thống ở thời điểm đã cho.
Khoá liên động đặc biệt ngăn ngừa bộ cách li hoạt động trong khi có tải. Các điều kiện khoá
liên động phải được xác định theo sơ đồ trạm.
2.5.3. Thiết bị đo lường
Trong quá trình vận hành đóng cắt cần đo đạc ghi chép và đánh giá nhiều đại lượng như
dòng điện, điện áp, công suất.

Để làm được việc này hệ thống sơ cấp phải có các máy biến dòng, máy biến điện áp
chúng có thể đặt trên thanh góp hoặc các nhánh, tủ điều khiển hoặc bàn điều khiển.
Việc lắp các thiết bị đo lường này nhằm mục đích người vận hành có thể quan sát được
các hiển thị trên tủ điều khiển tại buồng điều khiển tại chỗ hoặc trung tâm điều khiển, trên các
đồng hồ đo như: Đồng hồ đo dòng (Ampemet), đồng hồ đo áp (Volmet)...để tránh các sự cố
xảy ra như hiện tượng quá tải.
18
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

Chương 3
GIỚI THIỆU PLC MITSUBISHI VÀ NGÔN NGỮ
LẬP TRÌNH SFC
3.1 Khái niệm chung
PLC viết tắt của Progammble Logic Control, là thiết bị lập trình được, cho phép thực
hiện linh hoạt các phép toán điều khiển thông qua một ngôn ngữ lập trình. Nó đươc thiết kế
chuyên dụng trong công nghiệp để điều khiển các quá trình từ đơn giản đến phức tạp và tuỳ
thuộc vào người sử dụng mà nó có thể thực hiện hàng loạt các chương trình.
Thiết bị điều khiển logic khả trình PLC hiện nay có ứng dụng rất rộng rãi nó có thể thay
thế được cả một mảng rơle, hơn thế nữa PLC giống như một máy tính nên có thể lập trình
được. Chương trình của PLC có thể thay đổi rất dễ dàng, các chương trình con cũng có thể
sửa đổi nhanh chóng.
Thiết bị điều khiển logic khả trình PLC đáp ứng được hầu hết các yêu cầu và như là yếu
tố chính trong việc nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất trong công nghiệp. Trước đây thì việc
tự động hoá chỉ được áp dụng trong sản xuất hàng loạt năng suất cao. Hiện nay cần thiết phải
tự động hoá cả trong sản xuất nhiều loại khác nhau để nâng cao năng suất và chất lượng.
3.2. Tổng quan về PLC Misubishi họ FX3U
3.2.1. Giới thiệu chung
Kỹ thuật điều khiển khả trình đã phát triển mạnh và chiếm một vị trí rất quan trọng
trong các ngành kinh tế quốc dân, nó không những thay thế cho cơ cấu rơle trước kia mà còn
chiếm lĩnh các chức năng quan trọng khác như tính toán, chẩn đoán kỹ thuật này không những

điều khiển hiệu quả hoạt động của từng máy đơn lẻ mà còn có khả năng nối mạng rất mạnh
trong việc kết nối mạng sản xuất với hiệu quả, mức tin cậy cũng như độ bền rất cao.
Kỹ thuật điều khiển logic khả trình phát triển trên cơ sở công nghệ máy tính và từng
bước phát triển tiếp cận theo nhu cầu phát triển của công nghiệp.
Từ đó bộ điều khiển logic khả trình PLC (Programmable Logic Controllor) ra đời.
Ta có thể tạm định nghĩa PCL là một máy tính công nghiệp có khả năng thực hiện linh
hoạt các thuật toán điều khiển số thông qua một ngôn ngữ lập trình. Thay cho việc phải thể
hiện thuật toán bằng mạch số.
19
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

Với PLC toàn bộ thuật toán chương trình điều khiển được lưu trong bộ nhớ của PLC, dưới
dạng các khối chương trình và được thực hiện theo chu kỳ vòng quét gọi là Scan.
3.2.2. Tìm hiểu PLC Misubishi họ FX3U
a) Họ PLC Mitsubishi FX3U
Dòng FX3U là thế hệ thành công thứ ba của gia đình PLC Mitsubishi Electric cho thị
trường quốc tế. Thiết kế nhỏ gọn, đặc biệt bộ điều khiển với tính năng mới thứ hai đó là "bộ
chuyển đổi Bus" hệ thống, trong đó bổ sung cho hệ thống Bus hiện có được sử dụng để mở
rộng chức năng đặc biệt và bổ sung phát triển module mạng lên mười lần để có thể kết nối
được với bộ chuyển đổi Bus mới này.
Các tăng cường hỗ trợ mạng cũng tăng thêm công suất I / O của mô hình chủ đạo mới, mà bây
giờ có thể được mở rộng tối đa 384 I / O, bao gồm các kết nối mạng.
20
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

Hình 3.1. Giao tiếp PLC Mitsubishi FX3U qua các cổng
21
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

Ngoài ra, FX3U cũng hỗ trợ đầy đủ Profibus / DP cũng như Ethernet, sử dụng giao thức

TCP và UDP, tốc độ cao 0.065μs theo lý thuyết, FX3U đi kèm với một bộ nhớ tiêu chuẩn 64k
bước, nhiều hơn 8 lần so với bộ nhớ của FX2N. Thêm bộ nhớ có nghĩa là người dùng có thể
viết rộng hơn và nhiều hơn nữa các chương trình phức tạp, lưu trữ nhiều dữ liệu hơn trong bộ
nhớ chương trình, hoặc tận dụng lợi thế lớn của việc sử dụng công cụ lập trình IEC 61131-3
phong cách.
- Thông số kỹ thuật của PLC Mitsubishi FX3U
Đặc điểm kĩ thuật FX3U
Cổng vào ra Tối đa 384
Chương trình bộ nhớ 64000 bước RAM
Chương trình thực hiện Thực hiện theo chu kì
Rơle nội bộ 7680
Rơle đặc biệt 512
Rơle chuyển tiếp 4096
Bộ thời gian 512
Bộ đếm 235
Các mức đếm Năm , tháng,tuần, ngày , giờ, giây
Dữ liệu đăng kí 8000
Tập tin đăng kí 32768
Chỉ số đăng kí 16
Đăng kí đặc biệt 512
Số con trỏ 4096
Bảng 3.1. Thông số kỹ thuật của PLC Mitsubishi FX3U
Để có thể thực hiện được một chương trình điều khiển PLC có tính năng như một máy tính,
nghĩa là phải có một bộ vi xử lý (CPU), một hệ điều hành, một bộ nhớ để lưu giữ chương
trình, dữ liệu và tất nhiên phải có cổng vào ra để giao tiếp với thiết bị điều khiển và trao đổi
22
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

thông tin với môi trường xung quanh. Bên cạnh đó, nhằm phục vụ các bài toán điều khiển số,
PLC còn có thêm các khối chức năng đặc biệt như: Bộ đếm, bộ thời gian và những khối hàn

chuyên dụng.
Phần cứng của một bộ điều khiển khả trình PLC được cấu tạo thành những module cho thấy
sơ đồ các modul phần cứng của một bộ PLC.
Một bộ PLC thường có những Module sau:
- Module nguồn (PS)
- Module đơn vị xử lý trung tâm (CPU)
- Module bộ nhớ chương trình
- Module đầu vào
- Module đầu ra
- Module phối ghép
- Module chức năng phụ.
Mỗi Module được ghép thành một đơn vị riêng, có phích cắm nhiều chân để cắm và rút ra dễ
dàng trên một Pannel cơ khí có dạng bảng hoặc hộp. Trên Panel có lắp các đường:
- Đường ray nguồn để dẫn nguồn một chiều lấy từđầu Modul nguồn PS (thường là 24V)
đến cung cấp cho các Module khác.
- Bus liên lạc để trao đổi thông tin giữa các Module với thế giới bên
ngoài.
b) Lập trình cho PLC Mitsubishi
- Định nghĩa chương trình
Chương trình là một chuỗi các lệnh nối tiếp nhau được viết theo một ngôn ngữ mà PLC có
thể hiểu được. Có ba dạng chương trình: Instruction, Ladder và SFC/STL. Không phải tất cả
các công cụ lập trình đề có thể làm việc được cả ba dạng trên. Nói chung bộ lập trình cầm tay
chỉ làm việc được với dạng Instruction trong khi hầu hết các công cụ lập trình đồ họa sẽ làm
việc được ở cả dạng Instruction và Ladder. Các phần mềm chuyên dùng sẽ cho phép làm việc
ở dạng SFC.
23
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

Hình 3.2. Các dạng lập trình cơ bản cho PLC Mitsubishi
- Các thiết bị cơ bản dùng trong lập trình

Có 6 thiết bị lập trình cơ bản. Mỗi thiết bị có công dụng riêng. Để dể dàng xác định thì mỗi
thiết bị được gán cho một kí tự:
X: dùng để chỉ ngõ vào vât lý gắn trực tiếp vào PLC
Y: dùng để chỉ ngõ ra nối trực tiếp từ PLC
T: dùng để xác định thiết bị định thì có trong PLC
C: dùng để xác định thiết bị đếm có trong PLC
M và S: dùng như là các cờ hoạt động bên trong PLC
Tất cả các thiết bị trên được gọi là “Thiết bị bit”, nghĩa là các thiết bị này có 2 trạng thái: ON
hoặc OFF, 1 hoặc 0.
Trong khuôn khổ của đồ án này, em xin được trình bày về 2 ngôn ngữ lập trình mà em đã sử
dụng để lập trình cho PLC Mitsubishi FX3U đó là Ladder và SFC.
3.2.3. Ngôn ngữ lập trình Ladder (ngôn ngữ bậc thang)
Là ngôn ngữ có dạng đồ họa cho phép nhập chương trình có dạng như một sơ đồ mạch
điện logic, dùng các kí hiệu điện để biểu diễn các công tắc logic ngõ vào và rơle logic ngõ ra.
Ngôn ngữ này gần với chúng ta hơn ngôn ngữ Instruction và được xem như là một ngôn ngữ
cấp cao. Phần mềm lập trình sẽ biên dịch các kí hiệu logic trên thành mã máy và lưu vào bộ
nhớ của PLC. Sau đó PLC sẽ thực hiện các tác vụ điều khiển theo logic thể hiện trong chương
trình.
24
Chương 3.Giới thiệu PLC Mitsubishi FX3U và ngôn ngữ lập trình SFC

LD X000
OUT Y000
Hình 3.3. Lệnh LD chỉ khi công tắc thường mở và đường bus trái
(Ngõ ra Y000 đóng khi công tắc X000 đóng hay ngõ vào X000 = 1)
3.2.4. Ngôn ngữ lập trình SFC
a, Điều khiển trình tự và ưu thế nổi bật của ngôn ngữ lập trình SFC
Điều khiển trình tự là một mảng quan trọng và có vai trò không nhỏ trong điều khiển tự
động. Có thể gặp rất nhiều ví dụ về điều khiển trình tự trong công nghiệp, trong dân dụng
cũng như trong nhiều lĩnh vực khác. Các hệ thống trạm trộn, lò phản ứng, một dây chuyền sản

xuất xi măng hay một máy giặt và cụ thể hơn là hệ thống trạm trộn bê tông được trình bày
trong đồ án này là một ví dụ khá điển hình cho điều khiển trình tự. Đặc biệt trong công
nghiệp, điều khiển trình tự thường giữ vai trò chính điều khiển các công đoạn, các quá trình
theo trình tự trong một dây chuyền sản xuất.
Kể từ sau sự xuất hiện của các PLC và các hệ DCS đầu tiên, các ngôn ngữ lập trình điều
khiển như LAD, FBD, IL…đã trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong thực tế. Đây là
những ngôn ngữ lập trình điều khiển mạnh, được hỗ trợ rất hoàn chỉnh trong hầu hết các hệ
thống PLC và DCS hiện nay. Tuy nhiên các ngôn ngữ này lại tỏ ra không phù hợp cho lập
trình điều khiển trình tự bởi những lý do sau:
- Khó hình dung, thiếu trực quan
- Sử dụng các ngôn ngữ lập trình này sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp
- Dễ mắc lỗi, khó phát hiện và sửa lỗi
- Kém linh hoạt, khó mở rộng
Nguyên nhân cơ bản của các khó khăn trên là do bản chất của các ngôn ngữ lập trình này
không phù hợp để mô tả các hệ thống hoạt động theo trình tự. Ngôn ngữ lập trình SFC tỏ ra
rất thích hợp cho điều khiển trình tự.
Ngôn ngữ SFC là sự cụ thể hóa của Grafcet, có tính đến các yếu tố kỹ thuật và chức năng
điều khiển, đã được chuẩn hóa. Ngôn ngữ SFC đã được sử dụng trong một số hệ thống PLC
và DCS hiện nay như các sản phẩm của Siemens, Emerson, Mitsubishi… với những ưu điểm
nổi trội sau:
25

×