Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về thanh niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.7 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên có vị trí rất quan trọng, là lực lượng to lớn trong xã hội. Họ
không chỉ là người chủ của hiện tại mà còn người chủ tương lai của đất nước
theo nghĩa "tre già măng mọc" và sự "chuyển giao thế hệ" trong quá trình phát
triển của đất nước. Chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Những
nhiệm vụ đó đặt ra cho chúng ta nhiều vận hội bên cạnh những thách thức.
Chúng ta cần phải tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức. Đảng ta rất coi trọng
việc phát huy nội lực và coi đây là yếu tố quyết định tới việc phát triển kinh tế xã hội. Và đồng thời cũng khẳng định, coi việc phát huy nguồn lực con người là
trong quá trình phát triển. Trong điều kiện hiện nay, việc bồi dưỡng, phát huy
vai trò của thanh niên trong sự nghiệp phát triển có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta
không nhìn thanh niên ở góc độ kinh tế đơn thuần mà còn thấy ở thanh niên là
lực lượng chính trị - có sứ mệnh cùng với Đảng và nhân dân ta tiến hành thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Khách quan đánh giá có thể thấy, hiện nay, bên cạnh đã có những
chuyển biến tích cực, những điểm tiến bộ cơ bản trong thanh niên, cũng còn một
bộ phận thanh niên chưa xác định rõ trách nhiệm cụ thể của mình đối với đất
nước. Lý tưởng phấn đấu của mình là gì? và để thực hiện lý tưởng đó mình cần
phải có những phẩm chất gì, đôi khi còn có sự mơ hồ. Xã hội hiện nay cũng đã
có sự nhìn nhận khách quan và đúng đắn về vai trò của thanh niên. Song, đôi
lúc, cả về nhận thức và hành động, ở một số cấp ở một số tổ chức chưa có sự
giáo dục đồng bộ đối với thanh niên. Hoặc có khi thiên về yếu tố đạo đức mà
xem nhẹ yếu tố khoa học kỹ thuật, năng lực của thanh niên; hoặc có khi lại quá
đề cao việc giáo dục khoa học kỹ thuật, năng lực và trình độ chuyên môn mà
xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên. Mục tiêu của việc giáo
dục thanh niên như Bác Hồ đã dạy, cần phải hướng đến cả "hồng" và "chuyên".


Như vậy, cũng có nghĩa, thanh niên hiện nay, không những phải có tài năng, giỏi
chuyên môn…mà cần phải sống lành mạnh và sống đẹp. Tất cả những vấn đề


này đang đặt ra và gợi mở cho tác giả lựa chọn đề tài "Luận về mẫu hình người
thanh niên lý tưởng trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta" làm báo cáo
nghiên cứu khoa học. Tác giả đặt ra mục tiêu là giải quyết một cách triệt để mọi
khía cạnh có liên quan đến vấn đề mà chỉ mới gợi mở ra một số vấn đề để có thể
tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.
2. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, một số vấn đề thanh niên, công tác vận động
thanh niên và một số vấn đề về bồi dưỡng, giáo dục thanh niên đã được một số
nhà khoa học, các cơ quan, Viện quan tâm nghiên cứu. Có thể kể ra một số
công trình tiêu biểu sau: "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên" của tác giả Văn Tùng, xuất bản năm 1999; "Tăng cường công tác giáo dục
lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay" do tác giả Dương Tự Đam chủ
biên, xuất bản năm 2003…Ngoài ra, các bài viết nghiên cứu chuyên đề được
đăng trên Tạp chí Thanh niên trong nhiều năm trở lại đây. Nhìn chung, các tác
giả đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thanh niên: như vị trí, vai trò
của thanh niên, quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta về bồi dưỡng, giáo dục thanh niên; thực trạng về giác ngộ lý tưởng cách
mạng của thanh niên hiện nay…Kế thừa những thành quả nghiên cứu của người
đi trước, báo cáo khoa học này mạnh dạn chỉ ra những đặc trưng của mẫu hình
người thanh niên lý tưởng hiện nay ở nước ta trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về
những nhiệm vụ cách mạng của nước ta hiện nay, cũng như quan điểm của Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới - xã hội chủ nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Trên cơ sở nêu lên một số vấn đề lý luận về thanh niên, lý tưởng cách
mạng của thanh niên và mẫu hình người thanh niên lý tưởng, mục đích của đề
tài là chỉ ra những đặc trưng cơ bản của mẫu hình người thanh niên lý tưởng ở

2



nước ta hiện nay; đồng thời, đưa ra một số định hướng, giải pháp góp phần xây
dựng, bồi dưỡng và phát huy mẫu hình người thanh niên lý tưởng trong điều
kiện hiện nay.
- Để thực hiện được mục đích trên, đề tài phải giải quyết những nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, khái lược một số vấn đề về thanh niên, lý tưởng cách mạng của
thanh niên và mẫu hình người thanh niên lý tưởng;
Thứ hai, trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể, chỉ ra những đặc trưng của
mẫu hình người thanh niên lý tưởng trong giai đoạn hiện nay ở nước ta;
Thứ ba, bước đầu đưa ra một số định hướng, giải pháp góp phần xây
dựng, bồi dưỡng và phát huy mẫu hình người thanh niên lý tưởng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về thanh niên.
- Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, cụ thể hoá…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khao, báo cáo
gồm có 03 chương, 07 tiết.

3


CHƯƠNG I: KHÁI LUẬN VỀ THANH NIÊN, LÝ TƯỞNG CỦA
THANH NIÊN VÀ MẪU HÌNH NGƯỜI THANH NIÊN LÝ TƯỞNG
1. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là một khái niệm được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau. Nó là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau. Tuỳ theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà
người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn xác

định trong quá trình tiến hoá của cơ thể, trong đó thấy rõ sự cường tráng về thể
lực, sự phát triển về trí tuệ, sự trưởng thành về sinh dục, tính dục.
Các nhà tâm lý học lại thường nhìn nhận thanh niên gắn với những quy
luật biến đổi, phát triển tâm lý lứa tuổi và thế hệ như sự phát triển khả năng phân
tích và suy luận, ham thích cái mới, sự hăng say hoạt động và sáng tạo, sự tự
khẳng định, tự ý thức.
Các nhà xã hội học lại xem thanh niên là một giai đoạn xã hội hoá cá
nhân, giai đoạn tiếp thu các giá trị xã hội để hình thành nhân cách; là thời kỳ
chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang giai đoạn xác lập vai trò cá nhân qua các
hoạt động độc lập, từng bước hình thành ý thức trách nhiệm công dân, chuẩn bị
và tự nâng cao kiến thức để lao động, cống hiến.
Dưới góc độ kinh tế học, thanh niên chủ yếu được nhìn nhận là lực lượng
lao động xã hội hùng hậu, là nguồn lực thường xuyên bổ sung cho đội ngũ lao
động trên mọi lĩnh vực, là bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất, rất
năng động, nhạy cảm, gắn bó với tiến trình phát triển xã hội với tư cách là lớp
người xung kích, đi đầu trong cuộc đấu tranh sáng tạo ra xã hội mới.
Với triết gia, văn nghệ sĩ, thanh niên được định nghĩa bằng cách so sánh
hình tượng "thanh niên là mùa xuân của nhân loại", là "bình minh của cuộc đời".
Theo tiến sỹ Phạm Đình Nghiệp, "Thanh niên được hiểu là một nhóm
nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi từ 14, 15 đến trên dưới 30 tuổi, gắn với mọi

4


giai cấp, mọi tầng lớp xã hội và có mặt trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội".
Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, truyền
thống… mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh niên khác nhau. Nhưng hầu
hết các nước trên thế giới đều thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ 14 hoặc 15.
Còn thanh niên kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước quy định là 25

tuổi, có nước quy định là 30 và cũng có nước cho đó là tuổi 40. Nhưng xu thế
xung là nâng dần giới hạn kết thúc của tuổi thanh niên.
Liên Hợp Quốc định nghĩa, "Thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi"
chủ yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã
hội so với các nhóm lứa tuổi khác.
Ở Việt Nam có một thời gian khá dài tuổi thanh niên được hiểu gần như
đồng nhất với tuổi đoàn viên (15 - 28 tuổi). Ngày nay, do điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của thanh niên dài
thêm, cùng với nhiều đặc điểm khác nhau mà chúng ta cho rằng thanh niên là
những người trong độ tuổi từ 15 đến 35 là phù hợp. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ
tuổi đoàn viên với tuổi thanh niên. Đoàn viên là những thanh niên ưu tú trong độ
tuổi 15 - 28. Từ những quan niệm khi tiếp cận thanh niên, chúng ta có thể rút ra
những đặc điểm về tâm sinh lý của thanh niên.
Về mặt sinh lý, lứa tuổi thanh niên là một cấp độ phát triển hoàn thiện về
thể chất. Đó là sự phát triển mạnh về chiều cao, cân nặng, sự hoàn thiện về hệ
xương, hệ cơ, hệ tuần hoàn, hệ thần kinh cũng như các chức năng sinh lý khác.
Bộ não và hệ thần kinh mới và khoẻ tạo cho họ khả năng và điều kiện tiếp nhận
lượng thông tin mới, dễ nhớ; đồng thời, là cơ sở cho trạng thái tinh thần hăng
hái, sôi nổi nhiệt tình.
Về mặt tâm lý, tuổi thanh niên thích cái mới, ưa cách tân, mong muốn đổi
đời. Họ có nhu cầu tìm hiểu, muốn cắt nghĩa mọi hiện tượng khách quan, thích
khám phá, sáng tạo, giàu trí tưởng tượng, có hoài bão, giàu mơ ước, trong sáng,

5


vô tư, dám mạo hiểm, thích sự tích anh hùng, hay lý tưởng hoá và luôn hướng về
tương lai. "Có nhu cầu tình bạn, dễ kết bạn, thích hoạt động tập thể, xã thân vì
bạn, công bằng, ghét bất công". Tuy nhiên, do thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm
sống, hay thần tượng hoá, bốc đồng, nên thanh niên cũng dễ sa vào các trạng

thái cực đoan, thực dụng, tự do vô chính phủ, dễ bị mua chuộc, lôi kéo, lợi dụng,
kích động; dễ sa vào các tệ nạn xã hội.
Bên cạnh những đặc điểm về mặt tâm sinh lý của lứa tuổi thanh niên, điều
quan trọng khi tiếp cận thanh niên là cần phải xem xét nó dưới góc độ xã hội.
Các Mác nói: "Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội". Về tính xã hội
của thanh niên sẽ được người viết đề cập ở phần sau.
2. Lý tưởng của thanh niên và mẫu hình người thanh niên lý tưởng
2.1. Khái niệm về lý tưởng
Theo từ điển tiếng Việt, lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà
người ta phải phấn đấu để đạt tới. Lý tưởng là khái niệm được các nhà nghiên
cứu xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở đây chúng ta tiếp cận vấn đề dưới
góc độ triết học và tâm lý - giáo dục học.
Theo từ điển Triết học, lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan một
cách đặc thù vào ý thức con người hoặc một nhóm xã hội nào đó dưới dạng một
mô hình, hình mẫu hoàn thiện. Bởi vậy, nội dung của lý tưởng được quy định
bởi các quan hệ xã hội thống trị và những đặc điểm tinh thần, tâm lý của nhân
cách.
Dưới góc độ tâm lý học, lý tưởng được xem xét là một bộ phận hợp thành
quan trọng của xu hướng nhân cách cùng với nhu cầu, hứng thú, thế giới quan
và niềm tin…Vì thế, lý tưởng là một mục tiêu cao đẹp của hình ảnh mẫu mực
tương đối hoàn chỉnh có sức lôi cuốn con người vươn tới nó.
Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Hình ảnh lý tưởng
được xây từ những chất liệu vốn có trong hiện thực. Đó là tính hiện thực của lý
tưởng. Đồng thời, lý tưởng còn có tính lãng mạn. Bởi vì, mục tiêu của nó là cái

6


gì đó có thể đạt được trong tương lai. Trong một chừng mực nào đó, nó đi trước
cuộc sống và phản ánh xu thế phát triển hợp quy luật của con người, nhóm xã

hội, toàn xã hội. Có thể nói, tại một thời điểm xác định, con người chỉ có khả
năng tiếp cận tới lý tưởng (cũng như tiếp cận tới chân lý) chứ không thể đạt tới
một cách tuyệt đối.
Lý tưởng còn mang tính xã hội do chỗ con người không ai có thể vượt qua
khỏi thời đại của mình. Hoạt động của họ diễn ra trong những điều kiện cụ thể
của một xã hội cụ thể. Sống và lao động trong xã hội đó, họ thường xuyên phân
tích, đánh giá, chọn lọc và khái quát hoá thực tại để đi đến xây dựng cho bản
thân mình một hình ảnh hoàn hảo, mẫu mực làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của mình. Mặc dù, lý tưởng là một bộ phận cấu thành của ý thức con người
nhưng sự tồn tại của nó đối với mỗi con người là một hiện tượng khách quan.
Đối với mỗi con người cụ thể, các hình mẫu hoàn thiện là có thể khác nhau
nhưng đã là con người thì ai cũng phải có lý tưởng riêng của mình.
Lý tưởng vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là động lực
thôi thúc con người hành động. Sức hấp dẫn của nó rất khó diễn tả. Có người đã
sử dụng thuật ngữ "say lý tưởng". Nếu thiếu lý tưởng, con người sẽ cảm thấy
mất phương hướng, cuộc đời trở nên vô vị, nhạt nhẽo. Chính lý tưởng khơi dậy
sự nỗ lực nhận thức, sự nồng nhiệt tình cảm, quyết tâm của ý chí và quyết tâm
trong hành động, giúp con người vươn tới mục tiêu cao cả nào đó, bất chấp gian
khổ hy sinh. Như vậy, trong lý tưởng đã có sự thống nhất giữa tình cảm, ý chí,
hành động. Nhờ đó, nó vừa có tác dụng như chiếc đèn định hướng, vừa như một
động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người hành động một cách sáng tạo và có kết
quả để đạt tới mục đích mà mình đã ấp ủ, lựa chọn, tôn thờ.
Tóm lại, thực chất của lý tưởng là phạm trù của ý thức xã hội, phản ánh
hiện thực khách quan dưới dạng một mô hình, một hình mẫu hoàn thiện, vừa là
mục tiêu cao cả, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người hành động.

7


2.2. Lý tưởng cách mạng của thanh niên và mẫu hình người thanh

niên lý tưởng.
Lý tưởng cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến trong hệ thống
tư tưởng của Người về chăm lo sự nghiệp "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau". Đạo đức cách mạng, chí khí cách mạng, đường cách mạng, Đảng cách
mạng, cán bộ cách mạng, tư cách người cách mạng, công tác cách mạng là
những phạm trù được Hồ Chí Minh dùng trong các bài nói, bài viết của mình.
Xét về mặt cấu trúc, người ta chia lý tưởng cách mạng theo các cách khác
nhau, nhưng thông thường, người ta chia theo các cách sau:
Cách thứ nhất, lý tưởng cách mạng bao gồm lý tưởng xã hội và lý tưởng
cá nhân. Theo các tác giả đề tài "Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên",
lý tưởng cách mạng được hiểu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo đó,
ta thấy, nếu như trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lý tưởng của thanh
niên là "không có gì quý hơn độc lập tự do" và hướng tới một xã hội ấm no hạnh
phúc, thì ngày nay, lý tưởng ấy được cụ thể hoá là "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Dưới góc độ lý tưởng cá nhân, chúng ta có thể hiểu đó chính là mô hình
nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa. Với xuất phát điểm từ quan
điểm của Hồ Chủ tịch: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa". Trong những con người đó có sự thống nhất giữa đạo
đức cách mạng và tri thức cách mạng. Họ vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của
quá trình xây dựng xã hội mới. Nói một cách khái quát đó là "con người phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng
về đạo đức".
Dưới góc độ khác, người ta phân loại lý tưởng cách mạng thành bốn loại:
lý tưởng chính trị xã hội, lý tưởng đạo đức, lý tưởng nghề nghiệp và lý tưởng
thẩm mỹ.

8



Lý tưởng chính trị xã hội là những quan điểm về một xã hội có tổ chức
cao nhất của những người lao động tự do bình đẳng và tự giác, của những người
làm chủ bản thân, tự nhiên và xã hội.
Lý tưởng đạo đức là hình ảnh về một nhân cách hoàn thiện với những
phẩm chất cao quý nhất như: "chủ nghĩa tập thể, tinh thần tương trợ đồng chí,
chủ nghĩa quốc tế, lòng yêu nước, ý thức cao cả về nghĩa vụ xã hội, lòng chân
thật, tính khiêm tốn…".
Lý tưởng nghề nghiệp là hướng tới nghề nghiệp hoàn toàn phù hợp với
năng lực, sở trường của bản thân, được xã hội coi trọng, có lợi cho bản thân, gia
đình và xã hội.
Lý tưởng thẩm mỹ là những quan điểm về cái đẹp, cái hoàn thiện mà cơ
sở của nó là những tư tưởng của sự phát triển toàn diện những năng lực sáng tạo
của mỗi con người, là sự kết hợp hài hoà giữa sự phong phú về tinh thần và
trong sáng về đạo đức, thể chất.
Lý tưởng cách mạng có các chức năng sau đây:
Thứ nhất, với tư cách là "hình chiếu tinh thần" của hiện tại vào tương lai,
lý tưởng quyết định những mục tiêu mà mỗi người đặt ra cho mình;
Thứ hai, khi được xét như là quan niệm về cái hoàn thiện được hình thành
trong mỗi cá nhân thì lý tưởng được xem như là tiêu chuẩn, là thước đo để cá
nhân có thể tự đánh giá bản thân mình;
Thứ ba, lý tưởng cách mạng không chỉ là một hiện tượng của ý thức thuần
tuý mà trở thành một động lực thực sự của hoạt động tinh thần và hoạt động
thực tiễn cụ thể của con người hướng tới việc hiện thực hoá lý tưởng đó. Bởi vì,
lý tưởng cách mạng đã chứa đựng tính chân lý khách quan trong bản thân nó.
Trên cơ sở làm rõ khái niệm, cấu trúc, chức năng của lý tưởng, chúng ta
tìm hiểu lý tưởng cách mạng của thanh niên.
Cuộc sống luôn đặt ra cho mỗi người, nhất là đặt ra cho lớp trẻ nhiều câu
hỏi phải giải đáp. Một trong những câu hỏi lớn nhất là mục đích sống, nói một


9


cách dễ hiểu và gần gũi hơn là sống để làm gì? Hoặc nói một cách cách biến như
hiện nay: lý tưởng mà thanh niên đang phấn đấu là gì?
Về điểm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên nhủ thanh niên: "…Chúng ta
không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ
quốc ta hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất
nước ta…". Thật vậy, lý tưởng gắn bó với thanh niên như ánh sáng mặt trời với
cuộc sống như chính sự đòi hỏi tự thân. Nó có vai trò quan trọng và quyết định
đối với tuổi trẻ. Trước hết, tuỳ vào lứa tuổi, thanh niên bao giờ cũng sống với
những ước mơ, hoài bão, bao giờ cũng mang trong mình tâm lý hướng tới cái
cao đẹp và họ luôn cần đến một điểm tựa tinh thần để giúp mình vượt qua những
khó khăn, thử thách. Điều mà thanh niên sợ nhất như Kalinin - nhà giáo lớn của
nước Nga đã nói là sự "trống rỗng trong tâm hồn, sự hẫng hụt trong định
hướng". Ngay từ tuổi thiếu niên, lúc đang còn sống trong vòng tay của gia đình
cho đến khi bước đến trường tiếp nhận những kiến thức về xã hội, nhân văn,
khoa học kỹ thuật…lớp trẻ đã phải trả lời câu hỏi: học để làm gì? Một câu trả lời
tuởng chừng như đơn giản những mỗi lúc, mỗi thời kỳ lại có cách trả lời không
giống nhau. Trong chế độ cũ, cha mẹ khuyên con cái học để ra làm quan, học để
không phải chân lấm tay bùn, để mưu lợi cho bản thân và gia đình…, chung quy
lại là vì lợi ích cá nhân. Đó cũng là một mục đích sống hẹp hòi, ích kỷ mà thực
dân phong kiến đã gieo cho thanh niên như trong thư gửi cho thanh niên Bác Hồ
đã đề cập. Kỷ nguyên mới, thời đại mới mở ra cho thanh niên chân trời mới. Vì
vậy, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong
cuộc nói chuyện với các cháu học sinh ba trường: Nguyễn Trãi, Chu Văn An,
Trưng Vương ngày 18 tháng 12 năm 1954, Bác Hồ lại đặt câu hỏi: học để phục
vụ ai? Rồi Người trả lời: "…Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm
cho dân giàu, nước mạnh…". Đây cũng là lý tưởng phấn đấu của thanh niên ta
trong điều kiện mới. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh mà trong trong hơn 15 đổi

mới đất nước vừa qua được nói tới, được đặt thành trách nhiệm cho từng thành

10


viên trong xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho thanh niên ta
cách đây gần nữa thế kỷ.
Trong đêm đen nô lệ, khát vọng của các thế hệ thanh niên lớp trước là độc
lập, tự do, vì vậy, Bác kêu gọi và tổ chức thanh niên: "Phấn đấu cho Tổ quốc
hoàn toàn độc lập". Có độc lập, tự do rồi Bác lại mong mỏi hằng ngày, hằng
giờ: "Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Chủ nghĩa xã hội
được Bác nêu lên trong khái niệm hạnh phúc, tiến bộ thì ai cũng hiểu được và
cũng mong muốn như Bác. Đối với thanh niên, đây là bài học vỡ lòng trên bước
đường vào đời.
Đất nước đã trãi qua 30 năm chiến tranh, do đó, lý tưởng độc lập, tự do
đòi hỏi sự hy sinh xương máu của nhiều thế hệ trẻ tuổi. Trong quá trình vận
động lớp lớp thanh niên đánh giặc, chúng ta có nhiều phong trào lớn như: "Tòng
quân giết giặc cứu nước", "Ba sẵn sàng", "Năm xung phong"…để thực hiện lý
tưởng độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Đối với sự nghiệp xây dựng Tổ quốc
có những phong trào như: Lao động kiến thiết đất nước…
Giờ đây, lẽ sống vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh đã và đang đi vào cuộc sống của thanh niên qua con đường lập thân, lập
nghiệp, cống hiến cho Tổ quốc. Nói cách khác, đây chính là lý tưởng phấn đấu
không chỉ trước mắt mà còn rất lâu dài. Bởi lẽ, dân giàu, nước mạng, công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là công việc của nhiều thế hệ, trong đó, mỗi
thế hệ lại có mục tiêu cụ thể của mình.
Từ việc phân tích một số khía cạnh nói trên, chúng ta tạm đưa ra quan
niệm về mẫu hình người thanh niên lý tưởng như sau: Mẫu hình người thanh
niên lý tưởng là mô hình về lớp thanh niên với những đặc trưng phù hợp với một
giai đoạn lịch sử nhất định; đây là sự mẫu mực cho sự định hướng hành động và

giá trị của thế hệ trẻ. Vì vậy, mẫu hình đó mang tính định hướng và tính lịch sử
xã hội. Mỗi quốc gia, mỗi thời đại và giai đoạn lịch sử có những mẫu hình
người thanh niên lý tưởng phù hợp.

11


3. Vai trò, vị trí và trách nhiệm lịch sử của thanh niên
Thanh niên là một bộ phận của xã hội, là một lớp người trẻ tuổi có sự phát
triển mạnh về trí tuệ và nhân cách, có những nét độc đáo riêng. Thanh niên có
vai trò, vị trí to lớn trong đời sống xã hội và trong cách mạng.
Sinh thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt quan tâm
đến thanh niên, đánh giá cao vị trí và vai trò của họ đối với sự nghiệp cách
mạng. Các Mác gọi thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc. Đấu tranh cho
giai cấp công nhân, theo Mác chính là đấu tranh cho hiện tại và tương lai của
dân tộc, chính là đấu tranh vì quyền lợi trẻ em và thanh niên.
Ph.Ăngghen cho rằng, thanh niên không thể đứng ngoài chính trị; đồng
thời, thấy rõ được ý nghĩa dũng khí của tuổi trẻ trong cuộc sống, trong hoạt động
cách mạng. Ông nhấn mạnh: thanh niên thế hệ ông không bao giờ thoả mãn với
lý tưởng trước đây của đời sống Đức, muốn tự do hơn trong hành động, khát
khao lập công, vì sự đổi mới sẵn sàng hiến dâng cả đời mình. Ngay từ năm
1844, trong "Bút ký phê phán bài báo của Pôraxắc", Các Mác đã sử dụng thuật
ngữ "thế hệ đang lên" của giai cấp vô sản. Như vậy, Các Mác và Ăngghen đã
gắn liền tuơng lai của nước mình và các nước khác với thanh niên.
Còn Lênin là người đã nhiều lần nhận xét: "Thanh niên chính là nguồn
sinh lực của cách mạng". Ông cho rằng, thế hệ đang lên của giai cấp vô sản,
những sinh viên, học sinh tiên tiến - là một bộ phận quan trọng của tri thức trẻ,
là người bạn đồng minh đáng tin cậy của giai cấp công nhân. Ông nhấn mạnh
vai trò to lớn của những chiến sỹ trẻ trong cuộc đấu tranh giai cấp của những
người lao động chống lại bọn bóc lột. Ông cho rằng, thế hệ trẻ phải là những

người có quan điểm giai cấp nghiêm ngặt trong việc đánh giá tất cả hiện tượng,
những sự kiện, những hành vi của từng cá nhân riêng lẻ, cần phải trở thành con
người của chủ nghĩa quốc tế vô sản không phải bằng lời nói mà là hành động.
Quán triệt luận điểm của Các Mác và Lênin, Hồ Chí Minh từ thực tiễn
lãnh đạo cách mạng của mình luôn đề cao vai trò xã hội của thanh niên Việt

12


Nam. Người nêu lên tư tưởng muốn "hồi sinh dân tộc" thì trước hết phải "hồi
sinh thanh niên", "thức tỉnh thanh niên để đi tới thức tỉnh dân tộc". Trong Bản
án chế độ thực dân Pháp, Người đã kêu gọi "Đông Dương đáng thương hại!
Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của người không sớm hồi sinh".
Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở thanh niên một lực lượng trẻ, khoẻ, dám nghỉ, dám
làm, năng động, nhiệt tình, sáng tạo, giàu ý chí, nghị lực và hoài bão, ước mơ;
thanh niên là đội quân chủ lực của cách mạng, là "người tiếp sức cách mạng cho
thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên
tương lai". Thanh niên là lớp người "xung phong trong công tác phát triển kinh
tế, văn hoá, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; thanh niên là lực lượng
cơ bản trong bộ đội, công an, dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an,
bảo vệ Tổ quốc và "trong mọi việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu đâu
cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên làm". Người còn cho rằng, thanh
niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng
nô lệ, dân tộc được giải phóng thanh niên mới được tự do. Vì vậy, trách nhiệm
xã hội của thanh niên là phải hăng hái tham gia vào cuộc đấu tranh của dân tộc.
Là người chủ tương lai của nước nhà, nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi
nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà.
Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà. Mình phải làm thế nào cho ích
nước lợi nhà nhiều hơn.
Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh về

vai trò và vị trí của thanh niên, trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn coi
thanh niên là lực lượng đi đầu trong mọi nhiệm vụ của dân tộc. Trong điều kiện
hiện nay, trách nhiệm lịch sử của thanh niên càng nặng nề. Đồng chí Lê Đức
Anh đã nói rằng, "Thanh niên là người chủ sung sức nhất, lâu dài nhất của đất
nước. Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện cho thanh niên thực hiện thiên chức
của mình là sáng tạo và cái mới". "Sự nghiệp đổi mới cần phải làm nhanh, làm
ngay mà chỉ có thanh niên mới có khả năng chay đua với thời gian" (Nguyễn

13


Đức Bình). Tại phiên họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng ta nhận định "Thanh niên có phát triển dân tộc mới trường tồn".
Xuất phát từ đó, trách nhiệm lịch sử của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ cách
mạng mới được xác định như sau: công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ vô
cùng khó khăn to lớn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nêu cao tinh
thần độc lập, tự chủ, ý thức tự cường, ý thức cần kiệm, nắm bắt thời cơ, vận hội
vượt qua khó khăn thử thách để thực hiện cho bẳng được.
Bác Hồ đã nói: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà". Thật
vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần là do các thanh niên. Thực
hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước không phải là nhiệm vụ trong vài
năm mà đòi hỏi một thời gian khá dài. Vì thế, thanh niên là lực lượng có ý nghĩa
quan trọng đối với thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ trước tới nay, thanh niên luôn là lực lượng xung kích của kháng chiến
cứu nước cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ mới,
đất nước cần có đội ngũ đông đảo những người có đức, có tài đủ khả năng thực
hiện công nghiệp, hiện đại hoá. Đó là đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn trẻ, khoẻ với trình độ cao, những nhà
quản lý kinh doanh giỏi, am hiểu nhiều lĩnh vực, những người hoạt động văn
hoá nghệ thuật, thể dục thể thao xuất sắc, đội ngũ đông đảo công nhân lành nghề

đủ khă năng để tiếp nhận công nghệ tiên tiến trong những ngành nghề mới, hiện
đại…Lực lượng này là nguồn lực trẻ để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
Vai trò và trách nhiệm lịch sử của thanh niên trong giai đoạn phát triển
mới của đất nước là đi đầu xung kích và sáng tạo thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

14


CHƯƠNG 2: MẪU HÌNH NGƯỜI THANH NIÊN LÝ TƯỞNG TRONG
GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1. Điều kiện khách quan, chủ quan và yêu cầu của việc xác định, xây
dựng và bồi dưỡng mẫu hình người thanh niên lý tưởng.
1.1 Điều kiện khách quan
Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, nhân dân ta đã trải qua biết bao
khó khăn, thử thách, đổ bao nhiêu mồ hôi và xương máu để giành được độc lập
tự do. Giờ đây, dân tộc đã độc lập, nhiệm vụ xây dựng nước Việt Nam giàu
mạnh để "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" cũng trở thành
nhiệm vụ khó khăn không kém. Chỉ có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
mới bảo đảm thực hiện được mục tiêu đó. Giành độc lập dân tộc đích cuối cùng
cũng nhằm thực hiện được mục tiêu chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội là cơ sở để giữ vững những thành quả cách mạng. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh
tế - xã hội mà điểm mấu chốt là đổi mới tư duy kinh tế. Chúng ta đã và đang
từng bước xoá bỏ những dấu tích của cơ chế quản lý quan liêu bảo cấp và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi lên từ một nền kinh
tế còn nghèo nàn, lạc hậu, có thể nói, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và cực kỳ có ý nghĩa.
Đường lối ấy đã tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị tham gia vào sự nghiệp

phát triển chung; phát huy được động lực mạnh mẽ để phát triển lực lượng sản
xuất. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi
mới và đến Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta chỉ rõ: "Nước ta đã thoát
khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo được tích luỹ nội bộ nền kinh tế và đủ
điều kiện bước vào thời kỳ mới: thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước".
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất

15


và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ ấy, nhất
thiết phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tức là chuyển từ nền nông
nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại, văn minh.
Thực chất của công nghiệp hoá - hiện đại hoá là chuyển toàn bộ nền sản
xuất xã hội từ lao động thủ công là chính sang lao động với phương tiện và
phương pháp tiến có năng suất cao. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế
quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, chúng ta phải xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Theo đó, đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế xã hội không lệ thuộc vào những điều kiện kinh tế, chính trị do người khác áp
đặt; đồng thời, chúng ta phải từng bước có một nền kinh tế đủ mạnh. Đảng ta coi
công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học
và công nghệ đã làm cho khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá được bổ
sung thêm những nội dung mới. Những tiến bộ của khoa học công nghệ ngày
nay sẽ có lúc trở nên lạc hậu, do đó, yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá
càng được đặt ra cấp bách hơn.
Mục tiêu tổng quát từ nay đến 2020 được Đảng ta xác định: xây dựng nền
kinh tế xã hội nước ta đạt trình độ một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
thể hiện ở nội dung cụ thể sau:

Yêu cầu về phát triển lực lượng sản xuất phải đạt trình độ tương đối hiện
đại được thể hiện ở sự chuyển đổi sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp mà đặc trưng là chuyển đổi cơ cấu trong GDP.
Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm 90% GDP, nông nghiệp
chiếm 10%. Tỷ trọng lao động trong công nghiệp và phi nông nghiệp tăng cao
và chiếm 70 - 75% lực lượng lao động trong toàn xã hội. Số người lao động có
đào tạo và cán bộ khoa học kỹ thuật phát triển lên nhiều lần: có 70 cán bộ khoa
học kỹ thuật/ 1 vạn dân. Đầu tư cho công tác nghiên cứu chiếm 4% GDP. Tiến

16


bộ khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định tăng năng suất lao động. Tốc độ
đổi mới công nghệ phải đạt 15 - 20%.
Hoàn thành về cơ bản cơ giới hoá, hiện đại hoá, áp dụng rộng rãi công
nghệ sinh học trong nền kinh tế xã hội. Nền sản xuất đạt tỷ trọng tích luỹ cao
một cách bền vững. Tỷ trọng tích luỹ trong GDP khoảng 30%, tỷ trọng đầu tư so
với GDP đạt 35%.
Xây dựng quan hệ xã hội mới phải là chế độ sở hữu, quản lý và phân phối
gắn chặt với nhau, thực hiện công bằng xã hội tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy
phát triển kinh tế, phát huy tối đa các nguồn lực. Nền kinh tế nhiều thành phần
được củng cố vững chắc và ngày càng hoàn thiện theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể trở
thành nền tảng, các thành phần kinh tế khác tồn tại phổ biến hoạt động theo
pháp luật và phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc phát triển đất nước.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quan hệ xã hội lành
mạnh, thực hiện công bằng xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
phong phú hơn. GDP bình quân đầu người đạt 5000 - 6000 USD; mức ăn bình
quân cho mỗi người 2800 - 3000kalo. Thời gian làm việc rút ngắn còn 5 ngày/
tuần, phổ cập giáo dục THCS trong độ tuổi ở thành thị và một bộ phận nông

thôn đạt phổ cập cấp III. Thoe các chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam
thuộc diện một trong 50 nước phía trên thế giới.
Như cầu về nhà ở, phương tiện đi lại, điện nước, dịch vụ thông tin được
đáp ứng tốt bằng mức trung bình tiên tiến trên thế giới. Tuổi thọ trung bình 70 72.
Cánh cửa của thế kỷ XXI rộng mở đã đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề có
tầm vóc và quy mô lớn. Bối cảnh tình hình thế giới và trong khu vực có nhiều
biến động phức tạp. Bên cạnh những thuận lợi cũng có những khó khăn, thách
thức. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão với những
bước tiến nhảy vọt đã cung cấp cho nhân loại ngày càng nhiều sản phẩm vật chất

17


và tinh thần. Cũng từ đó, một khái niệm mới và cũng là một biểu hiện rõ nét đó
là Nền kinh tế tri thức hay Nền kinh tế dựa vào tri thức. Trong bối cảnh đó, mỗi
quốc gia, trong đó có nước ta muốn phát triển ngang tầm với thời đại, cần phải
chú trọng xây dựng một xã hội học tập. Bên cạnh đó, toàn cầu hoá và hội nhập
khu vực và quốc tế cũng đã trở thành mộtãu thế khách quan. Sự cạnh tranh về
kinh tế, thương mại, khoa học - công nghệ giữa các quốc gia, khu vực diễn ra
quyết liệt. Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt đó, kinh tế tri thức dựa trên nền tảng
trí tuệ, khoa học có vai trò ngày càng quan trọng, nếu không muốn nói là yếu tố
quyết định để giành thắng lợi cho mỗi quốc gia. Để bắt nhịp với xu thế đó,
chúng ta phải phát huy nhân tố nội lực và coi đó là nhân tố quyết định. Đặc biệt
sự phát triển nhanh và mạnh của các quốc gia trên thế giới và trong khu vực đặt
nước ta trong thế cạnh tranh gay gắt và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế của
nước ta với các nước này càng trở nên rõ nét hơn.
Như vậy, thanh niên sống, lao động, học tập, rèn luyện trong bối cảnh đặc
thù hết sức sinh động của những năm giao thời giữa hai thời kỳ với nhiều thuận
lợi rất cơ bản những cũng không ít khó khăn, thách thức mang tính thời đại.
Hiển nhiên, thực tế của đời sống kinh tế xã hội trong nước và những thay đổi to

lớn của bối cảnh thế giới cũng đặt ra cho thanh niên những trọng trách lịch sử
nặng nề hơn.
1.2. Nhân tố chủ quan
Trước các thời kỳ trước đây, nhìn chung, nước ta còn nghèo, do đó, chưa
có nhiều điều kiện để đáp ứng tốt những nhu cầu về học tập, việc làm, nhà ở của
nhân dân nói chung, thanh niên nói riêng. Đặc biệt trong thời kỳ bao cấp, với
thanh niên, họ ít có điều kiện để mở rộng hiểu biết và tăng cường giao lưu với
thế giới bên ngoài. Họ bị bó hẹp sau luỹ tre làng và ít có điều kiện để đi ra khỏi
cổng làng.
Có một vấn đề cần lưu ý đó là, mặc dù đôi lúc, một số người thường chưa
có quan điểm khách quan và khoa học khi đánh giá về thanh niên. Chẳng hạn,

18


cho "thanh niên chỉ có vai trò tích cực và quan trọng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân, đế quốc!" hay lại có cách đánh giá phiến diện khác là thường
nhìn vào một bộ phận thanh niên sống chưa lành mạnh, mắc các tệ nạn xã hội…
để đi đến một kết luận, "thanh niên ngày nay hư hỏng hết"! Nhưng, nhìn chung,
càng ngày xã hội càng đánh giá cao vị trí và vai trò của thanh niên, hiểu hết và
ghi nhận những thành quả do thanh niên làm ra. Đảng, Nhà nước và các tổ chức
trong khác trong hệ thống chính trị, cũng như xã hội luôn luôn đánh giá cao vai
trò và vị trí của thanh niên trong cách mạng xã hội chủ nghĩa một cách khách
quan và khoa học; đồng thời, luôn tạo điều kiện để thanh niên phát huy tài năng,
trí tuệ, sức sáng tạo của mình.
Sống, học tập, lao động trong điều kiện đất nước hoà bình và được cả xã
hội quan tâm, chăm sóc, ngày nay, thanh niên được tự do lựa chọn nghề nghiệp
và có sự độc lập và chủ động trong việc nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của
mình để làm việc hiệu quả, hay nói rộng ra ra làm được nhiều việc hữu ích hơn
cho bản thân, gia đình và xã hội.

Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thu đạt
được những thành tựu to lớn đã tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thanh
niên "lãnh nhận" sức mạnh do xã hội tạo ra để đến một lúc nào đó, họ trưởng
thành và "dâng hiến" những yếu tố lợi thế để chấn hưng đất nước. Công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước đồng thời, cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn
bao giờ hết để phát huy tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo, nhạy bén của thanh niên.
Mặt khác, cũng do đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đã tạo
nên những đòi hỏi khách quan đối với thanh niên để thanh niên đáp ứng tốt
những yêu cầu đó. Cũng cần phải nói thêm rằng, chính sự phát triển nhanh của
khoa học - công nghệ và nền kinh tế tri thức là cơ hội để tuổi trẻ thể hiện tài
năng, đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Việc mở rộng hợp tác và đẩy mạnh giao
lưu trên nhiều lĩnh vực của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới,
với mạng toàn cầu (INTERNET), cũng tạo ra môi trường thuận lợi (mà những

19


yếu tố này không có hoặc ít phổ biến trong những giai đoạn phát triển trước đây
ở nước ta) để tuổi trẻ tiếp cận nhanh với nhiều tiến bộ khoa học, tri thức cũng
như những tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm có thể đi tắt đón đầu ở một số lĩnh
vực và là cơ hội như Lênin đã nói: "Làm giàu sự hiểu biết của mình bằng tất sự
hiểu biết của nhân loại đã đạt được". Tuy nhiên, khó khăn đặt ra là phải định
hướng hoặc nâng cao khả năng làm chủ của thanh niên trong những quá trình
này. Bởi lẽ, bản thân mỗi quá trình trên đều đan xen cả yếu tố tích cực lẫn yếu tố
tiêu cực, giữa cái tốt và cái xấu, cái văn minh và cái chưa văn minh…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội khác đã và đang phát
động nhiều phong trào, nhiều hoạt động vừa có chiều rộng vừa đảm bảo chiều
sâu. Đây là những nội dung hoạt động vừa là môi trường để giáo dục thanh niên
vừa là dịp để thanh niên phát triển toàn diện, cũng như rèn luyện qua thực tiễn

học tập và lao động. Có thể kể đến các phong trào như: phong trào "Sản xuất
kinh doanh giỏi" (trong thanh niên nông thôn); phong trào "Rèn luyện tay nghề,
thi thợ giỏi" (trong thanh niên công nhân); phong trào "Dạy tốt, học tốt"; "Giúp
bạn vượt khó học giỏi" (trong thanh niên học sinh, sinh viên); phong trào "Phấn
đấu xứng danh anh bộ đội Cụ Hồ" (trong thanh niên quân đội); "Thực hiện Sáu
điều Bác Hồ dạy" (trong thanh niên công an nhân dân); "Đường thanh niên làm
chủ" (trong thanh niên bộ đội biên phòng). Tiều biểu là hai phong trào lớn
"Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước". Các phong trào này đã cổ vũ,
động viên và hỗ trợ hàng triệu đông đảo thanh niên ra sức học tập, tiếp thu kiến
thức, học nghề, rèn luyện tay nghề; vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu cho
bản thân, gia đình và xã hội; đồng thời, đã giúp thanh niên nâng cao cảnh giác,
tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, đặc điểm nổi trội và quan trọng trong giai đoạn cách mạng hiện
nay ở nước ta đó là, đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trong

20


trong bối cảnh, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ngày càng rõ nét hơn và cuộc
đấu tranh giai cấp diễn ra hết sức phức tạp. Để dành thế chủ động trong việc lựa
chọn mục tiêu phát triển xã hội của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng và thực
hiện thành công những nhiệm vụ của đất nước hiện nay, đòi hỏi mỗi người Việt
Nam phải có tinh thần "chấn hưng đất nước", trong đó, sự kỳ vọng của xã hội
đối với thanh niên là lớn lao hơn bao giờ hết. Bởi họ không chỉ chiếm tỷ lệ đáng
kể trong dân cư, không chỉ là có mặt ở trên nhiều lĩnh vực, không chỉ họ có
nhiều thuận lợi trong việc tiếp nhận các lợi thế trong quá trình phát triển, mà
còn, thanh niên là người chủ của đất nước trong thời điểm hiện tại cũng như
tương lai. Sự phát triển theo mục tiêu đã chọn của đất nước đòi hỏi sự trưởng
thành về mọi mặt và bản lĩnh của những đoàn viên - thanh niên cộng sản. Hơn

bao giờ hết, đất nước chúng ta cần có những thanh niên, nói rộng ra là thế hệ
thanh niên cần có "đức" và "tài" để đủ sức đưa sự nghiệp cách mạng ở nước ta đi
đến những thắng lợi tiếp theo với mục tiêu đã được Đảng ta xác định là: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
2. Nững đặc trưng của mẫu hình người than niên lý tưởng trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta
Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, giáo dục thanh niên,
trong đó, đặc biệt quan trọng là quan điểm: hình thành lớp thanh niên vừa
"hồng" vừa "chuyên"; quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa; đặc trưng của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay ở nước
ta, có thể đưa ra một số đặc trưng của mẫu hình người thanh niên lý tưởng hiện
nay ở nước ta.
2.1. Giỏi chuyên môn là một yêu cầu đối với thanh niên hiện nay
Theo đó, mỗi thanh niên trong giai đoạn hiện nay phải có chuyên môn sâu
về một lĩnh vực cụ thể, tuỳ vào năng lực của từng người. Khả năng đó có cơ sở
từ một trí tuệ và trình độ học vấn, tay nghề cao. Đây là yếu tố để thanh niên thực
hiện được lý tưởng nghề nghiệp của mình. Một mặt, nó đảm bảo cho thu nhập

21


của người lao động, mặt khác, cũng góp phần nâng cao chất lượng và ổn định
cuộc sống của họ. Một điều không kém phần quan trọng, chính điều này, sẽ giúp
thanh niên có khả năng phát huy thế mạnh của mình hơn, đóng góp nhiều hơn
cho xã hội. Người thanh niên công nhân giỏi chuyên môn thể hiện ở trình độ kỹ
thuật, tay nghề, có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần giảm những chi
phí không cần thiết cho các doanh nghiệp, cho xã hội. Thanh niên vùng nông
thôn giỏi chuyên môn được thể hiện ở chỗ, họ có khả năng nắm bắt kỹ thuật
thâm canh, tăng năng suất, sản lượng đối với cây trồng vật nuôi. Đối với thanh
niên là sinh viên, trí thức, học sinh đó là những người học tập giỏi, có nhiều

sáng kiến, phát minh khoa học, những công trình nghiên cứu khoa học được áp
dụng vào thực tiễn.
2.2. Thanh niên hiện nay cũng cần phải có sức khoẻ tốt.
Đó là sự phát triển tốt về thể chất, thể lực. Có sức khoẻ tốt mới đảm bảo
cho thanh niên có đủ điều kiện để học tập, lao động, nghiên cứu. Sức khoẻ là
yếu tố quan trọng hàng đầu của con người bên cạnh tài năng và trí tuệ. Thanh
niên ngày nay do được chăm sóc tốt hơn nên thể lực cũng tăng lên đáng kể. Đó
là lực lượng lao động đông đảo đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
2.3. Trung thực, thẳng thắn, giữ chữ tín cũng là một đặc trưng của
thanh niên hiện nay.
Nền kinh tế thị trường như đã thấy, bên cạnh những mặt tích cực cũng tồn
tại những khiếm khuyết như: chụp giật, buôn lậu làm hàng giả…Trong cơ chế
đó, người thanh niên cần phải thẳng thắn, giữ chữ tín. Trong quan hệ kinh tế,
muốn làm ăn lâu dài và ổn định, các chủ thể phải giữ chữ tín, đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho nhau. Người thanh niên muốn là những nhà kinh doanh giỏi thì
phải trung thực, giữ chữ tín trong thương trường. Có như thế mới tạo ra được sự
tin cậy cho khách hàng cũng như các nhà đối tác. Trong quan hệ với các đối tác
nước ngoài trên lĩnh vực kinh tế, thanh niên cũng phải đặt nó lên hàng đầu.
Thanh niên ngày nay phải thẳng thắn lên án những hành vi, những hiện tượng

22


lệch chuẩn trong kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, chẳng
hạn, tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, vi phạm dân chủ…
2.4. Thanh niên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng
Như Lênin đã dạy, người thanh niên cộng sản phải có quan điểm giai cấp
nghiêm ngặt khi đánh giá, nhìn nhận những sự kiện, vấn đề trong đời sống xã
hội. Đối với thanh niên nước ta đó chính là quan điểm giai cấp công nhân, là bảo
vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Đó

cũng chính là khả năng nhận thức đúng quy luật phát triển khách quan, là sự
nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt những vấn đề mà cuộc sống đặt ra theo đúng
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Bản lĩnh chính trị vững vàng là yếu tố cơ bản để giúp thanh niên có
khả năng "đề phòng" tốt nhất trước những âm mưu thủ đoạn hết sức tinh vi và
đa dạng trên nhiều lĩnh vực mà các các thế lực thù địch đang thực hiện trong
cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra gay gắt ở trên phạm vi quốc tế hiện nay.
Đồng thời, đây cũng là yếu tố để thanh niên luôn hướng đến mục tiêu cao cả của
sự nghiệp cách mạng đó là, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh. Đối với mỗi đối tượng thanh niên biểu hiện của bản lĩnh chính trị, tất
nhiên cũng thể hiện khác nhau. Chẳng hạn, đối với thanh niên là sinh viên các
trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn bản lĩnh chính trị ở đây chính là,
sự đòi hỏi cao hơn về việc hiểu đúng linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin,
di sản tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối phát triển đất nước của Đảng,
và đồng thời, trên mặt trận lý luận, phải có khả năng nhìn nhận đâu là quan điểm
đúng, tiến bộ và đâu là quan điểm sai trái, phản động, chống lại lợi ích dân tộc,
lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và biết cách đấu tranh lại
những quan điểm sai trái đó.
2.5. Người thanh niên ngày nay phải có ý thức pháp luật, sống và lam
việc theo Hiến pháp và pháp luật.

23


Thanh niên một mặt phải am hiểu pháp luật, sống và làm việc theo pháp
luật, mặt khác, còn là những người tuyên truyền phổ biến pháp luật cho những
người khác và đối tượng khác. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Pháp luật trở thành một
công cụ quản lý quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tức là,
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì thế, sống và làm việc theo pháp luật

là trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội. Thực tế cho thấy, những hành vi
vi phạm pháp luật trong thanh niên đã nói lên sự thiếu ý thức và hiểu biết về
pháp luật của một bộ phận thanh niên. Có ý thức pháp luật giúp cho thanh niên
có được những hành vi phù hợp với những quy tắc ứng xử và chuẩn mực của xã
hội. Bên cạnh đó, thanh niên còn phải là người đóng góp ý kiến của mình để góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2.6. Tiết kiệm thời gian, quý trọng thời gian cũng là đặc trưng của
thanh niên.
Trong thời kỳ nền kinh tế còn bao cấp, thanh niên luôn rơi vào trạng thái
bị động, mang nặng tác phong nông nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, tiết kiệm
thời gian, quý trọng thời gian dường như là một tiêu chí nói trên trình độ văn
minh và năng suất lao động của một đất nước, mỗi thành viên trong xã hội.
Thanh niên nông thôn ngoài thời gian lao động sản xuất còn tranh thủ thời gian
rãnh rổi để tham gia các lớp học để nâng cao trình độ, hiểu biết, phát triển sản
xuất, cũng như tham gia các hoạt động xã hội như: thi nhà nông giỏi, làng vui
chơi, làng ca hát…Thanh niên công nhân ngoài giờ ở nhà máy còn tham gia các
hoạt động nhằm cải tiến sản phẩm, rèn luyện và nâng cao tay nghề…Thanh niên
là học sinh, sinh viên ngoài thời gian đến trường còn sử dụng quãng thời gian rỗi
để tự học, tự nghiên cứu. Họ còn tranh thủ thời gian để đi làm thêm (làm gia sư,
tiếp thị, viết báo, bán hàng…) để có thêm một phần kinh phí để trang trãi cho
vấn đề học tập, mặt khác, cũng để có dịp được thử thách qua hoạt động thực tế.

24


2.7. Có ý chí tiến thủ và khiêm tốn là những đặc trưng tiếp theo của
người thanh niên lý tưởng
Cuộc sống luôn đặt ra cho thanh niên nhiều khó khăn, thử thách. Muốn
trở thành một công dân có ích, thanh niên luôn phải xây dựng cho mình một
hướng đi đúng. Họ hướng cuộc đời vào một lý tưởng cao hơn hoàn cảnh hiện

tại. Họ phải là những người không bao giờ chấp nhận hoàn cảnh hiện tại mà
luôn tìm cách cải thiện nó. Nói cách khác, không chùn bước trước khó khăn, thử
thách; không sợ thất bại và luôn tìm cách nhằm cải tạo hoàn cảnh để vững tiến
về phía trước. Người thanh niên quân đội ngày đêm nắm chắc tay súng bảo vệ
từng hòn đảo, vùng trời, vùng đất của Tổ quốc; Có nhiều tấm gương sinh viên
vượt khó, vượt nghèo vươn lên học giỏi, giành được kết quả cao trong học tập,
rèn luyện và nghiên cứu khoa học. Là những thanh niên - doanh nhân trẻ ý chí
đó thể hiện trong việc cải tiến phương pháp quản lý, rèn luyện để có tư duy kinh
tế đúng đắn… trước những vướng mắc nhất định của cơ chế quản lý kinh tế và
sự cạnh tranh gay gắt ở trong nước và ngoài nước hiện nay.
Bên cạnh đó, thanh niên cần có đức tính khiêm tốn. Đó là đức tính nhã
nhặn, biết ứng xử khéo léo, không khoe khoang, tự mãn, không quá tự đề cao
mình đối với người khác. Người có đức tính này luôn tự coi mình là kém cỏi,
cần phải học, rèn luyện nhiều hơn nữa…Họ luôn cho sự thành công của bản thân
là bình thường, không đáng kể, luôn tỏ ra muốn học hỏi thêm. Trong thanh niên,
đức tính khiêm tốn một mặt thuộc về phạm trù tự ý thức của bản thân, mặt khác,
khi có được nó thanh niên sẽ cố gắng để đạt thành tích cao hơn.
2.8. Quan hệ xã hội rộng
Đây cũng là một đặc trưng của mẫu hình người thanh niên lý tưởng.
Trong điều kiện giải phóng dân tộc, một đặc trưng nổi trội của thanh niên đó là,
tinh thần đồng đội. Trong xã hội hiện đại, mỗi thành viên trong xã hội nói
chung, thanh niên nói riêng cần thực hiện nhiều vai trò khác. Những vai trò xã
hội này không phải cá nhân đó muốn hay không muốn mà do khách quan quy

25


×