Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

TIỂU LUẬN: Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tập thể pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.58 KB, 28 trang )







TIỂU LUẬN:

Quan điểm của Đảng ta về phát
triển kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế tập thể





Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích quan điểm của Đảng ta về vị trí và vai
trò của kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế hợp tác xã trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, khẳng định tính đúng đắn,
sáng tạo trong chủ trương tiếp tục đổi mới và phát triển các thành phần kinh tế này mà
Đảng ta đã đưa ra tại Đại hội X vừa qua.

1. Kinh tế tư bản nhà nước với tư cách một thành phần kinh tế “bao gồm các hình
thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp
tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài”, “có vai trò quan trọng
trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý…
của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước”(1). Để kinh tế tư bản nhà nước thực hiện được vai trò quan trọng
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh
doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong và ngoài nước nhằm “tạo
thế, tạo lực” cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh


tranh với bên ngoài, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản
lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Cụ thể hoá đường lối đó, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII, một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, trong nền kinh tế nhiều
thành phần, kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế được “khuyến khích phát
triển” trong những ngành nghề sản xuất mà pháp luật không cấm và đề ra những biện
pháp cụ thể để khuyến khích sự phát triển của nó trong khuôn khổ của luật pháp, với
sự điều tiết của Nhà nước nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã chứng minh
rằng, trong bối cảnh quốc tế hiện thời, Việt Nam chưa có điều kiện để quá độ thẳng,
trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ có khả năng thực hiện bước quá độ gián tiếp lên
chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, khi khẳng định chủ trương

“phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh
doanh”, Đảng ta đã chỉ rõ: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”(2). Phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư
của tư bản nước ngoài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể dẫn tới sự phục
hồi của chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định nào đó. Song, một khi chủ nghĩa tư
bản được phục hồi thì biện pháp hữu hiệu nhất, như V.I.Lênin đã khẳng định, không
phải là thủ tiêu nó, mà tìm cách hướng nó vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà
nước. Đương nhiên, trong điều kiện hiện nay, không chỉ nhiều hình thức của chủ
nghĩa tư bản nhà nước không còn hoàn toàn giống như các hình thức tư bản nhà nước
thời V.I.Lênin đầu những năm 20 của thế kỷ XX, mà còn có sự xuất hiện của nhiều
hình thức mới làm tăng thêm tính đa dạng của thành phần kinh tế này. Nhưng, dù có
đa dạng, phong phú đến đâu đi chăng nữa, thì những hình thức của chủ nghĩa tư bản
nhà nước đó, trong điều kiện chính đảng của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo và

thực hiện công cuộc xây dựng nền kinh tế quốc dân mà ở đó, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo và cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng, vẫn chỉ là những
bước quá độ, những nấc thang trung gian để phát triển lực lượng sản xuất, đưa nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Điều đó được quy định bởi lẽ, cho đến nay, có thể nói, Việt Nam mới chỉ hoàn thành
về cơ bản chặng đầu của thời kỳ quá độ và nhìn chung, vẫn đang trong tình trạng kém
phát triển; thêm vào đó, do hậu quả của chiến tranh, do thực hiện cơ chế quản lý tập
trung, bao cấp kéo dài, chúng ta chưa có được “phòng chờ” để đi vào chủ nghĩa xã hội
và do vậy, tất yếu phải tự mình tạo ra “phòng chờ” đó, tự mình bắc “những chiếc cầu
nhỏ” đi xuyên qua kinh tế tư bản nhà nước. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vẫn trong tình trạng kém phát triển,
kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới như ở Việt Nam
hiện nay không chỉ là con đường, là phương tiện để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn nhằm đưa Việt Nam
nhanh chóng thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nhằm mục tiêu đó và trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta cần “phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình
thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và
ngoài nước”, “tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý” để nó được
“phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài”;
đồng thời “chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp
nhiều hình thức sở hữu”(3), giữa sở hữu nhà nước với sở hữu tập thể và tư nhân, dưới
hình thức vốn và đóng góp cổ phần. Theo đó, các chủ thể kinh tế tham gia vào kinh tế
tư bản nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài
nước, các doanh nghiệp tập thể và người lao động. Bởi vậy, có thể nói, kinh tế tư bản
nhà nước là cái đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn, hiện đại hoá công nghệ
và nâng cao năng lực quản lý cho các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư tư nhân. Với
vai trò này, kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay có thể được coi là yếu tố đóng

góp tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo những đòi hỏi của nền kinh
tế thị trường và yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thông qua việc tập trung và hợp vốn giữa nhà nước và tư bản tư nhân dưới hình
thức liên doanh, đóng góp cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trong bối cảnh mở cửa, giao lưu, hợp tác khu vực và quốc tế ngày càng mở rộng và
có chiều sâu, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả của thành phần
kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn quá trình
khắc phục tình trạng kém phát triển về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới, mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và góp phần
cải thiện đời sống của họ.
Chiến lược phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo chúng
tôi, không thể không phát triển kinh tế tư bản nhà nước. Về một phương diện nào đó,
có thể nói, phát triển kinh tế tư bản nhà nước là một yếu tố quan trọng trong việc giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, ở Việt Nam hiện nay, về cơ sở vật chất,
nền kinh tế nước ta hiện chưa có đủ điều kiện để quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội
và do vậy, chúng ta có thể và cần phải sử dụng kinh tế tư bản nhà nước để thực hiện

định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, việc tận dụng sản xuất tư bản trong
và ngoài nước, nhất là bằng cách hướng chúng vào con đường phát triển kinh tế tư bản
nhà nước, lấy kinh tế tư bản nhà nước làm phương tiện để tăng nhanh lực lượng sản
xuất có thể được coi là một trong những con đường hiện thực nhất, có triển vọng nhất.
Dưới hình thức kinh tế tư bản nhà nước, chẳng những chúng ta thu hút được tư bản
nước ngoài, mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước, hùn vốn liên doanh và qua đó, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển
hơn nữa. Sự phát triển đó của kinh tế tư bản tư nhân được hướng theo con đường phát
triển chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức thích hợp, thông qua sự kiểm kê, kiểm
soát và điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với phương châm “chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế”, Đảng ta chủ trương “xây dựng một số tập đoàn kinh tế,

tổng công ty lớn, đa sở hữu, tạo sức mạnh cho đất nước trong hội nhập kinh tế quốc
tế”; đồng thời “thu hút ngày càng nhiều tập đoàn kinh tế lớn của các nước đến đầu tư,
kinh doanh” và “khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ
yếu là các doanh nghiệp cổ phần thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước và phát triển các doanh nghiệp cổ phần mới, để hình thức kinh tế này trở
thành phổ biến, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế nước ta”(4).
Từ bối cảnh trong nước và quốc tế hiện thời, với xu hướng đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ kinh tế, Việt Nam chúng ta hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để phát
triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Sử dụng
kinh tế tư bản nhà nước với tư cách một thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được cấu thành bởi các quan hệ kinh tế và hợp
đồng kinh tế giữa một bên là Nhà nước ta - đại biểu cho sở hữu toàn dân, cho lợi ích
toàn xã hội, với một bên là các nhà tư bản hoàn toàn có thể đem lại cho chúng ta khả
năng vừa sử dụng có hiệu quả sự đầu tư của tư bản nước ngoài, vừa giữ được độc lập,
tự chủ, thực hiện hợp tác bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ
quyền của nhau.
Nói tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải “phát triển
đa dạng kinh tế tư bản nhà nước” với tư cách “những chiếc cầu nhỏ vững chắc” để
xuyên qua nó, đi lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không hướng tư bản tư nhân đi theo con đường phát

triển kinh tế tư bản nhà nước, chẳng những chúng ta không hướng nó đi theo quỹ đạo
của chủ nghĩa xã hội, mà có khi còn làm cho nó tự phát đi chệch sang quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế tư bản
nhà nước, coi nó như là cứu cánh duy nhất của nền kinh tế quá độ. Tại Đại hội X, khi
một lần nữa khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng của kinh tế tư bản nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng đồng thời
khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy
các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(5).
2. Về vấn đề phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã trong bối cảnh
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội
X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh
tế tập thể” trên cơ sở “tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến
khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới.
Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã cổ phần”(6).
Với quan niệm như vậy về kinh tế tập thể, Đảng ta chủ trương phát triển và nâng cao
hiệu quả hoạt động của kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao,
bao gồm cả các hợp tác xã, liên hợp tác xã cổ phần, được tổ chức theo “các nguyên tắc
hợp tác tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng”(7).
Thực tiễn của những năm đổi mới cho thấy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản
xuất hàng hoá nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư, chúng ta không thể
không phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã. Song, vấn đề là ở chỗ,
cần phải coi kinh tế hợp tác xã như là một “tế bào” của nền kinh tế thị trường. Khi đó,
vấn đề không chỉ là ở chỗ tìm kiếm những hình thức trung gian, những biện pháp quá
độ cho việc khôi phục và phát triển nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là ở chỗ rút ra
một kết luận có ý nghĩa lý luận lớn lao. Đó là kết luận về tính thiết yếu của việc thực

hiện các hình thức quá độ gián tiếp, những biên pháp trung gian, quá độ đặc biệt đối với
một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa.
Từ thực tiễn của 20 năm tiến hành đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội
X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “tiếp tục đổi mới, tạo động lực phát triển có
hiệu quả các loại hình kinh tế tập thể”; đồng thời nhấn mạnh, trong những năm trước
mắt, chúng ta cần phải “tiếp tục đổi mới chính sách để khuyến khích, thúc đẩy phát

triển mạnh các loại hình kinh tế tập thể với những hình thức hợp tác đa dạng, tự
nguyện, đáp ứng nhu cầu của các thành viên, phù hợp với trình độ phát triển của các
ngành, nghề trên các địa bàn. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu
mới trên cơ sở tổng kết các đơn vị làm tốt để tăng sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh
tế tập thể, nhất là đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đa dạng hoá hình thức sở
hữu trong kinh tế tập thể (có sở hữu pháp nhân, thể nhân). Phát triển các loại hình
doanh nghiệp trong hợp tác xã và các hình thức liên hiệp hợp tác xã. Có cơ chế hợp
tác xã phát huy quyền sử dụng tư liệu sản xuất chung tại cơ sở; tách bạch giữa quyền
này với quyền sở hữu của các xã viên. Khuyến khích huy động cổ phần và nguồn vốn
góp của xã viên để không ngừng tăng thêm vốn đầu tư phát triển hợp tác xã. Khuyến
khích tăng tài sản và quỹ không chia của hợp tác xã. Giải thể hoặc chuyển các hợp tác
xã chỉ còn là hình thức sang các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp với
quy định của pháp luật”(8).
Để phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế diễn ra một
cách thuận lợi, có hiệu quả, Đảng ta chủ trương thực hiện Luật hợp tác xã trong các
lĩnh vực, các khu vực sản xuất; vận động và giúp đỡ các tiểu thương, tiểu chủ tự
nguyện xây dựng các cơ sở kinh tế hợp tác đa dạng, từ thấp đến cao; thành lập, tổ
chức các hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn trong những ngành nghề thích hợp; đồng thời
phát triển nhiều hình thức hợp tác, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần
kinh tế khác trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và bảo đảm lợi ích hợp pháp của
mỗi chủ thể kinh tế.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, để nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, cũng như toàn bộ
nền kinh tế đất nước, bên cạnh việc khuyến khích phát triển các hợp tác xã kiểu mới,
chúng ta không thể không quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông
nghiệp, đến kinh tế trang trại nhỏ và vừa, kinh tế hộ gia đình mà chính sách khoán 10
trước đây không lâu là một ví dụ. Với chính sách đó, chúng ta đã cho phép kinh tế hộ
gia đình, kinh tế trang trại nhỏ phát triển và nhờ đó, sản xuất nông nghiệp trong những
năm qua đã có bước phát triển đáng kể. Nhờ nó mà quyền chủ động sản xuất, kinh

doanh của người nông dân được giải phóng khỏi những ràng buộc sắc lệnh và nền
kinh tế của họ đang mang lại hiệu quả nhanh chóng khi mức đầu tư vốn, có thể nói,
hãy còn quá thấp.
Nhận thức rõ hiệu quả của thành phần kinh tế này, tại Đại hội X, khi đưa ra định
hướng phát triển cho các ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế, Đảng ta đã khẳng định chủ
trương “tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và
nâng cao đời sống nhân dân”(9) ở nông thôn; khuyến khích tối đa mọi người dân và
doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn; tạo điều
kiện thuận lợi hơn để giúp nông dân chuyển sang làm các ngành, nghề ngoài nông
nghiệp và dịch vụ; khuyến khích các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn; đồng thời tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và đa dạng hoá
các nguồn vốn để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn, thúc đẩy cơ giới hoá, hiện
đại hoá nông thôn.
*
* *
Những thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và thực tiễn xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã cho thấy, việc phát triển kinh tế tư bản nhà nước
và kinh tế hợp tác tất yếu phải sử dụng một cách có hiệu quả quy luật giá trị và quan
hệ hàng – tiền. Trong tiến trình tiếp tục công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đây là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, song cũng là một vấn đề không ít

khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta không những phải từ bỏ quan điểm phủ định sạch trơn
sản xuất hàng hoá, chỉ thấy những tiêu cực vốn có của quan hệ hàng – tiền dưới chế độ
sở hữu tư nhân, mà còn phải chống lại cả quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của quan hệ
hàng – tiền, cũng như quan niệm về sự tồn tại trên danh nghĩa quan hệ hàng – tiền trong
chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta đã cho thấy hiệu quả của
việc sử dụng quy luật giá trị và quan hệ hàng – tiền trong việc nâng cao hiệu quả sản

xuất, phát triển kinh tế; đồng thời cho thấy rõ việc sử dụng chúng là đặc trưng không
thể thiếu của cơ chế quản lý kinh tế mới mà chúng ta đang ra sức xây dựng. Bởi vậy,
hiện nay, vấn đề đặt ra với chúng ta là cần phải nhận thức đúng và vận dụng có hiệu
quả hơn nữa quy luật giá trị và quan hệ hàng – tiền trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần điều tiết những mối quan hệ đó để sao cho
không phải là thủ tiêu chúng, mà là phát triển chúng theo hướng mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Thêm vào đó, khi sử dụng quy luật giá trị và quan hệ hàng – tiền, chúng ta
không chỉ phải tính đến những đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mà còn phải tính đến trình độ phát triển của nền kinh tế này, đến vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, vị trí nền tảng của nó cùng với kinh tế tập thể và ý
nghĩa chiến lược của kinh tế tư bản nhà nước.r

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.95.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X . Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.98, 99.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.230, 231.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.83.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.85 - 86, 236.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.86.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.235 - 236.


VẤN ĐỀ VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA

HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA

Hoàng Đình Cúc (*)
Trong điều kiện hiện nay, văn hoá và con người đang được các quốc gia trên thế
giới coi là nguồn nội lực quan trọng của chiến lược phát triển bền vững. ở Việt
Nam, văn hoá và con người được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng, cần phải thấy rằng, bên cạnh những
điểm mạnh, tích cực, văn hoá và con người Việt Nam hiện vẫn còn một số yếu
kém cần được nhận diện, phân tích và khắc phục. Có như vậy, văn hoá mới thực
sự phát huy vai trò nền tảng của nội lực, con người mới thực sự là nhân tố quyết
định của nội lực. Nhiệm vụ quan trọng hiện nay của chúng ta là xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; trong đó, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề trung
tâm

Trong nỗ lực tìm kiếm động lực của sự phát triển bền vững, văn hoá và con
người hiện đang là những vấn đề được cả thế giới quan tâm. Đối với nhiều quốc
gia, kể cả những nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, văn hoá và con
người được coi là nội lực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ và
xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng như hiện nay. ở Việt
Nam, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt là từ khi đất nước bước vào công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta luôn coi trọng

vấn đề văn hoá và con người. Cùng với việc đề cao yếu tố con người, văn
hoá được coi là "nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"(1).
Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử của dân tộc Việt Nam đã chứng minh
rằng, văn hoá luôn gắn liền với cuộc sống của con người và sự phát triển của xã
hội; con người tồn tại, trưởng thành và phát triển nhờ văn hoá của mình. Nền văn

hoá truyền thống của dân tộc ta được kết tinh và khẳng định trong cuộc đấu tranh
và lao động sản xuất để tồn tại, phát triển của nhân dân trong lịch sử dựng nước
và giữ nước. Có thể nói, văn hoá và con nguời Việt Nam là những nhân tố quan
trọng, góp phần hình thành nên truyền thống lịch sử trải dài hàng ngàn năm của
dân tộc. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố văn hoá và con người Việt Nam được phát
huy, tạo nên sức mạnh nhấn chìm bọn đế quốc xâm lược, giành và bảo vệ nền
độc lập dân tộc, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, những nhân tố đó tiếp
tục đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đưa đất nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Như chúng ta đã biết, từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, thế giới đã xảy
ra biết bao biến động nhanh chóng cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa,
văn hoá và con người cũng không phải là "nhất thành bất biến"; trái lại, các yếu
tố đó cũng vận động, biến đổi cùng sự phát triển của lịch sử. Do vậy, để khai
thác, phát huy sức mạnh của văn hoá và con người Việt Nam với tính cách những
nguồn lực nội sinh quan trọng của sự phát triển xã hội, trước hết cần có sự phân
tích, đánh giá đúng thực trạng của văn hoá và con người. Có thể nói, trong suốt
tiến trình xây dựng xã hội mới của chúng ta, nhất là từ khi đất nước bước vào
thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu các vấn đề văn hoá và con người Việt Nam luôn
được coi trọng. Trên thực tế, nhiều chương trình nghiên cứu cấp bộ và cấp nhà
nước, nhiều hội thảo khoa học xoay quanh các vấn đề văn hoá và con người Việt
Nam đã được tổ chức, triển khai nghiên cứu từ các góc độ khác nhau. Đặc biệt,

xây dựng văn hoá và con người luôn là một trong những nội dung quan trọng
trong văn kiện của các kỳ Đại hội và một số Hội nghị Trung ương của Đảng.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khoá VIII), Đảng ta đã có
sự đánh giá đúng đắn, khách quan về những thành tựu, những yếu kém của văn
hoá và con người Việt Nam trên nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực hoạt động.

Tiếp nối những đánh giá đó, tiếng nói của công luận trên các phương tiện thông
tin đại chúng, như các báo chí xuất bản hàng ngày, vô tuyến truyền hình, đài phát
thanh của trung ương và các địa phương, đã thường xuyên có những bổ sung,
góp phần phản ánh ngày càng đầy đủ, toàn diện và kịp thời cả những mặt mạnh,
ưu điểm lẫn những hạn chế, khiếm khuyết của văn hoá và con người Việt Nam
hiện nay. Khái quát các nguồn tài liệu trên, chúng ta có thể rút ra một số điểm
mạnh của văn hoá và con người Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, trong công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện mới của khu vực và
thế giới, con người Việt Nam vẫn luôn gắn bó mật thiết với những giá trị văn hoá
truyền thống, với những phẩm giá của dân tộc mà điểm nổi bật là tinh thần yêu
nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Biểu
hiện của điểm mạnh này là thái độ tích cực của mỗi công dân trước vận mệnh của
Tổ quốc, trước các chuyển đổi về kinh tế, xã hội hiện nay.
Thứ hai, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện đức tính cần cù, sáng tạo trong
mọi hoạt động. Đức tính này là một giá trị đặc trưng, chiếm vị trí xứng đáng
trong bảng giá trị về nhân cách của con người Việt Nam. Thái độ tích cực của con
người Việt Nam trong định hướng và lựa chọn giá trị này là điều kiện hết sức thuận
lợi cho công tác giáo dục, từ giáo dục truyền thống, lối sống đến giáo dục đạo đức,
nhân cách con người hiện đại,… nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Thứ ba, nét đặc trưng của đời sống tinh thần, của phẩm giá của con người Việt
Nam là truyền thống cộng đồng, lòng nhân ái, những tình cảm vị tha và khoan
dung… vẫn được giữ vững, phát huy trong điều kiện mới của đất nước. Những
giá trị mang tính nền tảng, cốt lõi ấy là cơ sở để phát triển tính nhân văn và xây
dựng văn hoá Việt Nam hiện đại, tiên tiến, mang bản sắc dân tộc. Có thể khẳng

định rằng, đây là một thuận lợi căn bản để chúng ta thực hiện chương trình văn
hoá trong toàn xã hội đối với các thế hệ con người Việt Nam hiện nay và mai
sau.
Thứ tư, con người Việt Nam vẫn giữ được truyền thống hiếu học, tôn sư trọng

đạo và sự hình thành, phát triển các giá trị mới của văn hoá và con người đã
chứng minh sự kết hợp giữa truyền thống với hiện đại trong thời kỳ đổi mới và
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ năm, trong công cuộc đổi mới, mô hình gia đình truyền thống đang có
những biến đổi lớn, phức tạp do sự tác động của kinh tế hàng hoá, cơ chế thị
trường, do những biến đổi của xã hội đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội… Tuy
vậy, những giá trị tinh thần, đạo lý của gia đình truyền thống vẫn được giữ vững,
có ảnh hưởng tích cực trong đời sống gia đình Việt Nam, vẫn là nhân tố quan
trọng đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh trên đây, chúng ta cũng cần phải nhận
diện một số yếu kém trong văn hoá và con người Việt Nam hiện nay. Điều này
được thể hiện ở chỗ:
- Phong cách sản xuất nhỏ biểu hiện trong thói quen, tập quán, lối sống và cách
ứng xử, nếp suy nghĩ, lề thói làm ăn của người Việt Nam vẫn đang là những
cản trở không nhỏ đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
- Những mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động tiêu cực tới sự phát triển
văn hoá và con người Việt Nam. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hướng
này là sự suy giảm về mặt đạo đức của không ít người, nhất là lớp trẻ, thậm chí
của cả một số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Cùng với đó là sự xuất
hiện các yếu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa cục bộ, địa phương, lối sống thực
dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí; sự
phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử
giữa người với người. Những tiêu cực này đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng,
đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Vấn đề đặt ra ở đây chính là vấn đề quan hệ
con người trong nền kinh tế thị trường, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa
vụ của cá nhân đối với những người thân trong gia đình, đối với cộng đồng và

toàn xã hội. Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không chú trọng
giáo dục đạo đức, lối sống… một cách đúng mức cả trong gia đình, nhà trường
lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái đạo đức chẳng những không sớm được ngăn

chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp tục gia tăng.
Phân tích cội nguồn dẫn tới các yếu kém trên đây, ngoài việc chỉ rõ những
nguyên nhân khách quan, Đảng ta cho rằng, nguyên nhân chủ quan là do: chưa
đặt đúng vị trí của văn hoá, chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hoá
song song với chiến lược phát triển kinh tế; chưa xử lý nghiêm những phần tử
thoái hoá biến chất trong đảng và bộ máy nhà nước, việc quản lý còn có dấu hiệu
bị buông lỏng; chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân, chưa
tạo được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển văn hoá, xây dựng
nếp sống văn minh, bảo vệ văn hoá dân tộc, chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục
và phát huy khả năng của tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu của
hoạt động văn hoá(2).
Trên cơ sở phân tích những thành tựu, những yếu kém của văn hoá và con người
ở nước ta hiện nay, Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VIII) của Đảng đã ra
Nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng, đây là một văn kiện quan trọng mang
tính chất cương lĩnh, đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy của Đảng về
vấn đề văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong Nghị quyết này, Đảng ta coi văn hoá là nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất của phát triển và yếu tố quyết định nội lực là chất lượng con người. Vì vậy,
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định
hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản: dân tộc, hiện đại, nhân
văn là nhiệm vụ rất quan trọng trong công cuộc đổi mới. Một trong những nội
dung trọng tâm của nền văn hoá ấy là xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “tiếp tục phát triển sâu rộng và
nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hoá thấm

sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”(3). Trên cơ sở thực tiễn xây dựng văn
hoá những năm qua, Đảng ta đã xác định ba lĩnh vực quan trọng, đó là đời sống

văn hoá cơ sở, những sản phẩm văn hoá đỉnh cao và những công trình văn hoá
lớn tiêu biểu cho giai đoạn phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Về đời sống văn hoá cơ sở, trước hết cần tập trung phát huy tinh thần tự nguyện,
tính tự quản và năng lực làm chủ, sáng tạo của nhân dân trong đời sống văn hoá.
Đây là động lực lớn nhất, đồng thời là nguyên nhân có tính quyết định tạo nên
tính bền vững, chất lượng và hiệu quả của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá” hướng đến mục tiêu tạo nên môi trường văn hoá tốt đẹp,
lành mạnh, phong phú cho mỗi người và cả cộng đồng. Thứ hai, đa dạng hoá các
phương thức tổ chức phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá”. Thứ ba, khuyến khích việc sáng tạo những sản phẩm văn hoá có giá trị cao về tư
tưởng, nghệ thuật, có ảnh hưởng và tác động tích cực, sâu sắc đến đời sống tinh thần
của xã hội.
Văn hoá là của con người, chỉ có ở con người. Văn hoá, đối với một con người,
đó là tài và đức; đối với một quốc gia, đó là nền tảng dân trí, là trí tuệ, cốt cách
và bản lĩnh của dân tộc. Vai trò động lực của văn hoá được thực hiện thông qua
con người. Nhận thức sâu sắc vai trò của văn hoá cũng như mối quan hệ hữu cơ
giữa văn hoá và con người, các văn kiện của Đảng, như Nghị quyết Trung ương
lần thứ năm (khoá VIII), kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ chín (khoá
IX) và văn kiện Đại hội X, đều khẳng định sứ mệnh cao quý nhất của văn hoá
là góp phần trực tiếp xây dựng con người và nguồn nhân lực có chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VIII) đã nhấn mạnh đến những phẩm
chất cơ bản của con người mới mà chúng ta cần xây dựng để tạo nên nguồn nhân
lực có chất lượng cao, phù hợp với những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là những con người được phát triển toàn
diện, cả đức lẫn tài, cả thể lực lẫn trí tuệ, cả đạo đức, thẩm mỹ lẫn kỹ năng lao
động, ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội X, Đảng
ta coi nhiệm vụ của văn hoá là “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con

người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá
trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực
trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”(4). Điều cần nhấn
mạnh là, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tích cực và
tiến bộ của con người Việt Nam, phê phán những yếu tố lạc hậu và tiêu cực, xây
dựng những giá trị mới. Đặc biệt, chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến công tác
giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất và nâng cao tính công dân cho
đội ngũ lao động mới, tạo điều kiện cho họ có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ,
trách nhiệm công dân đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với nhân dân, dân tộc;
đồng thời, được hưởng thụ một cách xứng đáng so với những đóng góp, cống
hiến của họ cho xã hội.
Trước mắt, trong nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam, văn hoá cần nỗ lực
thực hiện ba mục tiêu lớn:
- Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các giá trị mới của con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Có
thể nói, đây là một đòi hỏi rất cao và mới đối với văn hoá. Bởi vì, trong những
năm qua, cuộc vận động xây dựng con người mới tuy có bề rộng, nhưng chưa
sâu, chưa bền vững, ít hiệu quả và chưa hình thành được dư luận xã hội định
hướng các chuẩn mực giá trị mới. Đây là một yêu cầu có tính bao quát, tổng thể;
đồng thời, là cơ sở và định hướng giải quyết các nhiệm vụ trước mắt. Theo chúng
tôi, từ những điểm mạnh của con người Việt Nam đã được Đảng xác định, cần cụ
thể hoá thành những tiêu chí, chuẩn mực phù hợp với từng giới, từng ngành, từng
địa phương, đơn vị. Đó là các phẩm chất: có tinh thần yêu nước, phấn đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tinh thần đoàn kết, có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh, tôn trọng kỷ cương phép nước, cần cù lao động và có ý thức học
hỏi vươn lên
- Hai là, kiên quyết phê phán, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực trong
tư tưởng, đạo đức, lối sốngcủa một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân;
chống lại bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội nhằm làm


lành mạnh hoá xã hội. Đây là đòi hỏi bức xúc của toàn xã hội trong sự nghiệp
xây dựng con người theo hệ giá trị chân - thiện - mỹ.
- Ba là, bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên là một
yêu cầu, nội dung được đặc biệt nhấn mạnh. Yêu cầu văn hoá trong việc xây
dựng thế hệ trẻ Việt Nam về nhân cách là một việc cực kỳ cần thiết, vừa có tính
cơ bản, chiến lược, vừa rất cấp bách. Chúng ta đều biết rõ rằng, sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Bởi, với Người, thế hệ trẻ chính là tương lai của đất nước. Tại Đại hội X, Đảng ta
đã nhấn mạnh các giá trị lớn mà văn hoá phải chăm lo nuôi dưỡng cho thanh
niên, sinh viên, học sinh là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, vẻ đẹp đạo
đức và bản lĩnh văn hoá. Các giá trị đó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với thế
hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập, giao
lưu quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín (khoá IX) đã
khẳng định quyết tâm triển khai trong thực tiễn giải pháp phát triển giáo dục -
đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu; đòi hỏi các cấp,
các ngành và toàn xã hội phải quán triệt sâu sắc hơn nữa ý nghĩa, vai trò động lực
của các yếu tố văn hoá, xã hội và con người đối với sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước. Một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay là nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện và chú trọng hiệu quả kinh tế - xã hội của giáo dục -
đào tạo. Nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo trong những năm tới là nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và
học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục
Việt Nam. Muốn vậy, phải chuyển đổi mô hình giáo dục, đổi mới mạnh mẽ giáo
dục mầm non và giáo dục phổ thông; phải phát triển hệ thống giáo dục hướng
nghiệp và dạy nghề, đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học; phải đảm
bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc
học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học; thực hiện xã hội hóa giáo dục, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục; tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.


Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa
học và công nghệ; “phấn đấu đến năm 2010, năng lực và khoa học công nghệ
nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực
quan trọng”. Nhiệm vụ của khoa học xã hội là tiếp tục góp phần làm sáng tỏ các
vấn đề nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bước đi của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phát
triển con người… Nhiệm vụ của khoa học tự nhiên là tập trung nghiên cứu cơ
bản, định hướng ứng dụng, đặc biệt là các lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu và
thế mạnh. Đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với
công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của
các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP; phát triển công nghệ
cao nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
Không phải ngẫu nhiên mà luận điểm có ý nghĩa như một triết lý: “Phân tích đến
cùng, các trọng tâm, các động cơ và các mục đích của phát triển phải được tìm
trong văn hoá”(5) được nhiều người tán thành và ủng hộ. Có thể nói, một trong
những thành tựu đổi mới tư duy lý luận ở nước ta là quan điểm coi văn hoá dân
tộc là nền tảng của nội lực, coi nguồn lực con người (đặc biệt về mặt chất lượng)
là tiềm năng quý giá nhất, là nhân tố quyết định của nội lực. Bởi vậy, bên cạnh
nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hiện nay của chúng ta là xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; trong đó, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn
đề trung tâm.r
(2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 52 – 54.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 106.
(5) Uỷ ban quốc gia Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá. Thập kỷ thế giới phát
triển văn hoá. Hà Nội, 1992, tr.22





Sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện đại
Nguyễn Thế Nghĩa (*)
Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác được thể hiện ở: thứ nhất, thế giới
quan và phương pháp luận của triết học Mác là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức
và cải tạo xã hội; thứ hai, sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn là nguyên
tắc nền tảng của triết học Mác; thứ ba, triết học Mác là sự thống nhất giữa tính mở,
tính phát triển của hệ thống lý luận và tính ổn định của lập trường duy vật biện chứng
và những phương pháp luận cơ bản của nó. Đó là những giá trị vĩnh hằng của triết
học Mác. Những giá trị đó đã làm nên sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện
đại, nhưng để giữ được sức sống ấy, bản thân triết học Mác cũng phải được đổi mới
trước những biến đổi của đời sống xã hội hiện đại.

Với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, chủ nghĩa xã hội
đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
đang đứng trước những khó khăn và thử thách to lớn. Trước hiện thực đó, các nhà tư
tưởng và chính trị tư sản đã lớn tiếng tuyên bố về “sự cáo chung” của chủ nghĩa Mác -
Lênin, ngay cả những người hôm qua còn được coi là người mácxít thì nay, cũng công
kích và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. ở Việt Nam, trong mấy năm gần đây, cũng
đã xuất hiện một số bài viết bày tỏ quan điểm và thái độ tương tự.
Những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những quan điểm khác nhau,
song khái quát lại, có 3 quan điểm chủ yếu:
- Thứ nhất, chủ nghĩa Mác là sản phẩm của nền văn minh cơ khí, nó chỉ thích hợp với
thế kỷ XIX chứ không phù hợp với thời đại ngày nay là thời đại khoa học – công
nghệ, thời đại toàn cầu hoá và văn minh tin học.
- Thứ hai, những sai lầm và thiếu sót trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây (nhất
là ở Liên Xô) là sản phẩm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự sụp đổ của chế độ xã hội

chủ nghĩa ở một loạt nước trên thế giới đã chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lênin là một sai
lầm.

- Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời ở phương Tây, nó chỉ phản ánh lịch sử phương
Tây mà không bao quát được lịch sử phương Đông và Việt Nam. Vì vậy, ở Việt Nam
chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ.
Vậy, đâu là sự thật? Đâu là chân lý? Nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ bản chất
khoa học và cách mạng của triết học mácxít cũng như vai trò của nó trong xã hội hiện
đại. Đồng thời, đề xuất phương hướng đổi mới lý luận triết học mácxít trong điều kiện
hiện đại.
I. Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác
Sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội – lịch sử loài người gần 2 thế kỷ qua đã
minh chứng cho bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác. Bản chất này của
triết học Mác được thể hiện một cách sâu sắc trước hết, ở thế giới quan và phương
pháp luận của nó, ở các nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính ổn
định và tính mở, tính phát triển của nó.
1. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – kim chỉ nam cho hoạt
động nhận thức và cải tạo xã hội
1.1. Phép biện chứng duy vật là tinh hoa của trí tuệ nhân loại được C.Mác và
Ph.Ăngghen đúc kết và V.I.Lênin phát triển trên cơ sở những thành tựu cao nhất của
triết học, của khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội – lịch sử toàn nhân loại. Những
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật và những phương pháp luận cơ bản của nó
mang tính phổ quát. Chúng bao quát, tác động, chi phối cả giới tự nhiên, đời sống xã hội và
tư duy con người ở mọi nơi và trong mọi giai đoạn lịch sử. Chính vì vậy, phép biện chứng
duy vật trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Nói ngắn gọn, nó là kim chỉ nam cho suy nghĩ và hành động.
Gần 2 thế kỷ đã qua, kể từ khi phép biện chứng duy vật ra đời cho đến nay, nhân loại
đã chứng kiến những biến đổi lớn lao trong khoa học cũng như trong đời sống xã hội.
Những thành tựu của khoa học và công nghệ (thuyết tương đối của Anhxtanh, thuyết
vụ nổ lớn, di truyền học, cơ học lượng tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,

công nghệ vật liệu mới, công nghệ Nanô,…) không chỉ đóng vai trò trọng yếu trong
nền sản xuất xã hội, mà còn tác động trực tiếp đến con người, làm biến đổi mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Có thể nói, trong thời đại ngày nay, khoa học, về thực chất,

đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như dự báo của C.Mác cách đây một
thế kỷ rưỡi.
Theo dự báo của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong những thập niên tới,
khoa học tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sẽ có những phát minh kỳ diệu, những ứng
dụng rộng rãi nhờ những biến đổi mang tính cách mạng trong 5 lĩnh vực lớn: thế giới
ảo (Cyber), công nghệ gen (Genomique), công nghệ phỏng sinh học (Bionique), công
nghệ Nanô (Nanotechnologie) và thế giới lượng tử (Quantique). Đặc biệt là, với sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin (hiện nay, công nghệ mới cho phép một
con “chíp” gắn 200 triệu tế bào bán dẫn với công suất 1 tỷ phép tính/giây, đến năm
2010, có thể gắn 750 triệu tế bào bán dẫn /1 con “chíp” với công suất 10 tỷ phép
tính/giây), những phương tiện mới, như ngân hàng điện tử, tiền điện tử, thương mại
điện tử, dịch vụ điện tử… sẽ xuất hiện và ngày một trở nên phổ biến. Điều đó sẽ thúc
đẩy năng suất lao động tăng lên vượt bậc(1). Như vậy, có thể nói, sự phát triển như vũ
bão của khoa học và công nghệ càng chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng
duy vật, càng làm sâu sắc hơn và thể hiện một cách sinh động hơn tính vật chất và tính
biện chứng của thế giới; đồng thời, nó cũng đặt ra những cơ sở và điều kiện mới đòi
hỏi triết học Mác phải khái quát, phải được bổ sung và phát triển hơn nữa, như
Ph.Ăngghen đã nhận xét, mỗi khi có những phát minh lớn trong khoa học tự nhiên thì
chủ nghĩa duy vật sẽ không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của mình.
Từ nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có bước phát triển mới
– từ chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong phạm vi quốc gia và khu vực sang
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trên phạm vi toàn cầu (chủ nghĩa tư bản toàn
cầu hoá). Chủ nghĩa tư bản hiện đại, do có sự điều chỉnh, cải cách nội bộ để thích nghi
với hoàn cảnh mới, do tận dụng được tối đa những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại và do biết sử dụng chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá như
một công cụ điều tiết vĩ mô, vận hành nền kinh tế theo quy luật khách quan nên đã đạt

được những thành tựu to lớn về phương diện kinh tế. Trong những thập kỷ tới, chủ
nghĩa tư bản hiện đại vẫn có khả năng tự điều chỉnh và thích ứng với yêu cầu phát
triển mới của lực lượng sản xuất và do vậy, nó còn tiếp tục đem lại những thành quả
kinh tế to lớn cho nhân loại(2).

Mặc dù có bước phát triển mới và đạt được những thành tựu to lớn, song bản chất bóc
lột và bất công của chủ nghĩa tư bản không những không thay đổi, mà còn ngày càng
thể hiện một cách tinh vi và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu càng phát triển thì
tính phân cực các mặt đối lập, mâu thuẫn và những khuyết tật vốn có của nó càng
thêm trầm trọng (lao động và bóc lột, giàu và nghèo, thất học, thất nghiệp, khủng
hoảng môi trường, chiến tranh…). Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, những vấn
đề này không thể giải quyết được. Nói cách khác, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã và
đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết để từng bước thay thế nó, phủ định nó bằng
những phương thức thích hợp.
Như vậy, có thể nói, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại với những thành tựu
to lớn và những mâu thuẫn, những khuyết tật không tránh khỏi của nó đã không
những không thể làm lu mờ mà trái lại, còn làm phong phú hơn, sâu sắc hơn những
nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy vật. Đồng thời, nó còn cung cấp
những tư liệu quý báu, đòi hỏi phải được thẩm định và khái quát về mặt triết học.
1.2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử – một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội
hiện đại. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới
đã có những biến đổi to lớn và đáng “kinh ngạc”: sức sống “dai dẳng” của chủ nghĩa
tư bản hiện đại với những thành tựu to lớn của nó; sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu; sự ra đời của kinh tế tri thức đánh dấu bước chuyển từ
nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ; sự kiên trì con đường xã hội chủ
nghĩa ở một số nước và thành công vượt bậc của sự nghiệp cải cách, đổi mới ở Trung
Quốc và Việt Nam; vai trò ngày càng tăng với tốc độ liên tục của khoa học và công
nghệ; các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực; chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc,
tôn giáo và chiến tranh khu vực… Tất cả những sự biến đổi đó không mâu thuẫn và

“xung đột” với những nguyên lý và quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của nhận thức và cải tạo xã hội.
Trong xã hội hiện đại, sản xuất vật chất vẫn là nền tảng của đời sống xã hội. Nhân tố
quyết định trong lịch sử, xét đến cùng, vẫn là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã
hội. Nguồn gốc và động lực phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, xét đến cùng, vẫn

là sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ngoài ra, trong xã hội có giai
cấp thì đấu tranh giai cấp vẫn là một trong những động lực phát triển của xã hội. Sự
phát triển của xã hội từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội
khác được thực hiện thông qua các cuộc cách mạng xã hội (với những hình thức và
phương pháp cách mạng phong phú và thích hợp). Nói một cách ngắn gọn, quan điểm
của triết học Mác về hình thái kinh tế – xã hội, về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về
cách mạng xã hội, về nhà nước, về con người,… vẫn là cơ sở khoa học cho việc xem
xét và giải quyết những vấn đề căn bản của xã hội hiện đại(3).
2. Sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác
Triết học Mác không chỉ là sự kế thừa những giá trị của các hệ thống triết học trước
đó, mà điều quan trọng là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của loài người,nhất là
thực tiễn cách mạng. Chính C.Mác đã đưa phạm trù thực tiễn vào triết học và coi đó là
cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Chính
vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành nguyên tắc nền tảng của triết
học Mác. Sự thống nhất này được thể hiện cả trong thời gian lẫn không gian.
Trong thời gian, tức là theo chiều dọc của lịch sử, triết học Mác luôn thể hiện mình
trong những giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển khoa học – công nghệ, thực
tiễn sản xuất, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế qua các cuộc cách mạng xã
hội… Trong các quá trình này, triết học Mác luôn giữ vai trò định hướng thế giới quan
và phương pháp luận cho hoạt động của con người; đồng thời được thực tiễn lịch sử
“phản biện”, kiểm nghiệm, chứng minh và làm phong phú thêm bằng chính “hơi thở” của
thời đại. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, lý luận của các ông (của C.Mác
và ông) không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động.

Trong không gian, tức là theo chiều ngang của lịch sử, đó là tính sáng tạo và tính thích
nghi của triết học Mác khi được vận dụng vào thực tiễn cách mạng ở những dân tộc và
các quốc gia khác nhau. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã chỉ rõ, chúng ta tuyệt đối không
coi lý luận của Mác là một cái gì đó nhất thành bất biến và không thể xâm phạm mà trái
lại, chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho một khoa học, và những người xã hội chủ nghĩa,

nếu không muốn lạc hậu với đời sống thực tế, cần đẩy môn khoa học này tiến lên phía
trước trên mọi phương diện.
3. Sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển của hệ thống lý luận và tính ổn
định của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản
Toàn bộ các khái niệm, phạm trù, nguyên lý và quy luật của triết học Mác là hệ thống
lý luận mở và phát triển, không tự khép kín, không ngưng đọng và bất biến. Tự khép
kín, ngưng đọng, bất biến là siêu hình, tức phản biện chứng. TrongChống
Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã từng phê phán gay gắt ý đồ của Đuyrinh muốn tạo ra một hệ
thống chân lý tuyệt đối, cuối cùng.
Tính mở và phát triển của triết học Mác được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, nó luôn hướng
về thực tiễn – xã hội và lịch sử (phát triển sản xuất, cải tạo xã hội, phát triển khoa học
– công nghệ,…), hướng về thời đại, về tương lai, chứ tuyệt nhiên không phải là thứ lý
luận thư phòng và kinh viện. Sinh thời, C.Mác đã chỉ rõ rằng, mọi triết học chân chính
đều là tinh hoa tinh thần của thời đại; chúng đều cần tiếp xúc và tương tác với thế giới
hiện thực của thời đại mình. Triết học Mác là một lý luận như vậy. Nó không lảng
tránh mà luôn nhìn thẳng vào hiện thực, sử dụng thế giới quan duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật để hướng dẫn, giải quyết những vấn đề cơ bản và bức thiết
trong đời sống xã hội ở các dân tộc khác nhau; đồng thời, nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, khái quát lý luận và dự báo tương lai. Thứ hai, triết học Mác bác bỏ mọi chủ
nghĩa bè phái và luôn tỏ rõ thái độ đúng đắn với mọi triết học phi mácxít. Chẳng hạn,
khi ra đời và phát triển, triết học Mác đã không phủ định sạch trơn di sản triết học
trước đó, mà kế thừa một cách có phê phán những tinh hoa của nó để xây dựng hệ
thống lý luận của mình. Hiện nay, đối với các trào lưu triết học phi mácxít hiện đại, cả
ở phương Đông lẫn phương Tây, chúng ta cần đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy

vật biện chứng để xem xét, tiếp thu một cách có phê phán những giá trị của chúng để
mở rộng tầm nhìn, phát triển và hoàn thiện triết học Mác. Thứ ba, với tư cách phép
biện chứng duy vật, triết học Mác có khả năng tự đổi mới và phát triển. Sinh thời, cả
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều cho rằng, không có học thuyết nào đạt tới chân
lý tuyệt đích, cuối cùng và triết học Mác cũng không phải là ngoại lệ. Lập trường, thế
giới quan và phương pháp luận cơ bản của triết học Mác là kim chỉ nam cho hành

động, mở đường và chỉ dẫn cho con người tiếp tục nhận thức chân lý chứ không đi tới
chân lý tuyệt đích, cuối cùng.
Tính mở, tính phát triển của triết học Mác không mâu thuẫn mà thống nhất biện chứng
với tính ổn định của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ
bản của nó. Đây cũng là một nguyên tắc của triết học Mác. Nó đấu tranh không khoan
nhượng với chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa học phiệt, chủ nghĩa cơ hội và mọi mưu
toan hòng lợi dụng sự biến đổi của hoàn cảnh để phủ nhận triết học Mác.
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra những kết luận sau: thứ nhất, thế giới đã, đang
và tiếp tục có những biến đổi to lớn và phức tạp. Nhưng, triết học Mác với tư cách thế
giới quan và phương pháp luận khoa học vẫn là triết học của thời đại ngày nay, vẫn là
kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội (của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của các lực lượng tiến bộ
đang đấu tranh vì một thế giới hoà bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển bền vững). Thứ
hai, những quan điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng (đã
nêu ở trên) là sai lầm đáng tiếc. Bởi lẽ, chủ nghĩa Mác không phải là sản phẩm của
riêng một nền văn minh nào, càng không phải là sản phẩm của nền văn minh cơ khí,
mà là tinh hoa trí tuệ của toàn nhân loại, là “hơi thở” của thời đại (cho đến nay nhân
loại vẫn chưa có học thuyết nào cao hơn và tốt hơn thay thế nó). Những sai lầm và
thiếu sót ở các nước xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu không phải là sản phẩm của triết học Mác, mà chính là sản phẩm của
sự kết hợp “hổ lốn” giữa các loại chủ nghĩa khác nhau (siêu hình, giáo điều, kinh
nghiệm, cơ hội, chủ quan, duy ý chí, quan liêu…) và có phần đóng góp không nhỏ của
chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá. Cũng là sai lầm khi cho rằng, chủ

nghĩa Mác ra đời ở phương Tây nên chỉ ứng dụng được ở phương Tây, còn ở Việt
Nam thì không ứng dụng được. Nói như vậy chẳng khác nào cho rằng, thuyết tiến hoá
giống loài của Đácuyn chỉ có ý nghĩa riêng đối với các giống loài sinh vật ở phương
Tây. Thứ ba, yêu cầu phát triển nội tại của bản thân triết học Mác (vốn mang trong
mình bản chất khoa học và cách mạng) và đòi hỏi bức thiết của thực tiễn thời đại tất
yếu dẫn đến việc phải đổi mới lý luận triết học mácxít. Việc đổi mới lý luận này
không phải là xét lại, phủ định nó, mà là tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn bản
chất khoa học và cách mạng của nó trong điều kiện mới.

×