ISSĩtĩỉa^Ạ
m m m m
N G U YÊN TRỌNG HOÀN
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
NGỮ VĂN 9
t
(Tái bún lần tliứ tư)
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
Công ty Cổ phần Dịch vụ xuất bản Giáo dục Hà Nội Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam giữ quyền công bố tác phẩm
41 -2010/CXB/417-05/GD
Mã số: T9V36hO-C:PD
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện Chương trình Trung học cơ sở (Ban hành kèm theo Quyêt định
số CB/QĐ-BGD&ĐT ngày 24 - 1 - 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo),
môn Ngữ văn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp - trong đó
trọng tâm của yêu cầu dạy học phần Văn là Đọc - hiểu văn bản (bao gồm các
trích đoạn hoặc tác phẩm văn học trọn vẹn, các văn bản nhật dụng). Đây là
yêu cầu lần đầu tiên được gọi tên một cách chính thức trong sách giáo khoa
Ngữ văn, xác định những nội hàm cụ thể để học sinh thực hiện một chuỗi
thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, hướng tới hiệu quả hành dụng và kết
nối kịến thức với các phần Tiếng Việt, Tập làm văn.
Nhằm cung câ'p tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh về lĩnh vực
này, chúng tôi biên soạn bộ sách Đoc - hiếu văn băn (gổm bổn cuốn, tương
ứng với sách giáo khoa Ngữ văn các lớp 6 - 7 - 8 - 9). Vì đây là một lĩnh vực lí
thú và có liên quan tới nhiều bình diện của hoạt động đọc - hiểu, nên trong
mỗi cuốn sách chúng tôi sẽ trình bảy một sô vân đề có tính khái quát trước
khi thực hành đọc - hiểu văn bản Ngữ văn.
Theo đó, cuốn Đọc - hiểu văn bẩn N gữ văn 9 gồm :
- Phần một : Tiến tới một quy trình đọc - hiểu văn bẩn văn học và văn
bẩn nhật dụng Ở trường p h ổ thông, khái quát về đọc - hiểu văn bản Ngữ văn
theo đặc trưng loại thể.
- phần hai : Thực hành đọc - hiểu văn bẩn N gữ văn 9, ứng dụng quan
điểm và giải pháp đọc hiểu văn bản trong những bài cụ thể, mỗi bài được câ'u
tạo theo ba phần :
I - Gợi dẫn
II - Kiến thức cơ bản
111-L iê n hệ
Nội dung phần Gợi dẩn của mỗi bài học là chuẩn bị tâm thế, cung cấp
nhĩíng kiến thức công cụ để chiếm lĩnh mục tiêu của bài đọc - hiểu, đó là các
3
yếu tô' đặc trưng thể loại, các thông tin về tác giả, tác phẩm, đại ý, tóm tắt t và
xác định lời kể hoặc cách đọc văn bản.
Nội dung phần Kiến thức cơ bản được hình thành trên cơ sở lí giải nhíững
vấn đề (theo thứ tự hoặc tổng hợp) từ các câu hỏi của sách giáo khoa, thể
nghiệm một lô gích các thao tác tiếp cận văn bản.
Nội dung phần Liên h ệ có kết câu mở, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạing :
có thể giới thiệu một văn bản tương đương hoặc gần gũi với bài học để tạo
điều kiện cho người đọc so sánh kiến thức ; có thể cung câp một số nhận điịnh
để tham khảo cho việc đánh giá về tác giả, tác phẩm ; cũng có thể cung cấp
một bài văn, bài thơ có tính chat thực hành hoặc mỏ rộng trường liên tưởng.
*
*
*
Mục đích tìm hiểu và tính chẵt của tài liệu sẽ quy định phương thức íđọc.
Phương thức đọc - hiểu văn bản Ngữ văn chắc chắn không chỉ là điều qman
tâm của một cá nhân. Rất mong các thầy, cô giáo và các bạn học sinh trrong
quá trình sử dung cuốn sách này góp cho những ý kiên quý báu để chúng tôi có) dịp
bổ khuyết.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 7 - 2005
TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀvN
4
T^hồKi mộ+
TIẾN TỚI MỘT QUY TRÌNH
ĐỌC - HlỂu VĂN BẢN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Vấn để
Đọc là một hoạt động nhận thức nhằm hiểu nghĩa thông qua quá trình chủ
thể người đọc làm việc với văn bản. Trước văn bản, người đọc vận dụng
những kiến thức đã có cùng với những gợi ý (trực tiếp và gián tiếp, hàm ngôn
và hiển ngôn) trong bài đọc để hiểu nghĩa. Các nghiên cứu chỉ ra rằng : những
người đọc đạt được hiệu quả cao luôn có chiến lược đọc riêng. Điều này cũng
có nghĩa : phải xác định mục đích rõ ràng trước khi đọc, duy trì và kiểm soát
mục đích đó trong suốt quá trình đọc và ứng đụng việc đọc cho phù hợp với
môi mục đích và nhiệm vụ của bài đọc. Tuy nhiên, người đọc có chiến lược là
người biết linh hoạt vận đụng và lựa chọn hợp lí nhât các kĩ năng khác nhau
khi tìm hiểu nghĩa của văn bản.
Chiến lược đọc là một kế hoạch hỗn hợp mà người đọc sử dụng để đạt
đến mục tiêu cụ thể và hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra. Khi người đọc lưa chọn
và sử dụng chiến lược đọc một cách tư giác, họ đã đạt được sư độc lập trong
cách đọc. Các nghiên cứu đã chỉ ra : người đọc phải phát triển việc sử dụng
các kĩ năng làm phương tiện hỗ trợ trong quá trình đọc hiểu, muốn vậy, họ
phải dược chỉ đẫn, sử dụng các chỉ dẫn để trở thành người đọc thành thục,
qua đó họ có được sự độc lập trong quá trình đọc và có thể sử dụng kĩ năng
đọc đó trong việc học tập và thưởng thức các giá trị cuộc sông. Việc học cách
sử dụng các chiến lược đọc là điều có ý nghĩa quyết định đôi với mọi người
đọc. Không có chiến lược đọc, thường vấp phải khó khăn trong quá trình
tiếp cận văn bản.
ơ nước Anh, trước giờ học, học sinh phải tự tóm tắt thông tin trong sách
giáo khoa, đến lớp trình bày lại tóm tắt đó để bạn bè và giáo viên cùng góp ý
5
về kiến thức mà học sinh đã chuẩn bị sẵr/1). Còn ở Hàn Quốc, trong; giè* học,
đa sô" giáo viên chọn cách giảng "ngoài lề" nhiều hơn những điều đã
C ió
sẵn
trong sách giáo khoa, bởi vì họ cho rằng : sách giáo khoa là đỉều học sinhi hiển
nhiên phải biết, phải đọc. Đồng thời, để tăng cường hứng thú và đỊnti hìinh ấn
tượng, bài giảng của giáo viên thường được xen lẫn những câu chuyệ-n, nihững
đoạn phim minh hoạ, gợi mở. Kết thúc mỗi bài học, giáo viên cho học: sinh
đọc thêm một câu chuyện ngoài sách giáo khoa và giáo viên yêu cầ u "t)hứ vẽ
một bức tranh hiện ra trong đầu khi các em đọc bài..." để học sinh miở rộ’ng trí
tưởng tượng^).
2. Một sô' chỉ dẫn vê đọc
Việc đọc bao giờ cũng gắn liền với các phản ứng tâm lí nhằm đáp ứng
(nhận thức) về một điều gì đó thông qua quá trình đọc và nghe. Quá trìnih này
bắt đầu trước khi nghe đọc, diễn ra trong và sau khi đọc. Xô-đăng-b<ơ-nan
trong nhiều năm nghiên cứu đã chỉ ra rằng người đọc bao giờ cũng tiự xây
dựng cho họ một sư hiểu biết thông qua việc làm quen với văn bả n. KChi có
những phản ứng làm quen với văn bản đọc và nghe thì phản ứng ấ\y gimp họ
phát triển khả năng hiểu biết sâu hơn và giúp cho họ kết nối chúng v ới rìihững
kinh nghiệm cá nhân mà người đọc đã có. Thông qua quá trình này ngư ỡi đọc
sẽ hiểu các văn bản đọc.
Những phản ứng dạy học sinh đọc và viết được thể hiện qua việc kết nối ý
tưởng với kinh nghiệm sẵn có. Hoạt động phản ứng thứ nhất sẽ curv.g cấ p cho
người đọc cơ hội để nối kết những nội dung văn bản với kinh mghiệm cá
nhân. Thông qua quá trình đó, học sirth hình thành kĩ năng và kũnh nhiệm
mới cho chính mình, mở rộng sự hiểu biết và phát triển khả năng bao) quát
trong quá trình đọc. Thông qua việc hiểu văn học, người đọc hìtnh thành
những cách thể hiện văn bản viết. Chính trong quá trình này, học sinìh sẽ được
củng cố thêm sự hiểu biết về văn bản đã đọc. Các nhà nghiên cứu cho irằng :
người đọc bao giờ cũng thích ứng, phản hồi kết quả tiếp xúc vớii vă.n học
bằng nhiều cách. Qua kể lại tóm tắt, phân tích, tổng hợp, người đọc sẽ khám
phá được những cấp độ nghĩa khác nhau của văn bản. Trẻ em ở tutổi nihỏ có
khả năng phản ứng lại những điều vừa nói ở mức độ rất đơn giản. Khi ìngười
(1) Lê Vũ, theo Straits Times, báo Giáo dục Thành phô'H ồ Chí Minh, số 21,13 - 11 - 2003.
(2) Lê Vũ, theo Straits Times, báo Giáo dục Thành phô'H ồ Chí Minh, số 22, 17 - 11 - 2003.
6
đọc có kinh nghiệm hơn, ki năng nảy tinh tế hơn ihông qua việc phân tích và
đánh giá văn bản. Viết là một hình thức hồi đáp lại đối với văn bản. Thông
qua các bài viết, học sinh học cách sáng tạo văn bản và điều đó giúp các em
phát triiển khả năng suy nghĩ có phê phán.
Việ*c đọc thường diễn ra theo các bước cơ bản sau : học sinh đọc thầm, học
sinh nghe giáo viên hoặc nghe bạn trong lớp đọc, đọc thành tiếng. Việc đọc
thành tiếng đặc biệt có nghĩa khi người đọc biết dừng lại mỗi lần gặp phải
một từ mới và khó, lấy đó làm căn cứ để chú ý, tập trung thảo luận. Sau khi
đọc, giáo viên giúp học sinh tham gia hội thoại (trao đổi) về văn bản đọc.
Những thảo luận về bài học sẽ giúp học sinh có điều kiện tích luỹ kiến thức về
tử mới và các khái niệm liên quan tới nội đung đọc - hiểu, gắn nó với kinh
nghiệmi hiểu biết trước đây. Trong hoạt động này, học sinh được học từ mới
gián tie'p khi nghe và nhìn thấy từ được sử dụng trong những tình huống khác
nhau, v í dụ qua hội thoại, qua nghe người khác đọc và qua chính bản thân
mình đ ọc.
Hiếu vừa là nguyên nhân, vừa là mục đích của việc đọc. Khi nào người
đọc chưa hiểu được văn bản thì đó chưa phải là quá trình đọc. Trong khi đọc,
học sinỉh đồng thời nhận ra nghĩa của những điều đang đọc, tham gia một quá
bình plhức tạp, vận dụng kiến thức đã biết để đọc (hiểu biết về từ vựng, cấu
trúc vă,Ti bản, kĩ năng đọc) thây nghĩa của văn bản. Muôn đạt được điều đó,
với mỗi bài đọc, phải được đặt dưới sự kiểm soát của các câu hỏi, nhằm :
1. Hướng học sinh vào mục tiêu bài đọc, 2. Tập trung sư chú ý của học sinh vào
nội dưng bài đọc, 3. Giúp học sinh suy nghĩ tích cực trong khi đọc, 4. Khuyến
khích hoc sinh kiểm soát được quá trình đọc - hiểu, 5. Giúp học sinh hình dung
tông th<ể nội dung bài đọc và liên hệ (gắn kết nó) với kinh nghiệm đã có.
ĐỌ(S văn chương cỏ nghĩa là tháo gỡ mã của các: kí hiệu văn chương trong
văn bản, là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thồng qua các cấu trúc của văn bản
(cốt truyện, kết câu, nhân vật, đối thoại, không gian, thời gian, V.V.). Đọc là
mã hoái cách đọc, là tổng hợp các khâu của việc đọc, phát biểu cảm tưởng,
phân tí
trước h<ết, là phát hiện, trong văn bản và từ văn bản, một thế giới khác, những
con ngtười khác. Người đọc sống trong thế giới tưởng tượng của mình, xây
dựng Ciho mình, thông qua tác phẩm, một xứ sở riêng. Đọc là một hoạt động
tích cực ; người đọc "nhập cuộc", "hoá thân", với những cảm xúc riêng của
7
mình, những kỉ niệm, kí ức, khát vọng riêng. Đọc có nghĩa là chuyển đổii tác
phẩm nghệ thuật thành một vũ trụ tình cảm, cảm xúc, tư duy, hình tưíỢĩng
riêng của người đọc. Đọc văn chương là một khoa học mà đối tượng là nguròi
đọc, người tiếp nhận vần b ản "^.
3.
Tiến tới xây dưng m ô t quy trình đoc - h iểu v ăn bản N gữ v ă n ớ trưíờng
p h ổ thông
Trong phần mở đầu của các cuốn sách Đọc - hiểu văn bẩn N gữ văm đã
xuất bản và một số bài trên tạp chí Văn học và tuổi trẻ, N ghiên cứu giáo dục,
chúng tôi đã có điều kiện trình bày vấn đề này từ góc độ khái quát ( Ké' qjwan
niệm và giải pháp đọc - hiểu văn bản N g ữ vărP^ đến các góc độ cụ thể (Aíiột sô'
vâh đọc - hiểu thơ văn trữ tình và tác phẩm văn chương nghị luậrP\ M ót s ố
vấn đ ề về đọc hiểu kịch bẩn văn họé^\ Một sô' vâh đ ề về đọc - hiểu tác p.ihém
kí, tác phẩm truyện hiện đại,... Cốt lõi của vấn đề đọc - hiểu mà chúng tô>i đã
trình bày là : việc đọc gắn liền với tài năng, phong cách tác giả ; gắn liền Văn
bản với vấn đề loại thể, chú giải văn bản và mở rộng các lớp nghĩa từ văn bản.
Theo đó, quy trình đọc hiểu văn bản ngữ văn chúng tôi đã trình bày theo một
cấu trúc gồm ba phần chính : Gợi dẫn, Kiếù thức cơ bản và Liên h ệ (vớii nội
hàm của từng phần như đã nêu trong Lời nói đầu của mỗi cuôn sách), tirong
đó nhiệm vụ của mỗi phần đều được xác định cụ thê’ (ví dụ : phần tóm tắt văn
bản gồm Tổng quan ý chứứì, Liên kết các ý cơ bản, Lược bỏ những ứìôrtịg từi
không cần ửiiết, Ghi n h ớ nhữn g điều đã đọc,...).
Phải nói rằng : có rất nhiều yếu tô' liên quan đến hoạt động đọc - Iniểu,
song chắc chắn nội hàm của khái niệm đọc không thể tách rời với hiểu. Mỗi
quan niệm về đọc sẽ quy định (hoặc lựa chọn) từng thao tác kĩ thuật đọc như
đọc lướt, đọc chi tiết,... các hình thức đọc như đọc thầm, đọc thành tiếng,.... Đó
là chưa kể, trong văn học, còn có thể đọc bằng "con mắt bên trong", đọc Ibằng
hồi ức, liên tưởng, tưởng tượng. Tuy nhiên, dù đọc bằng hình thức nào, Ibằng
thao tác kĩ thuật gì cũng xem nhiệm vụ khai thác thông tin là ưu tiên sô" nr>ột,
lấy đó làm điểm tựa để thông hiểu kiến thức mà văn bản chuyển tải.
(1) Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.
(2) Đọc - hiểu văn bẳn N gữ văn 6, NXB Giáo dục, 2003.
(3) Đọc - hiểu văn bản N gữ vân 7, NXB Giáo dục, 2004.
(4) Đọc - hiểu văn bản N gữ văn 8, NXB Giáo dục, 2005.
8
"Pkám k a i
THựC HÀNH ĐỌC - HlỂu
VẢN BẢN NGỮ VĂN 9
PHONG CÁCH HỔ CHÍ MINH
(Lê Anh Trà)
I - GỢI ÍDẢN
1. Xuiât xứ :
Phomg cách Hồ Chí Minh là một phần bài viết Phong cách H ồ Chí Minh,
cái v ĩ đ ạ i %ắn với cái giản dị củ a tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách H ồ
c lĩí Miriih và vần hoá Việt Nam (Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990).
2. Tốíc phẩm :
Mặc đù rất am tường và chịu ảnh hưởng nổn văn hoá nhiều nước, nhiều
vùng trôn thế giới nhưng phong cách của Hổ Chí Minh vô cùng giản dị, điều
đó được thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt của Người : nơi ở chỉ là một
ngôi nhíẳ íàn nhỏ bé với những ctồ đạc mộc mạc, trang phục đơn sơ, ăn uống
đạm bạc:.
3. Tcôm t ắ t :
Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đưa ra luận điểm then chô't :
Phong ciách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân
loại/ giữra Tuyền thông vả hiện đại, giữa sự vĩ đại và giản dị.
Để liàm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận
chặt chẽ':, 'ới những đẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình
hoạt động cách mạng, khả năng sử đụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao
trc>ng CUỊỘC sông sinh hoạt hằng ngày của Bác.
9
4. Cách đọc :
Đọc bài văn bằng giọng chậm rãi, trang trọng, chú ý nhấn mạnh nhữnịg từ
ngữ thể hiện chủ đề : Chủ tịch Hồ Chí Minh - "một nhân cách râ't Việt Níam,
một lôi sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng ckồng
thời rất mới, rất hiện đại".
II - KIẾN THỨC C ơ BẢN
Trong bài thơ N gười đi tìm hình của nước, Chế Lan Viên v iế t:
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chôhg lại cả một m ùa băng giá...
Đó là những câu thơ viết về Bác trong thời gian đầu của cuộc hành trrình
cứu nước gian khổ. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa có ý khái quát sAui xa.
Sự đôi lập giữa một viên gạch hồng giản dị với cả một mùa đông băng gieấ đã
phần nào nói lên sức mạnh và phong thái của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại. 'Sau
này, khi trở về Tổ quôc, sống giữa đồng bào, đồng chí, dường như chúrtỊg ta
vẫn gặp con người từng bôn ba khắp thế giới ấy :
N hớ N gười nh ững sáng tinh sương
Ung dun gỵ ên ngựa trên đường suôi reo
N hớ chân N gười bước lên đèo
N gười đi, rùng n ú i trông theo bóng Người.
( Việt Bắc - TỐ Hữu)
Còn nhiều, rât nhiều những bài thơ, bài văn viết về cuộc đời hoạt đtộng
cũng như tình cảm của Bác đôi với đất nước, nhân dân. Điểm chung nổi bật
trong những tác phẩm ấy là phong thái ung dung, thanh thản của một ng;ười
luôn biết cách làm chủ cuộc đời, là phong cách sống rất riêng : phong cách
Hồ Chí Minh.
Với một hệ thông lập luận chặt chẽ và những dẫn chứng vừa cụ thể vừa
giàu sức thuyết phục, bài nghị luận xã hội của Lê Anh Trà đã chỉ ra sự th>ô'ng
nhất, kết hợp hài hoà của các yếu tố : dân tộc và nhân loại, truyền thống; và
hiện đại để làm nên sự thông nhẵt giữa sự vĩ đại và giản dị trong phong cách
của Người.
10
Cách gợi mở, dẫn dắt vân đề cứa tác giá rât tư nhiên và hiệu quả. Đê lí
giải sự thống nhất giữa dân tộc và nlìân loại, tác gia đà dẫn ra cuộc đời hoạt
động dầy truân chuyên, tiếp xúc với văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trôn thê
giới.ễ. Kết luận được đưa ra sau đó hoản toàn hớp lô gích : "Có thể nói ít có
vị lành tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá
thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh... Người củng chịu ảnh hưởng của
tãt cả các nền văn hoá, đã tiếp thu mọi cái đẹp và cái hay...". Đó là những căn
cứ xác đáng để lí giải về tính nhân loại, tính hiện đại - một vế của sư hoà hợp,
thống nhất trong phong cách Hồ Chí Minh.
Ngay sau đó, tác giả lập luận : "Nhưng điều kì lạ là tất cả những ảnh
hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay
chuyên được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống
rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất
hiện đại...".
Dây có thể coi là lập luận quan trọng nhất trong bài nhằm làm sáng tỏ
luận điểm chính nói trên. Trong thực tế, các yếu tố "dân tộc" và "nhân loại",
“truyền thống" vả "hiện đại" luôn có xu hướng loại trừ nhau. Yếu tô' này trội
lẽn sẽ lấn át yếu tô' kia. Sự kết hợp hài hoà của các yếu tô' mang nhiều nét đối
lập ấy trong một phong cách quả lả điều kì diệu, chỉ có thể thực hiện được bởi
một yếu tô" vượt lên trên tất cả : đó là bán lĩnh, ý chí của một người chiến sĩ
cộng sản, là tình cảm cách mạng được: nung nấu bởi lòng yêu nước, thương dân
vô bờ bến và tinh thần sẵn sàĩìịỊ quổn mình vì sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh là
người hội tụ đầy đủ nhửng phẩm chât đó.
De củng cố cho lập luận của mình, tác giả đưa ra hàng loạt đẫn chứng.
Những chi tiết hết sức cu thể, phổ biến : đó là ngôi nhà sàn, là chiếc áo trân
thủ, đôi dép lồp đã từng đi vảo thơ ca như một huyền thoại, là cuộc sông sinh
hoạt hằng ngày, là tình cảm thắm thiết đôì với đồng bảo, nhất là với các em
thiêu nhi,... cũng đã trở thành huyền thoại trong lòng nhân dân Việt Nam. Với
những dẫn chứng sống động ấy, thủ pháp liệt kê được sử dụng ở đây không
nhưng không gây nhàm chán, đớn điệu mà còn có tác tỉụng thuyết phục hơn
hán những lời thuyết lí đài dòng.
Trong phần cuối bải, tác giả đã khiến cho bài viết thêm sâu sắc bằng cách
kết nối giữa quá khứ với hiện tạiẽ Từ nếp sống "giản dị và thanh đạm" của
Bác, tác giả liên hệ đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm - các vị "hiền triết"
của non sông đất Việt :
11
Thu ăn m ăng trúc> đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao...
Đây cũng là một yếu tố trong hệ thống lập luận của tác giả. Dẫu các y/ếu
tô> so sánh không thật tương đồng (Bác là một chiến sĩ cách mạng, là Chủ ttịch
nước trong khi Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm được nói đến trong tlhời
gian ở ẩn, xa lánh cuộc sống sôi động bên ngoài) nhưng vẫn được vận tỉụing
hợp lí nhờ cách lập luận có chiều sâu : "Nếp sống giản dị và thanh đạm ccủa
Bác Hồ, cũng như các vị danh nho xưa, hoàn toàn không phải là một Qắchì tự
thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, hơn đời, mà đây là lốì sông thanh ccao,
một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sông, có kchả
năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác"ẻ
Bài văn nghị luận này giúp chúng ta hiểu sâu thêm về phong cách của ỈBác
Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá của thế giớyi.
Ill - LIÊN HỆ
H ồ CHÍ MINH, TÊN NGƯỜI LÀ CẢ MỘT NIỀM THƠ
BỞi vì Người, Ch ủ tịch H ồ Chí Minh
Nhà thơ H ồ Chí Minh
N gười nông dân Việt Nam trong sáng H ồ Chí Minh.
Bẩy m ươi tám năm gần trọn cả đời mình tranh đâu.
Vì N gười đã hi sinh từ bỏ mọi tên
đ ể ch ỉ còn là một giọng nói, một hơi thở, một cái nhìn
Đ ể ch ỉ còn là - có g ì đâu khác - là đất nước,
là máu xương TỔquốc ;
Bởi vì N gười đau nổi đau của những vết thương trên mình m ối em bé
Việt Nam bị quỷ "Yan- ki" giết chết,
Khi giặc lái của lầu năm góc phá đ ổ m ôi ngôi nhà, thì lòng N gười
bỗng nhiên nh ư sụp mái.
12
BỞi vì trong mỗi xóm nhỏ tan hoang vì bơm na-pan M ĩ
Một manh tim Người tư cháy xót Xcì!
H ồ Chí Minh, tên Người là một niềm thơ.
BỞi vì N gười đả đói mọi cơn đói ngày xưa
Vì N gười dã chết hai triệu lần năm đói bốn nhầm khủng khiếp>
Bời vì N gười đả mặc lên mọi tấm áo xác xơ
đã đi chân đất với mỗi dôi chân trần của người dân ma t nước ;
BỞi vì N gười đã chứa chất nỗi tủi nhục của mọi người cùng cực ;
BỞi vì N gười dã từng chịu đau nối roi vọt đánh vào dân tộc.
Thuở bọn thực dân Pháp
hoà trộn than Hồng Gai với máu người thợ mỏ,
cao su miền Nam với máu người phu đất dỏ
lúa gạo đồng bằng với mấu nông dân,
dê biến thành vàng bạc gâp trăm.
BỞi vì lòng N gười héo hon khi nắng hạn
Với ruộng đồng chết khát năm lại qua năm,
Và N gười m ang cây lại trong lòng mình
n iô i câ y lú a ch ết ngụt Vỉ m ực rì ước trắng b ờ !
Hô Chí Minh, tên N gười là cả một niềm thơ.
BỞi vì N gười đã sống cùng người phu Quảng Châu Thượng Hải,
và đo được m ức tận cùng đói rách,
và Ở Nam Phi, N gười cũng dược rách đói tận cùng
của những người Ân cùng đinh sang đó
tìm m iếng cơm nuôi sống qua ngày.
BỞi vì N gười đã đến với dân lao động
tự đào huyệt chôn mình khi vét dòng kênh Pa-na-ma.
Và n h ư thê' N gười đã nhận ra rằ n g :
Bâ't cứ Ở đâu, con người cũng ch ỉ là một và đói k h ổ cũng ch ỉ là một,
Và N gười cũng b iết: Ở đâu cũng một lòng căm uâ't,
và đường đi ch ỉ có một mà thôi.
BỞi vì tất cả những điều đó và nhiều điều khác nữa
Mà lời nói khó lòng chứa đựng ;
BỞi vì đôi với N gười thì phẩm giá con người
Còn cao hơn cả m iêhg cơm, danh vọng
Cao hơn cả trường tồn cuộc sống.
H ồ Chí Minh, tên N gười là cả m ột niềm thơ.
Có th ể ca ngợi N gười n h ư ca ngợi biển cả, nú i cao,
n h ư ca ngợi sông cửu Long, sông H ồng Hà.
Nói tới N gười là nói tới Vịnh Hạ Long, Điện Biên Phủ,
Chùa Một Cột, là nói những ruộng đồng đỏ ánh p h ù sa.
Có th ể nói tới N gười bằng hết thảy những lời tương tự,
khi nói tới cây nhãn và cây tre x ứ SỞ.
BỞi vì ca ngợi Người, Chủ tịch H ồ Chí Minh,
Nhà thơ H ồ Chí Minh
N gười nông dẫn Việt Nam trong sá n g: H ồ Chí Minh,
là ca ngợi đất nước Việt Nam tươi đẹp và đau thương
ca ngợi nước Việt Nam mà dáng dấp
không còn là chiếc đòn tre gánh m ỏi đầu một thúng
mà là một hình dáng vinh quang của cửa ngõ có m ột không hai,
đ ể đi vào thểgiới tương lai.
PHÊ-LÍCH PI-TA RÔ-ĐƠ-RI-GHẾT (Caba)
HOÀNG HIỆP dịch
14
ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH
(G.G. Mác-két)
I - GỢI DẪN
1. Tác giả :
ÍJhà văn Cô-lôm-bi-a G.G. Mác-két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm
1928 Năm 1936, tốt nghiệp tú tài, ông vào học ngành Luật tại Trường Đại học
Tổng hợp Bô-gô-ta và viết những truyện ngắn đầu tay.
Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két là tác giả của nhiều tiểu thuyết theo khuynh
hướng hiện thực huyền ảo nổi tiếng. Ông từng được nhận Giải thưởng Nô-ben
văn học năm 1982.
G. G. Mác-két có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nhưng nổi tiếng nhất là
cuốn Trăm năm cô đơn (1967) - tiểu thuyết được tặng Giải Chianchianô của
I-ta-li-a, được Pháp công nhận là cuốn sách nước ngoài hay nhất trong năm,
đưực giới phê bình văn học ở Mĩ xếp là một trong 12 cuốn sách hay nhât trong
những nàm sáu mươi của thế kỉ XX.
Toàn bộ sáng tác của G. G. Mác-két xoay quanh trục chủ đề chính : sự
cô íỉơn - mặt trái của tình đoàn kết, lòng thương yêu giữa con người.
2. Tác phẩm :
Văn bản Đấu tranh cho m ột th ế giớ i hoà bình trình bày những ý kiến của
tác giả xung quanh hiểm hoạ hạt nhân, đồng thời kêu gọi thế giới nỗ lực hành
động để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ về một thảm hoạ có thể huỷ diệt toàn bộ
sư sống trên trái đất.
3. Tóm tắ t:
Dây là một bài văn nghị luận xã hội. Tác giả nêu ra hai luận điểm cơ bản
có liên quan mật thiết với nhau :
- Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất.
- Nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là phải ngăn chặn nguy cơ đó, đồng
thời đâu tranh cho một thế giới hoà bình.
Đê làm sáng tỏ hai luận điểm trên, tác giả đã đưa ra một hệ thống lập
luận chặt chẽ, đặc biệt là những dẫn chứng rất cụ thể, xác thực, giàu sức
thuyết phục.
15
4. Cách đọc :
Bài văn có giọng tranh luận, đối thoại ngầm, hệ thông lập luận, dẫn (Chứng
râ't ngắn gọn, súc tích, có sắc thái khẳng định mạnh mẽ. Vì thế, cần thcê hiện
giọng đọc mạnh mẽ, dứt khoát, rõ ràng từng ý, từng câu.
II - KIẾN THỨC C ơ BẢN
Chúng ta đang sông trong một thế giới mà trình độ khoa học kĩ thuật
đang phát triển với một tốc độ đáng kinh ngạc : những thành tựu củat ngày
hôm nay, rất có thê’ chỉ ngày mai đã thành lạc hậu. Đã từng có những ý kũẽn bi
quan cho rằng : trong khi của cải xã hội tăng theo cấp số cộng thì dân ssố trái
đâ't lại tăng theo cấp số nhân, con người sẽ ngày càng đói khổ. Tuy nhiêm, nhờ
có sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của cải xã hội ngày' càng
dồi đào hơn, số người đói nghèo ngày càng giảm đi...
Đó là những yếu tô' tích cực trong sự phát triển của khoa học mà phẩần lớn
chúng ta đều nhận thây. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó thì hầm như
rất ít người có thể nhận thức được. Bài viết của nhà văn Gác-xi-a Mác-lkét đã
gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh nhân loại trước nguy cơ đang hiệin hữu
của một cuộc chiến tranh hạt nhân thảm khốc có khả năng huỷ diệt toàn bộ sự
sống trên hành tinh xanh mà phương tiện của cuộc chiến tranh ấy - rnỉỉa mai
thay - lại là hệ quả của sự phát triển khoa học như vũ bão kia.
Vân đề được khơi gợi hết sức ấn tượng : "Chúng ta đang ở đâu ? Hôim nay
ngày 8 - 8 - 1986, hơn 50 000 đầu đạn hạt nhân đã được bô' trí trên khắp> hành
tinh. Nói nôm na ra, điều đó có nghĩa là mỗi người không trừ trẻ con, đang
ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ : tất cả chô đó nổ tung lên sẽ làm biéến hết
thảy, không phải một lần mà là mười hai lần, mọi dấu vết của sự sốnịg trên
trái đất".
Sức tác động của đoạn văn này chủ yếu bởi những con số thống kộ cụ
thể : 50 000 đầu đạn hạt nhân ; 4 tấn thuốc nổ ; không phải một lần mà là
mười hai lần,... Thông điệp về nguy cơ huỷ diệt sự sống được truyền tíải với
một khả năng tác động mạnh mẽ vào tư duy bạn đọc. Không chỉ có thế, tíác giả
còn mở rộng phạm vi ra toàn hệ Mặt Trời, dẫn cả điển tích trong thẩn thoại
Hi Lạp nhằm làm tăng sức thuyết phục.
Trong phần tiếp theo, tác giả đưa ra hàng loạt so sánh nhằm thể hiiện sự
bất hợp lí trong xu hướng phát triển của khoa học hiện đại : tỉ lệ phục V'ụ cho
16
viộc nang cao đời sống nhân loại quá thấp trong khi tỉ lệ phục vụ cho chiên
tranh lại quá cao. vẫn là những con so thông kê đầy sức nặng :
100 tỉ đô la cho trẻ em nghèo khố tương đương với 100 máy bay ném
bom chiến lược B.1B hoặc dưới 7 000 tên lửa vượt dại châu ;
Giá 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện chương trình
phòng bệnh trong cùng 14 năm, bảo vệ cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét;
Hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân lả đủ tiền xoá nạn mù chữ cho
toan thế giới...
Dó là những con số vượt lên tren cả những giá trị thống kê, nó còn có giá trị tố
cáo bởi điều nghịch lí là trong khi các chương trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc
chắc chắn trở thành hiện thưc thì các chương trình cứu trợ trẻ em nghèo hay xoá nạn
mu chữ chỉ là sự tính toán giả thiết vả không biết đến bao giờ mới trở thành hiện
thực. Trong khía cạnh này thì rõ ràng là khoa học đang phát triển ngược lại những
giá trị ĩứìân văn mà từ bao đời nay con người vẫn hằng xây dưng.
Vẫn bằng phép suy luận lô gích và những con sô' thông kê nóng bỏng, tác
giá đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm : sự phát triển vũ khí hạt nhân không
chi đi ngược lại lí trí của con người mà còn đi ngược lại lí trí tự nhiên. Sự đối
lập khủng khiếp giữa 380 triệu năm, 180 triệu năm, bốn kỉ địa chất (hàng chuc
triệu năm) với khoảng thời gian đủ để "bấm nút một cái" đã phơi bày toàn bộ
tính chất phi lí cũng như sự nguy hiểm của chương trình vũ khí hạt nhân mà
các nước giàu có đang theo đuổiệ Bằng cách ây, rất có thể con người đang phủ
nhận, thậm chí xoá bỏ toàn bộ quá trình tiến hoá của tự nhiên và xã hội từ
hàng trăm triệu năm quaếĐó không chỉ là sự phô phán mà còn là sự kết tội.
Dó là toàn bộ luận điểm thứ nhât, chiếm đên hớn ba phần tư dung lượng
của bài viết này. ơ luận điểm thứ hai, thủ pháp tưđng phản đã được vận dụng
triệt đỏ. Ngay sau lời kết tội trên đây, tác giả kêu gọi :
"Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem lại tiếng nói của
chúng ta tham gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới
không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng. Nhưng dù chojtai hoạ
xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ỏ đây cũng fchojng: phải:làívVÔl&h!V
!
7
Ị
TH O Ĩ^G ềT ìtlắ%l-ỈƯV!Ệf'; ị
ị ,"-u ' V ' *
H iò n q
Đó không hăn là một lời kêu gọi thống thỊết và mạnh m ẽ;toty rthiên kỉỊông
vì thế mà nó kém sức thuyết phục. Chính điỊí
t đã
tạo nên hiệu quả cho luận điểm thứ hai này. I^hữn^ỉĩời^keti/gĐi eiíatác giả gần
i r»' /
2A. ĐỌC-HIỂU VB NGỪVẢN 9
..... Ế-------------- 1 7
nõni/.uU
_Jỉ
như những lời tâm sự nhưng thấm thìa tận đáy lòng. Chưa hết, tác gi.ả còn
tưởng tượng ra tân thảm kịch hạt nhân và đề nghị mở "một ngân hàng luíu trử
trí nhớ". Lời đề nghị tưởng như không thực ấy lại trở nên rất thực trong hoàn
cảnh cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Trong luận điểm thứ hai này, tác giả hầu như không sử dụng mộ t dẫn
chứng hay một con số thông kê nào. Nhưng cách dẫn dắt vân đề, lời tâirri sự
tha thiết mang âm điệu xót xa của tác giả đã tác động mạnh đến lươing tri
nhân loại tiến bộ. Tác giả không chỉ ra thế lực nào đã vận dụng những, phát
minh khoa học vào mục đích xấu xa bởi đó dường như không phải lài mục
đích chính của bài viết nhưng ông đã giúp nhân loại nhận thức được ng uy cơ
chiến tranh hạt nhân là hoàn toàn có thực và ngăn chặn nguy cơ đó, đồnjg thời
đâu tranh cho một thế giới hoà bình sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhâ't của nhân
loại trong thế kỉ XXI.
Ill- L I Ê N HỆ
ĩ.
LỜI TRÁI ĐẤT
Tôi vốn nhỏ và ngày diêm bé nhỏ
Khi sô'người đông thềm, đầu óc to thêm
Từng giật mình hai ngàn năm trước
ệ
Khi Ác-si-mét đòi kích bắỵ tôi lên
Cũng may điểm tưa, cánh tay đòn ông chưa tìm tlĩâỳ được
Tôi còn quay theo quỹ đạo tự nhiên.
Trăm năm trước đâu còn yên tĩnh nữa
Lần đầu nghe chất n ổ Nô-ben.
Tôi bé nhỏ, người ơi, tôi bé nhỏ
C hỉ một giây thôi sóng điện tử chạy quanh xích đạo bảỵ vông
Tôi chỉ là quả cam xanh ữong tiong con ĩĩĩắt các nhà du hành Vìũ trụ
Với hệ mặt trời, tôi ch ỉ là điện tử
Là hạt bụi phiêu diêu giữa vô tận, vô cùng.
18
2B. ĐỌC-Hlếu VB NCSỮ VÀN 9
Tôi bé nhỏ và tôi không bền vững
Hãy hình dung quả trứng luộc nửa chừng
Lớp lòng trắng vừa se se đông lại
N hưng hãy nhìn lòng đỏ phía trong
Là cha t lỏng d ễ dàng tung toé chảy
Tự tôi phun nham thạch bao lần
Tự lòng tôi dọc ngang bao nội lưc
Làm thân hình méo mó với thời gian.
Dù bé nhỏ và m ong manh n h ư tíìế
Trước yêu tin tôi làm nhà, làm m ẹ
Đe nâng niu năm tỉ con người
Ánh mặt trời có cầu vồng bẩy sắc
Đẹp đâu bằng màu da các con tôi
N hững đứa con tôi yêu thương đều khắp
Luôn trở trăn chia ánh sáng mặt trời
Không thương m ẹ sao các con xung khắc
Bao k ỉ nguyên máu, nước mắt trào sôi
Đâu tại m ẹ sao có con trách móc ế*
"Trái Đất hdi, ăn g ì mà khát quá
Uống toàn nước mắt với máu tươiữ'^\
Lỗi lầm Hi-rô-si-ma làm sao quên được
Các hành tinh sẽ châ t vâh con người !
H ỡi đàn con đông đúc của tôi ơỉ
Trái Đât diệu kì thêm khi xuất hiện những cái đầu quá cỡ
(1) Thơ pê-tơ-phi - nhà thơ Hung-ga-ri (1823 - 1849).
19
Trái Đât củng mong manh thêm chính vì điều đó
Nếu phát minh muốn huỷ diệt con người
Khi Trái Đất chảng còn là nơi Ở
Quỹ đạo nào cho nhân loại chơi vơi ?
H ết cấy xanh, n ú i non tràn nham thạch
Phóng xạ trào n h ư sóng biển khơi
Nhà thơ Ơ Ihãy n g h ĩ đi, khi đó
Thơ cho ai khi nhân loại không n gười ?
Hoạ s ĩ ơi, đã đến lúc vẽ tôi
Với dâu hiệu một chiếc cốc thuỷ tinh lật ngửa
Đ ể nhắc nhở con n g ư ờ i: Coi chừng, d ễ vỡ
Và nói lòng tôi khao khát muôn đời .ẳ
N hững màu da dưới ánh mặt trời
Tìm gặp nhau với bàn tay nâng cốc ẵf
VƯƠNG TRỌNG
(Rút từ tập Ngoảnh lại, NXB Thanh niên,
Hà Nội, 2001)
2.
"Tôi đã đọc đi đọc lại bức thư của bạn. Xê-rê-na yêu quý, tôi b’iêt và
hiểu những gì đang diễn ra trên đất nước Pa-le-xtin của bạn. Bạn biôt khiông ?
Mới đây thôi, tôi vừa được xem một chương trình truyền hình về đất nưỡc yêu
quý của bạn. Những đôi mắt trẻ thơ trong vắt, đọng đầy nước mắt củct gió cát
và nắng cháy sa mạc qua các ô lưới s ắ t; những bàn tay bé nhỏ giơ lên hứinị; lấy
từng giọt nước ; những tiếng khóc của trẻ sơ sinh ; cái đ ó i; cái khát, nhữmg lều
vải tị nạn chông chênh có thể đổ xuống bất cứ lúc nào,... tất cả đã in đậm
trong trí óc của tôiề Tôi thương bạn nhiều lắm, Xê-rê-na ạ. Đất nước củia bạn
còn bao khó khăn và đang có xung đột. Những hình ảnh đó chợt gỢi hại cho
tôi quá khứ của Việt Nam - đất nước anh dũng của tôi. Việt Nam đã tríải qua
rất nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập đầy cam go. Trẻ em Việt Nam cũing đã
từng* phải chiến đấu với cái đói, cái khát và giặc xâm lược... Bạn còm nhớ
những gì bạn đã viết cho tôi không ? Bạn ước mơ có một ngôi nhà thiưc sư
20
cunjr jria (iình, muốn được tiếp tuc đến trường mà xã hội đành cho, được vui
chới trong yên bình,... Vậy mà Xê-rê-na ơi, những ước mơ của bạn lại là những
điều tôi đang có. Tôi được sinh ra trong hoà bình, được hưởng đầy đủ quyền
lợi của một thiếu niên, được đi tiếp trên con đường mà nhiều thê hệ cha anh
đã dày cồng đâu tranh và tạo dựng. Tôi đang được sống hạnh phúc, no đủ
cùn;; cha mẹ trong căn nhà nhỏ của chúng tôi. Hằng ngày tôi được tung tăng
tới trường, được đùa chơi thoả thích cùng bạn bè dưới bầu trời yên lành của
Việt Nam Tổ quốc yêu quý của tôi.
Có thê, bạn đã viết thư cho tôi trong cơn khát khủng khiếp, dưới tâm bạt
lớn của lều tị nạn ? Hãy cố gắng lên nhé, Xê-rê-na ! Trong những đêm lạnh giá
trứn hoang mạc, bạn có đủ chăn để đắp không ? Những lúc ây, tôi đang nằm
trong chăn ấm, tôi ước... giá tôi có thể bay đến bên bạn, ôm bạn vào lòng để
sưởi âm cho bạn và nói với bạn rằng tôi yêu bạn biết bao... Tôi khao khát được
khám phá đất nước Pa-le-xtin của bạn - một thế giới khác hẳn với những gì
tôi clang đưực thây và sông...
Bạn và tôi, chúng ta đều là hai đứa trẻ nhỏ của hai dân tộc khác nhau, hai
ru'n văn minh khác nhau... Chúng ta chưa thể nói chuyện với nhau bằng thứ
tiếng riêng của mỗi người, chúng ta chưa thể hoà mình vào văn hoá, phong
tục của mỗi nước... Nhưng chúng ta đều sống trên trái đất như bao con người
khác. Hành tinh này chính là ngôi nhà chung rộng lớn của chúng ta, phải
không Xê-rê-na ? Và chúng ta rất yêu quý nhau bởi sự đồng cảm thiêng liêng
của tình bạn - tình cảm mà tôi tin là đẹp nhât khi nó vượt qua những xung đột
sắc tộc và xung đột quốc gia ác liệt đang xảy ra, vượt qua sự khác biệt về ngôn
nj;ữ, tôn giáo....
Thế kỉ XXI đã bắt đầu. Ước mơ ây của tôi chưa trở thành hiện thực khi
trên trái đất này vẫn có những người phải chịu thiệt thòi, đau khô như bạn.
Xê-rê-na ơi, bạn luôn mong muốn thế giới này hoà bình, tôi cũng vậy. Thế kỉ
XXI không chỉ là thế kỉ của sự phát triển thông tin, nó còn phải là thế kỉ của
hoà bình. Tôi và bạn, chúng ta sẽ góp sức cùng mọi người xây dựng một thế
giới hoàn thiện hơn, không có chiến tranh và bạo lực. Đê’ trẻ em không còn
phải nơm nớp lo sợ tiếng súng. Thế giới mới sẽ không còn súng và bom,
không còn cái đói, cái khát, mọi trẻ em sẽ được no đủ, được học hành và phát
triển. Chúng ta sẽ có nhà, có gia đình đầy đủ, có chăn để đắp trong những
nj;ày giá rét... Chúng ta sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội để mọi
21
trẻ em trên trái đất này đều có điều kiện được gửi những lá thư cho rnhaui, tâm
sự, chia sẻ với nhau như chúng ta bây giờ phải không ? Đó chẳng ph.ải cĩũng là
ước mơ của bạn đó sao ? Vậy bạn hãy cố gắng tự tin vượt lên mọi khó khăin đen
tốì hôm nay, để một ngày mai, bạn cùng với cha anh mình mang lại m ột euộc
sống hoà bình tràn đầy ước mơ và hi vọng cho đất nước thân yêu của Ibạn.
Xê-rê-na, cảm ơn bạn đã viết thư cho tôi. cảm ơn bạn đã cho tô i hi(ểu giá
trị đích thực của ngôi nhà tôi đang sống, của giọt nước tôi đang uô'n;g, ciủa hạt
cơm tôi đang ăn,... mang đến cho tôi hạnh phúc và niềm tin vào ttương lai.
cảm ơn vì bạn đã cầu nguyện hạnh phúc cho tôi mỗi tối và tôi cũrụg vậy, tôi
cầu mong những điều may mắn sẽ đến với bạn, những ước mơ của chưng ta
sớm trở thành hiện thực.
Tôi tạm dừng bút ở đây. Hi vọng bạn sẽ mỉm cười khi đọc bức thiư ciủa tôi,
mong rằng nó sẽ mang đến cho bạn một niềm tin dù rất nhỏ n h oi... và đừng
quên rằng : Tôi yêu bạn vô cùng !".
QUẾ CHI
{Những bức thưrtôi tình bạn bốn phiươmg,
NXB Bưu điện, Hà Nội, 2001)
TUYÊN BÓ THẾ GIỚI VỀ s ự SỐNG CÒN,
QUYỂN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRlỂN
CỬA TRỀ EM
I - GỢI DẪN
1. Xuất x ứ :
Văn bản Tuyên bô' thê'giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phá t triển
của trẻ em được trích từ Tuyên bô' của Hội nghị cấp cao thế giới về tirẻ em họp
tại Liên hợp quốc ngày 30 - 9 - 1990, in trong cuốn Việt Nam và các vãn kiện
quốc t ế về quyền trẻ em (NXB Chính trị quốc gia - uỷ ban Bảo vệ và chă m sóc
trẻ em Việt Nam, Hà Nội, 1997).
22
2. Tóm tắt :
Tuy chỉ là một trích đoạn nhưng bài viết này có thể coi là một văn bản khá
hoàri chỉnh về hiện thực và tương lai của trẻ em cũng như những nhiệm vụ
cấp thiết mà cộng đồng quốc tế phải thực hiện nhằm đảm bảo cho trẻ em có
được một tương lai tươi sáng.
Ngoài hai ý mở đầu, bài viết được chia thành ba phần rất rõ ràng :
Phần một (sự thách thức) : thực trạng cuộc sồng khôn khổ của rất nhiều
trẻ em trên thế giới - những thách thức đặt ra với các nhà lãnh đạo chính trị.
Phần hai (cơ hội) : những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát
triển cuộc sông, đảm bảo tương lai cho trẻ em.
Phần ba (nhiệm vụ) : những nhiệm vụ cụ thể, cầp thiết cần thực hiện
nhằm bảo vệ và cải thiện đời sông, vì tương lai của trẻ em.
3. Cách đọc :
Nội đung văn bản là bài tuyên bố, vì vậy, cần chọn giọng đọc mạnh mẽ,
đứt khoát, rành mạch để thể hiện vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu đối với
quyổn cúa trẻ em.
II - KIẾN THỨC C ơ BẢN
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy :
Trẻ em n h ư búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.
Trẻ em là tương lai đất nước. Suy rộng ra, sự vận động và phát triển của
thế giới trong tương lai phụ thuộc râ't nhiều vào cuộc sống và sự phát triển
của trò em hôm nay. Càng ngày, vẫn đề đó càng được nhận thức rõ ràng hơn
trôn phương diện quốc tế. Năm 1990, Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em đã
được tổ chức. Tại đó, các nhà lãnh đạo các nước đã đưa ra bản Tuyên bô' th ế
giới về s ự sôhg còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em. Bài viết này
đã trích dẫn những ý cơ bản nhất của bản Tuyên bớ'đó.
Ngay trong phần mở đầu, bản Tuyên bô'đã khăng định những đặc điểm
cũng như những quyền lợi cơ bản của trẻ em. Từ đó, các tác giả bắt vào mạch
chính với những ý kiến hết sức cơ bản và lô gích.
23
Trong phần thứ nhât, tác giả nêu ra hàng loạt vân đề có về thực trạng
cũng như sự vi phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em. Đó là sự bóc lộit, đày
đoạ một cách tàn nhẫn, là cuộc sông khốn khổ của trẻ em ở các nước rnghèo.
Trong hoàn cảnh ấy, những con sô" thông kê rất có sức nặng ("Mỗi ngíày, có
hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói nghèo và kíhủng
hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh... ; Mỗi ngày có tới
40 000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật,..."). Những con số biiết nói
ấy thực sự là lời cảnh báo đối với nhân loại.
Với nội dung như vậy nhưng các tác giả lại đặt tên cho phần này là Sự
thách thức. Mới đọc, có cảm tưởng giữa đề mục và nội dung không thật ithống
nhất. Tuy nhiên, đó lại là yếu tố liên kết giữa các phần trong văn bản nà'y. Tác
giả đã sử dụng phương pháp "đòn bẩy" : hiện thực càng được chỉ rõ bao nhiêu
thì những vân đề đặt ra sau đó lại càng được quan tâm bây nhiêu.
Trong phần tiếp theo, các tác giả trình bày những điều kiện thích hợp (hay
những cơ hội) cho những hoạt động vì quyền của trẻ em. Đó là những phương
tiện và kiến thức, là sự hợp tác, nhất trí của cộng đồng thế giới cùng sự tăng
trưỏng kinh tế, sự biến đổi của xã hội... trong đó các tác giả nhấn mạnỉh đến
nhân tô' con người. Bằng những hoạt động tích cựG, con người hoàn toàn có
thể làm chủ được tương lai của mình khi quan tâm thoả đáng đến các tthế hệ
tương lai.
Trong phần Nhiệm vụ, các tác giả nêu ra tám nhiệm vụ hết sức cơ b>ản và
cấp thiết. Có thể tóm tắt lại như sau :
1. Tăng cường sức khoẻ và chế độ dinh dưỡng của trẻ em.
2. Quan tâm chăm sóc nhiều hơn đến trẻ em bị tàn tật, trẻ eưl có hoàn
cảnh sống đặc biệt khó khăn.
3. Đảm bảo quyền bình đẳng nam - nữ (đối xử bình đẳng với các ern Ịgái).
4. Bảo đảm cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở.
5. Cần nhân mạnh trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình.
6. Cần giúp trẻ em nhận thức được giá trị của bản thân.
7. Bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển đều đặn nền kinh tế.
8. Cần có sự hợp tác quốc tế để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trên đậy.
24