Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Tư liệu hỗ trợ giáo dục môi trường qua môn hóa học ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.9 MB, 183 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA HÓA HỌC
BỘ MÔN: HÓA MÔI TRƢỜNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh
Sinh viên thực hiện: Mai Thị Ngọc Linh
Lớp Hóa 4A
Mã số SV: 34201025

TP Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2012


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài

Sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật và sự phát triển mạnh mẽ của các
ngành công nghiệp đã và đang thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc
sống của con người. Tuy nhiên, điều đó cũng làm cho môi trường sống ngày càng ô
nhiễm trầm trọng và kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất. Ngày càng có
nhiều thiên tai, thảm họa xảy ra: động đất, sóng thần, bão lụt… Đó chính là lời cảnh
tỉnh dành cho loài người về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường sống. Con
người đã bắt đầu ý thức được những hậu quả nghiêm trọng từ việc ô nhiễm môi


trường. Các tổ chức quốc tế đã lên tiếng kêu gọi toàn thể nhân loại cùng chung tay bảo
vệ môi trường, cũng chính là bảo vệ sự sống của chính mình.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng: nguồn
nước bị ô nhiễm nặng do nước thải từ các nhà máy, môi trường đất ô nhiễm do sử
dụng phân bón hóa học bừa bãi… Do đó việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trở
nên vô cùng cần thiết và cấp bách. Nhất là việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
các thế hệ trẻ bởi đây là những người sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng,
phát triển xã hội sau này. Do đó, những năm gần đây, vấn đề giáo dục môi trường đã
được lồng ghép vào chương trình học phổ thông. Đặc biệt, bộ môn Hoá học ở trường
phổ thông đóng một vai trò cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục môi trường
của toàn xã hội.
Với mong muốn được đóng góp công sức của mình vào nhiệm vụ giáo dục môi
trường cho học sinh trung học phổ thông tôi đã chọn đề tài này làm khóa luận tốt
nghiệp.

2.

Mục đích nghiên cứu

Cung cấp các tư liệu và hình ảnh thực tế về môi trường để hỗ trợ cho giáo viên
trung học phổ thông (THPT) thực hiện nhiệm vụ giáo dục môi trường thông qua
chương trình Hoá học lớp 10, 11 và 12. Góp phần nâng cao hiệu quả cho quá trình
giáo dục môi trường ở trường phổ thông.
SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 1


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh


3.
-

Khóa luận tốt nghiệp

Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục môi trường thông qua các bài
giảng Hoá học lớp 10, 11 và 12 THPT.

-

4.
-

Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học bộ môn Hóa học ở trường THPT.

Nhiệm vụ của đề tài
Giới thiệu khái quát về môi trường, các dạng ô nhiễm môi trường, phương
pháp giáo dục môi trường ở trường phổ thông.

-

Tập hợp các tư liệu và hình ảnh thực tế về các vấn đề môi trường có thể
lồng ghép vào các bài học cụ thể trong chương trình Hoá học lớp 10, 11
và 12 THPT.

-

Gợi ý về một số hoạt động ngoại khoá có thể cho hiệu quả cao trong việc
mở rộng kiến thức và nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh

THPT.

5.
-

Phƣơng pháp nghiên cứu
Đọc và nghiên cứu các tài liệu về môi trường, chú trọng các nội dung liên
quan đến chương trình Hóa học lớp 10, 11 và 12 THPT.

-

Phân tích và tổng hợp.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 2


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN HAI: VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1: Đại cƣơng về môi trƣờng
1.1. Khái niệm môi trƣờng [4]. [19]
Khái niệm về môi trường đã được thảo luận rất nhiều và từ lâu. Chúng ta có thể
khái quát: “Môi trường là tập hợp tất cả các thành phần của thế giới vật chất bao quanh
có khả năng tác động đến sự tồn tại và phát triển của mỗi sinh vật. Bất cứ một vật thể,
một sự kiện nào cũng diễn biến trong một môi trường nhất định”.
Đối với con người, môi trường được định nghĩa như sau:

“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự
tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
(Điều 1, Luật Bảo Vệ Môi Trường của Việt Nam, 1993)

1.2. Chức năng của môi trƣờng [42]
Môi trường là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình tồn tại
và phát triển con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm, nước, nhà
ở... cũng như các hoạt động vui chơi giải trí khác. Tất cả các nhu cầu này đều do môi
trường cung cấp. Tuy nhiên khả năng cung cấp các nhu cầu đó của con người là có
giới hạn và phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và ở từng thời kì.
Môi trường là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho hoạt động sản xuất của
con người. Trải qua các nền sản xuất từ thô sơ đến hiện đại, con người phải khai thác
các nguồn nguyên liệu như đất, đá, tre, nứa, tài nguyên sinh vật…để phục vụ cho mục
đích ăn, ở và lao động của mình. Tất cả các tài nguyên này đều do môi trường cung
cấp và giá trị của tài nguyên phụ thuộc và mức độ khan hiếm và giá trị của nó trong xã
hội. Như vậy, con người phải bảo vệ và sử dụng tài nguyên một cách hợp lí để bảo
đảm sự phát triển bền vững.
Môi trường còn là nơi chứa đựng các chất thải của con người trong quá trình sử
dụng các tài nguyên. Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng bị thải vào môi trường

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 3


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp


dưới dạng các chất thải. Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học
phân hủy thành các chất vô cơ, hữu cơ quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên chức
năng chứa đựng chất thải của môi trường là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới
hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường. Do vậy, vấn đề xử
lí chất phế thải đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của mỗi quốc gia.

1.3. Ô nhiễm môi trƣờng[4]
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng làm thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành
phần và đặc tính vật lí, hóa học, sinh học, sinh thái học của bất kì thành phần nào của
môi trường hay toàn bộ môi trường vượt quá mức cho phép đã được xác định. Sự gia
tăng các chất lạ vào môi trường làm thay đổi các yếu tố môi trường sẽ gây tổn hại,
hoặc có tiềm năng gây tổn hại đến sức khỏe, sự an toàn, hay sự phát triển của người và
sinh vật trong môi trường đó.
Suy thoái môi trường là một quá trình suy giảm mà kết quả của nó là làm thay đổi
về chất lượng và số lượng thành phần môi trường vật lí (như suy thoái đất, nước,
không khí, biển…) và làm suy giảm đa dạng sinh học.

1.4. Các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trƣờng]44]
Sự ô nhiễm môi trường có thể là hậu quả của các hoạt động tự nhiên, như hoạt
động núi lửa, thiên tai lũ lụt, bão,… hoặc các hoạt động do con người thực hiện trong
công nghiệp, giao thông, chiến tranh và công nghệ quốc phòng, trong sinh hoạt, trong
đó công nghiệp được xem là nguyên nhân lớn nhất.
Chất gây ô nhiễm môi trường rất đa dạng về nguồn gốc và chủng loại, tuy vậy
chúng được phân chia thành 3 nhóm lớn: chất thải rắn, chất thải lỏng và chất thải khí.
Mỗi dạng có thể chứa đựng nhiều chất, từ các hóa chất, các kim loại nặng, đến chất
phóng xạ và vi trùng. Nhiệt cũng là tác nhân trực tiếp hay gián tiếp gây nên sự ô nhiễm
môi trường.
Ô nhiễm môi trường đang trở thành hiểm họa đối với đời sống của sinh giới và cả
đối với con người ở bất kỳ phạm vi nào, từ quốc gia, khu vực đến toàn cầu. Ô nhiễm
môi trường là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra trên 200


SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 4


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

năm nay. Ô nhiễm hiện nay đã lan tràn vào mọi nơi, từ đất, nước đến khí quyển, từ bề
mặt đất đến các lớp sâu của đất và của đại dương.
Việt Nam chúng ta đang trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước,
hơn nữa sự đô thị hóa cũng như giao thông vận tải chưa phát triển vì thế sự ô nhiễm
môi trường nói chung chưa xảy ra trên diện rộng, nhưng cũng đã xảy ra cục bộ, từng
lúc, từng nơi.

1.5. Các dạng ô nhiễm chính
1.5.1. Ô nhiễm môi trƣờng đất
Ô nhiễm đất xảy ra khi đất bị nhiễm các chất hóa học độc hại (hàm lượng vượt
quá giới hạn thông thường) do các hoạt động chủ động của con người như khai thác
khoáng sản, sản xuất công nghiệp, sử dụng phân bón hóa học hoặc thuốc trừ sâu, thuốc
bảo vệ thực vật quá nhiều,... hoặc do bị rò rỉ từ các thùng chứa ngầm. Phổ biến nhất
trong các loại chất ô nhiễm đất là hydrocacbon, kim loại nặng, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ
sâu...
Ô nhiễm môi trường đất làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới
hạn sinh thái của các quần xã sinh vật sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền
móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người.
Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động

sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm. Nhưng với
nhịp độ gia tăng dân số, tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như
hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị
suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người ngày càng giảm.
Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và
nghiêm trọng. Môi trường đất bị ô nhiễm bởi sự thiếu ý thức của người dân khi vứt
rác sinh hoạt bừa bãi, lạm dụng túi nilon trong đời sống hằng ngày…

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 5


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 1. 1: Thói quen vứt rác bừa bãi gây ảnh hƣởng đến môi trƣờng

Cũng chính từ sự thiếu ý thức bảo vệ môi trường, vì lợi nhuận trước mắt, nhiều
doanh nghiệp không ngần ngại đổ rác thải ra môi trường xung quanh bất chấp pháp
luật và sức khỏe cộng đồng.

Hình 1. 2: Nhiều cơ sở lén lút đổ rác thải vào khu dân cƣ.

Hình 1. 3: Cơ quan điều tra làm việc tại bãi rác Đông Thạnh

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 6



GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

Ngày 22/9/2011, tổ công tác thuộc C49 (Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về
môi trường) Bộ Công an Thành phố HCM phát hiện 40 tấn rác thải nguy hại được
chôn lấp tại bãi rác Đông Thạnh, quận Hóc Môn. Được biết số chất thải trên có nguồn
gốc từ quá trình sản xuất thuốc sát trùng và thuốc BVTV của Công ty cổ phần Thuốc
sát trùng Việt Nam, Xí nghiệp Bình Triệu.
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đó là
điều đáng tự hào về nền nông nghiệp nước nhà. Tuy nhiên, bên cạnh việc phát triển
giống lúa, cải tạo cách canh tác để tăng năng suất thì phân bón hóa học ngày càng
được sử dụng rộng rãi. Lượng phân bón quá lớn không chỉ ảnh hưởng tới đất trồng mà
còn ảnh hưởng đến môi trường nước và chính sức khỏe của người nông dân. Bên cạnh
đó, việc tăng mùa vụ lên 3-4 vụ/ năm khiến đất trồng không có thời gian phục hồi dẫn
đến bạc màu. Kéo theo đó là lượng phân bón mùa sau lại cao hơn mùa trước!

Hình 1. 4: Nông dân phun thuốc trừ sâu

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 7


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp


Hình 1. 5: Vỏ bao thuốc trừ sâu vứt bừa bãi khắp nơi

1.5.2. Ô nhiễm môi trƣờng nƣớc[44], [47]
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học –
sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở
nên độc hại với con người và sinh vật, làm giảm độ đa dạng sinh học trong nước. Xét
về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn
ô nhiễm đất. Nước ô nhiễm thường là khó khắc phục mà phải phòng tránh từ đầu.
Nước bị ô nhiễm là do sự phú dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và
các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất
hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hoá
được. Kết quả làm cho hàm lượng oxi trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên,
tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các
loại chất thải và nước thải công nghiệp chưa qua xử lí đúng mức được thải ra lưu vực
các con sông; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm
và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông, hoạt động
du lịch hoặc khai thác dầu khí ở biển…
Ở Việt Nam, hiện nay tình trạng ô nhiễm và suy thoái nguồn nước (nước mặt và
nước ngầm) đang xảy ra phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các khu đô thị và các thành
phố công nghiệp. Chẳng hạn như nước ngầm đang được khai thác ở một số nhà máy

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 8


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp


nước thành phố Hà Nội cũng đã bị ô nhiễm như Pháp Vân, Mai Động hoặc như ở
thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) nước ngầm bắt đầu bị nhiễm mặn và suy giảm khả
năng khai thác.
Ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn TP HCM hiện nay được đánh giá là nghiêm
trọng nhất. Các dòng kênh trong nội thành bị ô nhiễm đã đành, các dòng sông lớn cung
cấp nước sinh hoạt cho hàng chục triệu con người cũng không thoát khỏi số phận
tương tự. Theo những số liệu mới nhất, hệ thống kênh rạch của thành phố mỗi ngày bị
đầu độc bởi 40 tấn rác thải các loại và 70.000m3 nước thải công nghiệp chưa qua xử lý.
Với một thực trạng như vậy thử hỏi làm sao những dòng kênh xanh không biến thành
những dòng kênh bị "ung thư". Trong khu vực nội thành, những dòng kênh như Nhiêu
Lộc-Thị Nghè, kênh Đôi-kênh Tẻ, kênh Tàu Hủ, Tân Hóa-Lò Gốm bị ô nhiễm từ vài
chục năm nay là chuyện đã đành thì đến hiện nay ngay khu vực ngoại thành từ Bình
Chánh, Hóc Môn đến Củ Chi... những dòng kênh vốn phục vụ cho việc tưới tiêu trước
đây nay cũng biến thành những dòng kênh mà người dân đã gọi là kênh sủi bọt, kênh
ngứa, kênh nín thở...

Hình 1. 6: Kênh Nhiêu Lộc

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 9


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 1. 7: Sông Tô Lịch

Hình 1. 8: Sonadezi Long Thành xả nƣớc thải ra sông


Với tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, những dòng sông ngày càng ô nhiễm
nặng nề. Ở đồng bằng sông Cửu Long, với hệ thống sông ngòi chằng chịt nên giao
thông đường thủy rất phát triển. Du khách ấn tượng với những khu chợ nổi trên sông,
những cảnh ghe tàu qua lại như mắc cửi. Nhưng cũng chính vì vậy mà hệ thống sông
ngòi phải gánh lấy một số lượng rác thải khổng lồ từ chính những người dân nơi đây.
Và với thói quen sử dụng nguồn nước sông trong sinh hoạt hằng ngày thì nguy cơ mắc
bệnh của người dân cũng tăng lên khi những dòng sông ngày càng ô nhiễm.
SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 10


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 1. 9: Ghe xuồng nhộn nhịp trên chợ nổi

Hình 1. 10: Một nhánh sông đang ô nhiễm nặng ( quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ)

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 11


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp


Một số hình ảnh ô nhiễm nƣớc trên thế giới

Hình 1. 11: Nƣớc thải từ trạm xăng - gas Potrero đổ thẳng ra vịnh San Francisco (Hoa Kì)
(Ảnh: vi.wikipedia.org)

Hình 1. 12: Chất thải công nghiệp chƣa qua xử lí chảy theo sông New (California, Hoa kì)
(Ảnh: vi.wikipedia.org)

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 12


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 1. 13: Sông Citarum, Indonesia (Ảnh: tin180.com)

Hình 1. 14: Sông Hằng, Ấn Độ (Ảnh: tin180.com)

Hình 1. 15: Sông Hoàng Hà, Lan Châu, Trung Quốc (Ảnh: tin180.com)

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 13


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh


Khóa luận tốt nghiệp

1.5.3. Ô nhiễm môi trƣờng không khí[44]
Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng
trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi khó
chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ
không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi
rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Hàng năm con người khai
thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi
trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ
các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh
chóng.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều
bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các
cánh đồng.
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí nhà kính như:
CO2, CH4, N2O... Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là
CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, còn lại là metan, nitơ oxit, hơi
nước… Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái
đất tăng 0,4°C. Các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050
nhiệt độ của Trái đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,5°C nếu như con người không có biện pháp
hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Khi đó sẽ kéo theo một loạt các
thảm họa như biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao…
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng thủng tầng ôzôn. Điều này
đồng nghĩa với việc các tia cực tím có hại sẽ tác động trực tiếp lên con người và sinh
vật, làm chết cây cối và gây bệnh ung thư da cho con người.
Mặc dù đất nước chúng ta nền công nghiệp chưa phát triển nhưng ô nhiễm không
khí đã xảy ra. Ví dụ ở Hà Nội, tại khu vực nhà máy dệt 8–3, nhà máy cơ khí Mai
Động, Khu công nghiệp Thượng Đình, khu công nghiệp Văn Điển, nhà máy Rượu…

không khí đều đã bị ô nhiễm nặng. Ở Hải Phòng, ô nhiễm nặng ở khu nhà máy Xi

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 14


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

mămg, nhà máy Thủy Tinh và Sắt tráng men… Ở Việt Trì, ô nhiễm nặng xung quanh
nhà máy Supe photphat Lâm Thao, nhà máy Giấy, nhà máy Dệt. Ở Ninh Bình và Phả
Lại ô nhiễm nặng do nhà máy Nhiệt điện, các nhà máy vật liệu xây dựng, lò vôi. Ở
thành phố Hồ Chí Minh và cụm công nghiệp Biên Hòa không khí cũng bị ô nhiễm bởi
nhiều nhà máy. Hầu như tất cả các nhà máy hóa chất đều gây ô nhiễm không khí. Dân
cư sống ở các vùng nói trên thường mắc các bệnh đường hô hấp, da và mắt.

Hình 1. 16: Khói thoát ra từ nhà máy

Hình 1. 17: Khói bụi do các phƣơng tiện giao thông

Ngoài ra còn một số dạng ô nhiễm khác như ô nhiễm phóng xạ, ô nhiễm tiếng ồn,
ô nhiễm sóng, ô nhiễm ánh sáng…
SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 15


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh


Khóa luận tốt nghiệp

1.6. Vấn đề dân số và môi trƣờng
1.6.1. Sơ lƣợc tình hình tăng dân số trên thế giới
Theo Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA), tốc độ phát triển dân số đã tăng gấp
ba kể từ năm 1940. Trong những thập kỷ qua, dân số thế giới liên tục gia tăng, từ 5 tỷ
người năm 1987 lên 6 tỷ người 11 năm sau đó (năm 1998) và chỉ 13 năm tiếp theo
(năm 2011) đạt con số 7 tỷ người.
Với đà tăng hiện tại, mỗi năm dân số thế giới sẽ tăng thêm 78 triệu người. Theo
dự báo, dân số thế giới đến cuối thế kỷ 21 này có thể ổn định ở mức 9 hoặc 10 tỷ
người, nhưng cũng có thể lên tới 15 tỷ, tuỳ theo tình hình ở các nước đang phát triển
mà hiện có mức tăng dân dân số cao nhất.
Tỷ lệ sinh là một tác nhân quan trọng dẫn tới sự gia tăng dân số thế giới. Các
nước có tỷ lệ sinh cao chủ yếu ở vùng cận Sahara của châu Phi, gồm khoảng 39 nước.
Ví dụ điển hình là Somalia. Tính trung bình mỗi gia đình ở Somalia hiện có đến 7 con.
Cứ theo đà này, dân số của Somalia từ 10 triệu hiện nay sẽ lên tới 22,6 triệu người vào
năm 2050.
Ngoài ra, có 9 quốc gia khác ở châu Á, 6 nước ở châu Đại Dương và khoảng 4
nước ở Mỹ Latinh có tỷ lệ sinh cao.
Những nước có tỷ lệ sinh thấp bao gồm hầu hết các quốc gia châu Âu, 19 trong
tổng số 51 quốc gia châu Á, trong đó bao gồm cả Trung Quốc, 14 trong tổng số 39
quốc gia ở châu Mỹ, 2 nước châu Phi và Australia của châu Đại Dương.
Đáng lo ngại nhất là tỷ lệ tăng dân số quá nhanh ở các nước kém phát triển nhất.
Dân số châu Phi có thể tăng 150% và nhiều nước ở châu lục này sẽ có dân số tăng gấp
4 lần vào năm 2100.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 16



GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

Hình 1. 18: Ấn Độ, hiện là quốc gia đông dân thứ 2 thế giới với 1,2 tỷ ngƣời. Ấn Độ đƣợc dự đoán sẽ vƣợt
qua Trung Quốc để trở thành nƣớc đông dân nhất hành tinh với 1,6 tỷ ngƣời năm 2030.

1.6.2. Tình hình tăng dân số ở Việt Nam[17]
Dân số Việt Nam cũng tăng nhanh qua các thời kỳ: năm 1900, chỉ có 13 triệu
người; năm 1930, 17 triệu người; năm 1945, 25 triệu người; năm 1960, 30 triệu người;
năm 1989, 46,412 triệu người; năm 1998, 77,9 triệu người; năm 2011 ước tính khoảng
87,84 triệu người. Dự báo, trong năm 2012, dân số Việt Nam sẽ vượt ngưỡng 88 triệu
người. Với quy mô dân số đó, Việt Nam đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á (sau
Indonesia); thứ 7 trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (sau Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Nhật Bản, Bangladesh, Pakistan); và đứng thứ 12 trên thế giới. Nếu coi mật
độ dân số là thước đo về mức độ đông dân thì Việt Nam đứng thứ 2 trong khu vực
Đông Nam Á (sau Singapore).
Theo dự báo của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA), số dân Việt Nam sẽ tăng
lên 110,1 triệu vào năm 2025.
Với số dân tăng nhanh như vậy, nguồn tài nguyên hiện có trên Trái đất còn nuôi
sống loài người được bao lâu nữa? Đó là câu hỏi khó trả lời. Chỉ biết chắc chắn rằng,
con người đã dùng những phương tiện kỹ thuật hiện đại để khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên đó để phục vụ cuộc sống của mình, đã làm suy thoái môi trường một cách
nhanh chóng.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 17



GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

1.6.3. Sức ép của dân số lên môi trƣờng[18]
“Thế giới đã có 7 tỷ người”. Con số này đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình phát triển của nhân loại, nhưng nó cũng đã và đang đặt ra những thách thức
không nhỏ cho hành tinh của chúng ta.
Đội ngũ dân số đông với lực lượng lao động trẻ là một tiềm năng cho sự phát
triển kinh tế, nhưng bên cạnh đó nổi lên nhiều thách thức to lớn:
- Tỉ lệ dân số thế giới tăng sẽ dẫn tới mất cân bằng xã hội, dẫn đến những
thách thức về kinh tế khi khoảng cách giàu nghèo không ngừng gia tăng.
- Dân số tăng mạnh đi đôi với việc đô thị hóa diễn ra ào ạt, hình thành nhiều
đô thị khổng lồ, nơi nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế-xã hội khó giải quyết.
- Nhưng thách thức lớn nhất vẫn là thiếu đất sống và thiếu cái ăn.
- Trong tương lai, con người sẽ phải tìm thêm một hành tinh khác để sống vì
Trái đất của chúng ta không còn đủ để nuôi dân số thế giới nữa? Đây là kịch bản hoàn
toàn có thể xảy ra và thực tế, loài người đang trong hành trình ráo riết đi tìm sự sống
ngoài Trái đất.
- Dù dân số tăng ở mức thấp nhất, thì những nguồn tài nguyên của Trái đất
ngày càng khó thỏa mãn nhu cầu của thế giới. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, Trái
đất cần phải có đến 18 tháng để tái tạo những nguồn tài nguyên thiên nhiên tiêu thụ
trong 1 năm. Theo tính toán trước đây, loài người đã sử dụng hết khoảng 1/3 toàn bộ
tài nguyên thiên nhiên toàn cầu. Con số đó có lẽ quá thấp vì còn có nhiều thứ con
người không trực tiếp sử dụng, nhưng do hoạt động của con người mà đã bị suy thoái
(đất bị xói mòn nặng, quá nhiều chất thải). Với kết quả phân tích chi tiết tại một số
nước thuộc châu Âu và từ đó suy ra thì có lẽ loài người đã tiêu thụ đến khoảng 50%
tổng tài nguyên thiên nhiên toàn cầu. Con người đã làm thay thế những vùng rộng lớn

của Trái đất có hệ sinh thái tự nhiên phức tạp và đa dạng về loài bằng những hệ sinh
thái đơn giản, đặc biệt cho sản xuất nông nghiệp. Bằng cách phá rừng, đốt củi và than,
canh tác trên các loại đất, sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch trong công nghiệp, loài
người đã tăng cường hoạt động chuyển cacbon hữu cơ vào khí quyển.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 18


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

-

Khóa luận tốt nghiệp

Nguy cơ lớn nhất hiện nay, đó là thiếu nguồn nước. Bản báo cáo của Liên

hợp quốc cảnh báo là từ đây đến năm 2030, các nguồn nước hiện có chỉ có thể đáp ứng
được 40% nhu cầu của nhân loại. Khoảng 1,6 tỷ người đang sống ở những vùng khan
hiếm nước, nhưng con số này sẽ nhanh chóng lên tới 2 tỉ nếu thế giới tiếp tục cách
thức sử dụng nước như hiện nay.
-

Nguy cơ đói nghèo, an ninh năng lượng và những bất đồng có nguyên

nhân sâu xa từ vấn đề nước. Đói nghèo càng trở nên tồi tệ bội phần khi người nghèo
thiếu nước. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn khi tình trạng ô nhiễm trên các ao
hồ, sông suối, vùng ven bờ... đã hủy hoại hệ sinh thái gây ra nhiều tổn hại.


1.7. Bảo vệ môi trƣờng[4]
Bảo vệ môi trường là một khái niệm hành động, bao gồm những hoạt động,
những việc làm trực tiếp, tạo điều kiện giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải
thiện điều kiện vật chất, điều kiện sống của con người, sinh vật ở trong môi trường đó,
duy trì cân bằng sinh thái, tăng tính đa dạng sinh học. Bảo vệ môi trường gồm các chủ
trương chính sách, các luật định của nhà nước nhằm ngăn chặn hậu quả xấu của môi
trường, sự cố môi trường do thiên nhiên và con người gây ra. Bảo vệ môi trường còn
bao hàm ý nghĩa bảo vệ và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên. Bảo vệ môi trường
còn có ý nghĩa cao hơn là nhận thức của con người, sự tự giác, lòng trân trọng của con
người đối với môi trường.

1.8. Hóa học môi trƣờng[4]
Hóa học môi trường là một khoa học đa ngành, mới được hình thành và phát
triển, và là một trong các ngành khoa học của khoa học môi trường
Hóa học môi trường nghiên cứu bản chất các hiện tượng, các quy luật, các quá
trình chuyển hóa hóa học của sự tồn tại và vận động vật chất trong môi trường. Hóa
học môi trường cũng nghiên cứu ảnh hưởng tương hỗ giữa bản chất hóa học của sự
vận động vật chất với con người và sinh vật, từ đó tìm ra các biện pháp tối ưu để phát
huy các hiệu ứng tích cực và ngăn ngừa, khác phục các hiệu ứng tiêu cực, nhằm phục
vụ cho cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp và cho xã hội phát triển bề vững.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 19


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp


CHƢƠNG 2: Giáo dục môi trƣờng
2.1. Khái niệm và mục đích của giáo dục môi trƣờng
2.1.1. Một số khái niệm “Giáo dục môi trƣờng”[28]
“Giáo dục môi trường (GDMT) là quá trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái
niệm để xây dựng những kỹ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh giá đúng
mối tương quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường xung quanh. GDMT
cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để ra quyết định và tự hình thành quy tắc ứng xử
trước những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường”. (Chương trình đào tạo của
trường học do IUCN/UNESCO tổ chức tại Nevada (Mỹ) năm 1970)
“GDMT là quá trình nhằm phát triển một cộng đồng dân cư có nhận thức rõ ràng
và quan tâm đến môi trường cũng như các vấn đề liên quan, có kiến thức, kỹ năng,
động cơ và sẵn sàng làm việc độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải pháp cho những
vấn đề hiện tại và phòng chống các vấn đề có thể nảy sinh trong tương lai”. (Hội nghị
toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường nhân văn tại Stokholm năm 1972)
“GDMT là làm cho từng người và cộng đồng hiểu được bản chất của môi trường
tự nhiên và nhân tạo, hiểu được quan hệ tương tác của các mặt sinh học, hóa học, vật
lí, xã hội, kinh tế và văn hóa; có được tri thức, thái độ và kĩ năng thực tế để tham gia
có hiệu quả và có trách nhiệm vào việc tiên đoán, giải quyết các vấn đề môi trường và
quản lí chất lượng môi trường”. (Hội nghị Liên chính phủ lần thứ nhất về GDMT tại
Tbilisi (Liên Xô cũ) năm 1977)
“GDMT là một quá trình giúp người học tiếp thu kiến thức, kỹ năng và những
kinh nghiệm môi trường tích cực để có thể phân tích vấn đề, đánh giá lợi ích và rủi ro,
đưa ra những quyết định , và thực hiện những hành động có trách nhiệm nhằm đạt
được và duy trì chất lượng môi trường”. (Hiệp hội GDMT Bắc Mỹ năm 1993)
Không nhất thiết phải kết luận quan niệm nào là đúng hay sai, mỗi nền văn hóa và
thể chế xã hội có quyền xác định cho mình một hướng tiếp cận tối ưu với công tác
GDMT. Điều quan trọng là ta phải hiểu GDMT mang đặc trưng của một chương trình
hành động. Người ta thường chú ý đến mục tiêu, chính sách, chiến lược thực hiện, các

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh


Trang 20


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

chương trình hành động, các sản phẩm giáo dục, đánh giá tác động…và tất cả những
điểm đó phải dẫn đến kết quả sau cùng là ý thức và hành động bảo vệ môi trường một
cách tự giác của con người.

2.1.2. Mục đích giáo dục môi trƣờng
Tất cả các quan niệm về GDMT đều nhắm vào các mục đích sau:
- Trang bị cho người học những kiến thức về môi trường, tăng cường nhận thức
và rèn luyện kĩ năng hành động để bảo vệ môi trường.
- Vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo tồn, sử dụng môi trường
theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai.
- Học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng và tránh
những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng các cơ hội và đưa ra những
quyết định khôn khéo trong sử dụng tài nguyên.
- Có những động lực và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để
giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy
sinh.

2.2. Chính sách và chiến lƣợc giáo dục môi trƣờng ở trƣờng
phổ thông Việt Nam
2.2.1. Chính sách
2.2.1.1. Mục tiêu
Giáo dục môi trường ở nhà trường làm cho học sinh và giáo viên đạt được:

- Có ý thức thường xuyên và luôn nhạy cảm đối với mọi khía cạnh của môi
trường.
- Thu nhận được những thông tin và kiến thức cơ bản về môi trường và sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa hoạt động của con người và môi trường.
- Phát triển những kĩ năng bảo vệ và giữ gìn môi trường, kĩ năng dự đoán, phòng
tránh và giải quyết các vấn đề môi trường nảy sinh.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 21


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

- Tham gia tích cực vào những hoạt động khôi phục, bảo vệ và giữ gìn môi
trường.
- Có ý thức về tầm quan trọng của môi trường đối với sức khỏe con người, phát
triển thái độ tích cực đối với môi trường.
2.2.1.2. Nguyên tắc
Nhà nước Việt Nam coi giáo dục môi trường là một bộ phận hữu cơ của sự
nghiệp giáo dục và là một sự nghiệp của toàn dân nói chung. Để thực hiện giáo dục
môi trường, nhà nước có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương và đến cơ sở
giáo dục, thông qua quản lý nhà nước của Bộ giáo dục và đào tạo.
Giáo dục môi trường được thực hiện vì môi trường, về môi trường và trong môi
trường, trong đó hiệu quả cao nhất sẽ đạt được khi tạo ra được thái độ, tình cảm vì môi
trường.
Giáo dục môi trường là thành phần bắt buộc trong chương trình giáo dục – đào
tạo và phải được thực hiện trong kế hoạch dạy học – giáo dục hiện hành. Những vấn

đề về môi trường được dạy thông qua nhiều môn học.
Đưa giáo dục môi trường vào hoạt động nhà trường một cách thích hợp với môi
trường của trường học.
Làm cho người học và người dạy nhận thấy giá trị của môi trường đối với chất
lượng của cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc của con người.
Triển khai giáo dục môi trường bằng các hoạt động mà học sinh là người thực
hiện và thu được hiệu quả thực tiễn. Giáo viên là người tổ chức các hoạt động giáo dục
môi trường dực trên chương trình quy định và tìm cách vận dụng phù hợp với địa
phương.
2.2.1.3. Biện pháp:
- Đưa giáo dục môi trường vào tất cả các cấp bậc học.
- Kết hợp giáo dục môi trường vào tất cả các môn học.
- Thực hiện giáo dục môi trường bằng phương pháp hiện đại đặt trọng tâm vào
người học.

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 22


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh

Khóa luận tốt nghiệp

- Cung cấp kiến thức về môi trường và rèn luyện kĩ năng bảo vệ môi trường. Các
trường tổ chức và tích cực tham gia cùng với cộng đồng các hoạt động bảo vệ môi
trường trong và ngoài nhà trường.
- Luôn chú ý tạo ra thái độ đúng và tinh thần trách nhiệm cao đối với việc bảo vệ
môi trường.
- Giáo dục môi trường không chỉ là cung cấp những hiểu biết về môi trường, mà

còn được thực hiện trong môi trường với thái độ và tình cảm vì môi trường.
- Trong giáo dục môi trường hiện nay dành ưu tiên cho đào tạo giáo viên và các
bậc tiểu học, trung học.

2.2.2. Chiến lƣợc thực hiện
2.2.2.1. Phƣơng thức thực hiện
Muốn tạo được các kết quả nhanh chóng và đạt được hiệu quả cao, giáo dục môi
trường phải tìm cách tác động từ trên xuống và nhân các điển hình tốt. Có thể thu được
những kết quả đó phải thông qua các khâu sau đây:
- Các cấp ra quyết định và quản lí giáo dục.
- Đào tạo giáo viên mới và bồi dưỡng giáo viên đang làm việc.
- Biên soạn chương trình cho nhà trường phổ thông và cho đào tạo.
- Biên soạn tài liệu dạy học.
- Kiểm tra, đánh giá.
- Nghiên cứu khoa học về giáo dục môi trường.
- Liên kết nhà trường với cộng đồng.
2.2.2.2. Điều kiện thực hiện
- Xây dựng tổ chức
- Tạo cơ sở pháp lí
- Nhân lực giáo dục môi trường
- Giám sát hoạt động giáo dục môi trường
- Nguồn tài chính

SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 23


GVHD: ThS. Nguyễn Văn Bỉnh


Khóa luận tốt nghiệp

2.3. Giáo dục môi trƣờng thông qua môn hóa học
2.3.1. Phƣơng thức đƣa giáo dục môi trƣờng vào môn hóa
học
- Tích hợp: là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức hóa học với kiến
thức giáo dục môi trường, làm cho chúng hòa quyện với nhau thành một thể thống
nhất.
- Lồng ghép: là thể hiện sự lắp ghép nội dung bài học về mặt cấu trúc để có
thể đưa vào bài học một đoạn, một mục, một số câu hỏi có nội dung giáo dục môi
trường.

2.3.2. Phƣơng pháp giáo dục môi trƣờng thông qua môn hóa
học
2.3.2.1. Giáo dục môi trƣờng thông qua giờ học trên lớp
Do kiến thức giáo dục môi trường được tích hợp và lồng ghép vào nội dung bài
giảng, nên khi giảng dạy không có phương pháp riêng dành cho giáo dục môi trường
mà phải thông qua bộ môn hóa học. Tùy từng điều kiện có thể sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp dùng lời nói (giảng giải, kể chuyện, đọc tài liệu…).
- Phương pháp seminar (thảo luận).
- Phương pháp đàm thoại (hỏi đáp).
- Phương pháp trực quan (sử dụng các hình ảnh, mô hình, đoạn phim…trong bài
giảng).
- Phương pháp thực hành, thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
2.3.2.2. Giáo dục môi trƣờng thông qua hoạt động ngoại
khóa
Trong trường học, hoạt động ngoại khóa để giáo dục môi trường là hình thức rất
hiệu quả, phù hợp tâm sinh lí của tuổi trẻ, sự giáo dục của thầy, sự tiếp thu của trò rất
nhẹ nhàng và sâu sắc.


SVTH: Mai Thị Ngọc Linh

Trang 24


×