Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Khoá luận tốt nghiệp dạy học bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí trong SGK ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 59 trang )

TR Ư Ờ N G Đ Ạ I H Ọ C s ư PH ẠM H À N Ộ I 2
K H O À N G Ữ V Ă ÌV

ĐÀM THỊ HÀ

DẠY HỌC BÀI “NGHỊ LUẬN VÈ
MỘT T ư TƯỞNG, ĐẠO LÍ” TRONG
SGK NGỮ ỲĂN 12

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Hà Nội - 2011


TR Ư Ờ N G Đ Ạ I H Ọ C s ư PH ẠM H À N Ộ I 2
K H O A N G Ữ VĂĨV

ĐÀM THỊ HÀ

DẠY HỌC BÀI “NGHỊ LUẬN VÈ
MỘT T ư TƯỞNG, ĐẠO LÍ” TRONG
SGK NGỮ VĂN 12


KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC








Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học
Th.s PHẠM KIỀU ANH

HÀ NỘI, 2011


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Th.s Phạm Kiều Anh - cô
giáo đã giúp đỡ em tận tình, chu đáo trong suốt quá trình thực hiện đề tài
này. Đồng thời em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả Quý Thầy Cô
trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn - Trường ĐHSP Hà Nội 2. Nhờ có
sự giúp đỡ lớn lao của Quý Thầy Cô em mới có thể hoàn thành luận văn này.

Xuân Hoà, ngày tháng 05 năm 2011

Tác giả luận văn

Đàm Thi Hà



LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
Thạc sỹ Phạm Kiều Anh. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Kết quả này không trùng với kết quả của bất kì tác giả nào đã được
công bố.

Tác giả luận văn

Đàm Thỉ Hà


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

DANH MUC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGD - ĐT

Bộ Giáo dục và đào tạo

CH

Câu hỏi

GV

Giáo viên

HS


Học sinh

NLVH

Nghị luận văn học

NLXH

Nghị luận xã hội

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

VB

Văn bản


VD
[1,47]

Ví dụ
[Sách, Trang]

s^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

5

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 6
1. Lí do chọn đề tà i.......................................................................................6
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 11
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................15
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..............................................................15
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 15
6. Đóng góp của luận v ăn ...........................................................................17
7. Bố cục của luận văn................................................................................ 17
NỘI DUNG....................................................................................................... 19

Chương 1: Văn bản nghị luận và kiểu bài “Nghị luậnvề một tư tưởng,
đao lí ................................................................................................................ 19


1.1. Phương thức biểu đạt và văn bản nghị luận..........................................19
1.1.1. Phương thức biểu đạt.............................................................................. 19
1.1.2. Văn nghị luận.......................................................................................... 21
1.1.2.1. Khái niệm........................................................................................... 21
1.1.2.2. Đặc điểm cơ bản của văn bản nghị luận........................................... 24
1.1.3. Phân loại văn bản nghị luận....................................................................34
1.2.

Kiểu bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” .................................. 35

1.2.1. Khái niệm về kiểu bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí”.................. 35
1.2.2. Đặc điểm của kiểu bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” ................ 36
1.2.3. Cách thức tạo lập kiểu “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” ................. 39
1.2.4. Kĩ năng lập dàn ý văn bản nghị luận về một tư tưởng, đạo l í ............... 32
Chương 2: Dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí”..................... 45
2.1. Nhân
xét chung
về viêc
triển khai ■nôi dung
bài “Nghi
luân
về môt

«
o


O
o
«
f

tưởng, đạo U” ...................................................................................................45
S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

6

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

2.2. Thưc
trang
day
hoc
bài “Nghi
về môt
tư tưởng,
lí” ở trường


o
• t/


o
• luân


O / đao

o
PTTH.............................................................................................................. 47
2.2.1. Thực trạng dạy của giáo viên................................................................. 47
2.2.2. Thực trạng học của học sinh.................................................................. 49
2.3. Nội dung cơ bản bài “Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí” ............... 50
2.4. Quy trình dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng,
đao
lí” .............................................................................................................54

Chương 3: Thực nghiệm................................................................................ 57
3.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm............................................................. 57
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm........................................................ 57
3.3. Kế hoạch thực nghiệm.............................................................................58
3.4. Nội dung thực nghiệm..............................................................................58
3.5. Kết quả thực nghiệm................................................................................70
KẾT LUẬN......................................................................................................72
Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................ 74

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

7


JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


JC h tki lu ậ n tất m ịh iỀp

ClrườnẨẬ CĐTôStỊ) '3ÙÒ. Q íê i 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống thường ngày, ai cũng có lúc tham gia vào những cuộc
bàn luận về cuộc đời, về lẽ sống, về văn chương, về các vấn đề của đời sống
xã hội. Thông qua việc bàn luận ấy, con người có thể nhận thức và phản ánh
thế giới một cách khoa học, vạch ra và chỉ rõ quy luật bản chất của sự vật
khách quan. Cũng YÌ thế, những cuộc bàn luận ấy có thể diễn ra thường
xuyên, mọi lúc, mọi nơi, và được thể hiện bằng những hình thức khác nhau.
Song dù được thể hiện bằng hình thức nào thì chúng đều thuộc thể loại nghị
luận. Như vậy, nghị luận là một lĩnh vực lớn của đời sống xã hội, của tư duy
về đời sống. Nghị luận nảy sinh từ nhu cầu giao tiếp của con người và quay
trở lại phục vụ đời sống xã hội. Văn nghị luận chiếm khối lượng lớn trong
kho tàng văn hoá của loài người. Trong xã hội hiện tại, nhu cầu bàn luận của
con người ngày càng cao nên văn nghị luận ngày càng có vai trò to lớn. Có
thể nói, hiện nay, văn nghị luận phát triển mạnh và thâm nhập vào mọi mặt
của đời sống. Hằng ngày, người ta đọc văn nghị luận trên sách báo, nghe văn
nghị luận qua đài phát thanh và truyền hình, sử dụng văn nghị luận trong nhà
trường và trong các hội nghị. Không chỉ vậy, văn nghị luận còn được coi là
công cụ khoa học chính xác, là vũ khí tư tưởng sắc bén giúp con người nhận
thức đúng vấn đề của cuộc sống. Điều này cho thấy, việc nghiên cứu và giảng
dạy kiểu văn bản này cho con người là cần thiết, bởi qua đó con người biết sử
dụng kiểu văn bản này đúng lúc, đúng chỗ nhằm đạt được những mục đích
giao tiếp nhất định.

Phát triển đến ngày nay, văn nghị luận ngoài việc làm phong phú và
hoàn thiện thì nhận thức của con người đối với nó cũng sâu sắc và đầy đủ.
Mặc dù vậy, trên thực tế cho đến nay, việc nghiên cứu về kiểu bài này vẫn
còn hạn chế. Lý thuyết về kiểu văn bản này đến nay mới chỉ đạt ở mức độ cần

S^ĩỉ <'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

8

JChfíu fìiạ ĩỉ (ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

thiết. Hơn thế, việc nghiên cứu về kiểu bài này còn tồn tại nhiều mâu thuẫn.
Chẳng hạn: sự thiếu nhất quán khi phân chia các kiểu bài văn nghị luận cũng
gây ra nhiều vấn đề cần xem xét. Có tác giả quan niệm văn nghị luận gồm các
kiểu bài như: giải thích, chứng minh, bình luận, tổng hợp.. .quan niệm này tận
dụng các thao tác nghị luận được sử dụng khi tạo lập văn bản làm cơ sở để
phân loại các kiểu bài văn nghị luận. Trước đây, cách phân chia này rất phổ
biến. Tuy nhiên cho đến nay qua quá trình nghiên cứu, cách phân chia này
cần phải xem xét lại. Điều này dẫn tới quan niệm thứ hai là chia văn nghị luận
theo nội dung vấn đề. Theo quan niệm này, người ta chia nghị luận thành văn
bản nghị luận văn học và văn bản nghị luận xã hội. Mặc dù chia thành hai
kiểu nhưng mỗi kiểu lại có các thể loại khác nhau cần tìm hiểu, và mỗi kiểu
nhỏ này lại có những đặc trưng riêng bên cạnh các đặc trưng chung. Chẳng
hạn, trong văn bản nghị luận xã hội lại có nghị luận chính trị (bàn đến các vấn
đề chính trị..


nghị luận tư tưởng đạo lí (bàn đến sự nhận thức, tâm hồn, đạo

đức, quan hệ gia đình, xã hội, ứng xử, hành động của con người trong cuộc
sống), và nghị luận về hiên tượng đời sống (đề cập đến các đề tài gần gũi với
đời sống như tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường...). Chính vì vậy, việc
dạy làm văn nói chung và việc dạy học văn bản nghị luận nói riêng gặp phải
nhiều khó khăn.
Từ thực tế về tình hình nghiên cứu làm văn tồn tại trong nhiều năm như
vậy, khiến cho việc dạy học làm văn ở trường phổ thông gặp nhiều khó khăn.
Cái khó của phân môn này được thể hiện ở nhiều phương diện như: kiến thức
dạy học, tài liệu tham khảo, thời gian, phương pháp dạy học. Cũng vì thế,
nhiều khi phần làm văn dường như bị bỏ quên trong quá trình dạy học Ngữ
văn ở trường phổ thông... Bởi lẽ, khi dạy học làm văn nhiều giáo viên rất
lúng túng khi xác định nội dung dạy học, lựa chọn phương pháp dạy học cho
phân môn này. Còn người học, cái khó là ở chỗ kiến thức thì khô khan, không

S^ĩỉ <'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

9

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3 d ló a lu ậ n tó/ nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

CÓ sức hấp dẫn, lý thuyết thì xa rời thực hành, việc tổ chức dạy học thì sơ sài,
cứng nhắc... Chính từ những thực tế đó, đòi hỏi việc cần thiết phải xây dựng

được một hệ thống cơ sở lý thuyết về Làm văn đảm bảo tính khoa học. Mặt
khác, cần thiết phải có sự thống nhất trong quan niệm nhằm giúp cho việc dạy
học Làm văn được thuận lợi hơn. Nghiên cứu rõ bản chất, cách làm một bài
văn nghị luận tư tưởng đạo lí sẽ là một cơ sở để chúng ta phân biệt kiểu bài
này với kiểu bài khác và đó cũng là cơ sở để chúng ta có thể phân chia các
kiểu bài văn nghị luận được chính xác và khoa học.
Trong quá trình dạy học Ngữ văn, mục đích cuối cùng của việc dạy học
Làm văn ở trường phổ thông là giúp học sinh có thể tạo lập được những văn
bản hay, có tính sáng tạo. Để đạt được cái đích cuối cùng ấy, việc cung cấp
cho học sinh hệ thống tri thức về các kiểu văn bản là cần thiết. Hơn nữa, trong
một thời gian dài, chúng ta quan niệm các thao tác lập luận thành các kiểu bài
riêng biệt nên khi làm một bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí, học sinh
chỉ biết sử dụng một thao tác duy nhất và nhiều khi không phân biệt sự giống
và khác nhau của những thao tác này. Và cũng trong một thời gian dài, văn
nghị luận xã hội nói chung và văn bản nghị luận về một tư tưởng đạo lí nói
riêng chưa đóng vai trò quan trọng trong chương trình học, còn văn bản nghị
luận văn học vẫn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, trước
sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, nền kinh tế phát triển đến
chóng mặt thì mục đích dạy học cũng thay đổi.Với mục đích giáo dục không
chỉ đào tạo những con người biết những kiến thức trong sách vở mà còn phải
đào tạo những con người vừa hồng vừa chuyên, biết vận dụng kiến thức đã
học ra ngoài thực tế và nắm rõ về các Yấn đề xã hội nên nghị luận xã hội đóng
vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học. Bên cạnh đó, việc dạy văn bản
nghị luận xã hội trong nhà trường phổ thông sẽ giúp học sinh biết nhìn nhận
và giải quyết vấn đề sâu sắc, triệt để. Do đó, dạy văn bản nghị luận chúng ta

S^ĩỉ <
'Đàm xJlii 7Ểà X 33 (B

10


JChou fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3 d ló a lu ậ n tó/ nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

không thể xem nhẹ văn bản nghị luận xã hội nói chung và văn bản nghị luận
về một tư tưởng đạo lí nói riêng. Ở các sách giáo khoa Làm văn trước đây, nội
dung này đã được triển khai nhưng vẫn còn qua loa. Còn trong sách giáo khoa
Ngữ văn hiện nay, tri thức nghị luận nói chung và nghị luận về một tư tưởng
đạo lí nói riêng đã được trình bày cụ thể, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực
hành.
Thêm vào đó, theo cấu trúc đề thi Đại học từ năm 2010 của BGD-ĐT,
môn Văn có câu hỏi về kiểu bài nghị luận xã hội. Đó có thể là dạng bài cụ thể
về nghị luận tư tưởng, đạo lí hay nghị luận về một hiện tượng đời sống. Qua
đó, chúng ta càng thấy được vai trò quan trọng của dạy và học văn bản nghị
luận xã hội trong nhà trường. Và việc nghiên cứu dạy học bài “Nghị luận về
một tư tưởng đạo /í” sẽ giúp giáo viên nắm được bản chất của thể loại này,
đồng thời có thể rèn luyện cho học sinh khả năng tạo lập một văn bản nghị
luận đúng, hay, có sức thuyết phục.
Tuy nhiên, để dạy học bài này đạt hiệu quả thì đòi hỏi học sinh phải có
năng lực xử lí thông tin khéo léo. Tù yêu cầu cụ thể đó, sách giáo khoa Ngữ
văn 12, tập 1 đã giới thiệu những kiến thức cơ bản về “Nghị luận về một tư
tưởng đạo /í”. Và việc nghiên cứu nhằm tìm ra một hướng dạy học “Nghị
luận về một tư tưởng đạo /í” là cần thiết. Bởi qua đó, ta có thể đưa ra những
cách trang bị kiến thức khoa học nhất giúp các em lĩnh hội tốt bài học này.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Dạy học bài:
“Nghị luận một tư tưởng đạo lí” trong SGK Ngữ văn 12.

2. Lịch sử vấn đề
Làm văn hay Tập làm văn từ trước đến nay vẫn được coi là một trong ba
phân môn của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Và việc dạy phân
môn này vẫn đóng vai trò quan trọng trong môn Văn. Nghị luận bắt nguồn từ
nhu cầu của cuộc sống, của xã hội và quay trở lại phục vụ đời sống xã hội nên

S^ĩỉ <
'Đàm xJlii 7Ểà X 33 (B

11

JChou fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3 d ló a lu ậ n tó/ ntjhièft

ÇJru&ng, ^Đ'76SỈJ) 'X>à. Q lậ i 2

văn nghị luận cũng có vai trò to lớn đối với con người và xã hội. Xuất phát từ
vai trò to lớn ấy, các nhà nghiên cứu về Làm văn luôn luôn chú trọng nghiên
cứu loại văn bản này.
Khi nghiên cứu loại văn bản này, các nhà nghiên cứu dù ít hay nhiều đã
chú trọng đến việc phân loại văn bản nghị luận thành các kiểu nhỏ hơn. Bởi
mỗi một loại có cách tạo lập chung của kiểu bài đó, nhưng bên cạnh công
thức chung lại có cách thức riêng phù hợp với đặc trưng của từng kiểu bài đó.
Việc phân loại van nghị luận có nhiều cách theo các tiêu chí khác nhau,
nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều chia văn nghị luận thành hai loại là
nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Việc phân chia các loại văn bản sẽ tạo
điều kiện cho người viết nắm được đặc điểm riêng của kiểu bài và sẽ có khả
năng tạo lập văn bản nghị luận đúng, hay.

Trong cuốn “Làm văn” do Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên) các giả đã chỉ rõ
“ Nghị luận chỉnh trị- xã hội là loại đề yêu cầu bàn bạc về một vẩn đề chỉnh
trị, đạo đức, luân lí hay một vấn đề xã hộp [11, 229]. Ớ đây, tác giả đã chỉ ra
các phạm trù của nghị luận xã hội đó là: nghị luận chính trị; nghị luận đạo đức
tư tưởng; nghị luận hiện tượng đời sống xã hội. Bên cạnh đó, trong cuốn sách
này, tác giả cũng đã lưu ý một số điểm khác nhau khi làm đề văn nghị luận xã
hội với nghị luận văn học; giữa nghị luận về một tư tưởng đạo lí với nghị luận
một hiện tượng đời sống. Mặc dù vậy, những lưu ý đó mới chỉ được tác giả
nêu ra một cách khái quát. Và khi chỉ ra cách làm bài văn nghị luận, tác giả
mới trình bày cách làm của văn bản nghị luận chung chung, chưa quan tâm
đến cách làm cụ thể đối với mỗi kiểu bài. Cụ thể: các tác giả có viết “Đề văn
này thuộc loại nào? NLVHhay NLXH? Nếu là NLVH thì đề thuộc nhóm nào?
[...] Nếu là NLXH thì đề thuộc nhóm nào?” [11, 231]. Như vậy, ở đây các tác
giả đã bàn đến sự khác nhau giữa các kiểu bài trong đề văn. Từ việc chỉ ra sự
khác nhau đó, các tác giả cho chúng ta thấy với mỗi kiểu bài này sẽ có cách

S^ĩỉ <
'Đàm ÇJhi 7Ểà X 33 (B

12

ÍJChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

tiếp cận, cách tạo lập khác nhau. Nếu là NLXH thì có hướng tiếp cận của kiểu
bài NLXH và nếu đó là NLVH sẽ có hướng tiếp cận của kiểu bài NLVH.

Nhóm tác giả Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hoàn, Giang Khắc Bình trong
cuốn “Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở” cũng chỉ
ra cách phân loại văn nghị luận căn cứ vào nội dung vấn đề. Theo tiêu chí đó,
văn nghị luận gồm các loại sau: nghị luận chính trị (có nội dung là các vấn đề
chính trị), nghị luận xã hội (nội dung là các vấn đề xã hội), nghị luận đạo đức
(nội dung là các Yấn đề đạo đức, nhân sinh quan), nghị luận văn học (nội dung
là các vấn đề về văn học). Ở đây, tác giả tách nghị luận chính trị, nghị luận
đạo đức ra thành kiểu bài riêng, không nằm trong nghị luận xã hội như các tác
giả trong cuốn “Làm văn”. Dù phân chia như vậy, nhưng tác giả cũng đã đề
cập đến sự khác nhau về đề tài của các kiểu văn nghị luận xã hội và nêu được
đặc trưng cơ bản của nghị luận xã hội về tư tưởng, đạo đức...
Tác giả Nguyễn Quốc Siêu trong cuốn “K ĩ năng làm văn nghị luận phổ
thông” đã đề cập đến những thể loại nghị luận thường dùng gồm có: bình luận
tư tưởng, chính luận, bài nói, tạp văn, bình luận văn học, luận văn học thuật,
cám nghĩ, báo cáo điều tra tổng kết. Theo tác giả “Bình luận tư tưởng là bình
luận về tình hình các mặt trạng thái tư tưởng, tác phong, phương pháp và
nhận thức ...diễn biến của con người”. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Quốc
Siêu còn tổng kết, khái quát, nâng cao và chỉ ra kĩ xảo của việc luyện tập để
viết thể loại văn nghị luận. Tuy nhiên, bình luận tư tưởng là cách chia đã lâu
và nó chưa bao quát hết các bình diện của nghị luận tư tưởng, đạo lí. Ở đây,
thể loại bình luận tư tưởng mới đề cập đến tư tưởng bỏ qua phần đạo lí.
Hay trong cuốn “Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn
Ngữ văn lớp 12” (Vũ Quốc Anh - Nguyễn Hải Châu - Nguyễn Khắc Đàm Bùi Minh Đức - Nguyễn Duy Kha - Trần Đăng Nghĩa - Bùi Xuân Tân - Bùi
Minh Toán - Nguyễn Thị Hồng Vân) cũng đề cập đến mức độ cần đạt đối với

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

13


JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

văn bản nghị luận là “Hiểu yêu cầu và cách thức vận dụng tổng hợp các thao
tác và các phương thức biểu đạt trong bài văn nghị luận. [...] Biết vận dụng
kết hợp các thao tác nghị luận và các phương thức biểu đạt để viết bài văn
nghị luận.” [7, 15]. Đây cũng là mức độ cần đạt đối với bài viết về một tư
tưởng đạo lí. Như vậy, các tác giả đã đề ra những yêu cầu cơ bản nhất cần đạt
được khi dạy học về văn bản nghị luận. Tuy nhiên, các kiến thức này vẫn còn
sơ lược chưa được cụ thể.
Tác giả Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử (Và các tác giả khác) trong
cuốn “Hướng dẫn thực hiện chương trình SGK lớp 12 môn Ngữ văn” (Tài
liệu dùng trong các lớp bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình và SGK
lớp 12” cũng viết “Làm văn trong SGK Ngữ văn 12 tiếp tục rèn luyện cho học
sinh các kĩ năng làm văn: thực hành lập luận [...], viết phần mở bài và kết bài
trong bài văn nghị luận, diễn đạt trong văn nghị luậri” [2, 69], và đối YỚi kiểu
bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí các tác giả cũng chỉ ra những yêu cầu,
các nội dung cần đạt, các lưu ý học sinh khi làm kiểu bài này. Nhìn chung,
đây là tài liệu hướng dẫn giáo viên thực hiện chương trình SGK nói chung và
kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí nói riêng. Tuy nhiên, tài liệu này chỉ
mang tính chất định hướng cho nên khi dạy học bài “Nghị luận về một tư
tưởng đạo lí” giáo viên cần phải nghiên cứu và tìm hiểu thêm ở nhiều tài liệu
khác để bài dạy đạt được mục tiêu đề ra.
Chương trình Làm văn lớp 12 quy định giảng dạy các kỹ năng phân tích,
bình luận văn học, bình luận xã hội, đồng thời cũng chú ý hoàn thiện cách mở
bài, kết bài, chuyển đoạn. Chương trình mới không phân chia tách bạch các kĩ

năng phân tích, bình giảng, bình luận mà chú ý đến những thao tác tư duy có
tính chất tổng hợp hơn như xây dựng luận điểm, luận cứ và cuối cùng là luyện
tập các kiểu bài bình luận xã hội và bình luận văn học. Trên đại thể, chương
trình mới không rèn luyện các kiểu bài quen thuộc trong nhà trường như phân

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

14

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

tích, bình luận mà chỉ chú trọng kiểu bài nghị luận trên cơ sở hình thành các
thao tác nghị luận như xây dựng luận điểm, luận cứ. Và việc dạy học bài
“Nghị luận về một tư tưởng đạo /í” cũng theo tinh thần đó.
Tuy nhiên, trong chương trình THCS, THPT trước kia, kiểu bài “Nghị
luận về một tư tưởng đạo /í” cũng được đề cập nhưng chỉ chú trọng tới một
thao tác chính. Đó là do các tác giả chưa thống nhất cách phân chia các kiểu
bài nghị luận mà vẫn coi mỗi thao tác lập luận là một kiểu bài riêng. Điều này
dẫn đến thực trạng khi nghiên cứu cụ thể về kiểu bài “Nghị luận về một tư
tưởng đạo IF còn ít và chưa sâu sắc.
Đến chương trình mới, kiểu bài này đã được đưa thành một bài riêng với
cách làm cụ thể trong SGK lớp 9, tập 2 và SGK lớp 12, tập 1 các em lại được
tiếp cận ở mức cao hơn.
Chính sự thay đổi trong quan niệm và mục đích dạy học kiểu bài nghị

luận về một tư tưởng đạo lí ở chương trình mới so với chương trình cũ đã gây
khó khăn cho giáo viên về nguồn tư liệu, đồng thời người viết còn lúng túng .
không nắm chắc cách thức tạo lập văn bản này. Việc dạy học văn bản nghị
luận nói chung và kiểu bài “Nghị luận về một tư tưởng đạo /í” nói riêng ở
trường THPT đòi hỏi cần phải xây dựng được cơ sở lý thuyết và cách làm
kiểu bài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc trình bày những kiến thức cơ bản về văn bản nghị
luận về một tư tưởng đạo lí, chúng tôi muốn vận dụng vào việc tổ chức dạy
học nội dung này cho HS THPT, đặc biệt là HS lớp 12. Qua đó, giúp HS nắm
được cách thức tạo lập một bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, trước hết là
kỹ năng tìm hiểu đề và lập dàn ý. Bên cạnh đó, giúp HS có ý thức và khả
năng tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phán những quan niệm sai

S^ĩỉ <'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

15

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

lầm về tư tưởng đạo lí. Đồng thời, giúp HS có đủ kiến thức và tự tin tham gia
nghị luận về bất kì một tư tưởng đạo lí nào với lập luận chặt chẽ, chính xác,
hợp lí, toàn diện và có sức thuyết phục cao.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Đe đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, khoá luận có những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Trình bày hệ thống những kiến thức về văn bản nghị luận và kiểu bài
“Nghi
về môt
tư tưởng
đao
/í”
o
• luân


o
*
- Vận dụng những tri thức đó vào việc thực hiện dạy học bài “Nghị luận
về một tư tưởng đạo i r trong SGK 12, tập 1.
- Đánh giá hiệu quả của việc vận dụng các tri thức đó vào dạy học.
4. Đổi tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên
cứu quá trình tổ chức dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng đạo l f cho HS
THPT, đặc biệt là HS lớp 12.
4.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Đề tài này tập trung tìm hiểu những kiến thức chung về nghị luận về
một tư tưởng đạo lí trong SGK lớp 12.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khi làm khoá luận này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp tổng hợp lí luận và thực tiễn.
Đây là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu khoa học. Bản chất của
phương pháp này là dựa trên các thông tin đã có bằng các thao tác tư duy

logic để rút ra các kết luận khoa học. Phương pháp này được sử dụng để thu
thập nguồn tư liệu nghiên cứu lịch sử vấn đề và cơ sở lý thuyết của đề tài.
5.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

16

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

Phương pháp này được thể hiện thông qua một số khía cạnh:
- Xây dựng cơ sở thực nghiệm sư phạm thông qua các bài thiết kế nội
dung dạy học. Cơ sở thực nghiệm được xác định dựa vào các tri thức về giáo
dục, tâm lý, về trình độ nhận thức của từng đối tượng và căn cứ vào hệ thống
tri thức về văn bản “Nghị luận về một tư tưởng đạo /í” trong SGK lớp 12, tập

- Tổ chức giảng dạy ở trường phổ thông
- Thông qua quá trình thực hiện giảng dạy, đánh giá nhận thức của HS và
đánh giá nội dung về làm văn trình bày trong SGK, từ đó đưa ra một số đề
xuất về nôi dung cũng như về việc giảng dạy làm văn cho HS lớp 12.
6. Đóng góp của luận văn.
Luận văn góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ thêm về cách dạy kĩ
năng làm văn cho học sinh thông qua một kiểu bài nghị luận - kiểu bài “Nghị
luân

về môt
tư tưởng
đao
/í”
«

o

7. Bố cục của luận văn.
Để triển khai đề tài, chúng tôi chia khoá luận thành ba phần lớn: mở
đầu; nội dung; kết luận. Cụ thể:
Mở đầu: tập trung trình bày các nội dung cơ bản có tính định hướng
cho việc nghiên cứu nội dung đề tài là: lý do chọn đề tài; lịch sử vấn đề; đối
tượng, phạm vi nghiên cứu; mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu; phương pháp
nghiên cứu. Ngoài ra, tôi còn giới thiệu về đóng góp và bố cục của luận văn.
Nội dung: gồm 3 chương. Mỗi chương được chúng tôi tập trung trình
bày các phương diện khác nhau của đề tài. Cụ thể:
+ Chương 1: Văn bản nghị luận và kiểu bài “Nghị luận về một tư
tưởng đạo i r
+ Chương 2: Dạy học bài “Nghị luận về một tư tưởng đạo ỉ f ’
+ Chương 3: Thực nghiệm

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

17

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn



3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

Kết luận: Đây là nội dung cuối cùng của luận văn. Trong phần này,
chúng tôi tập trung khái quát lại, hệ thống lại Yấn đề đã được triển khai trong
các phần trên.

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

18

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


JC h tki lu ậ n tất m ịh iỀp

ClrườnẨẬ CĐTôStỊ) '3ÙÒ. Q íê i 2

NÔI DUNG
CHƯƠNG 1: VĂN BẢN NGHỊ LUẬN VÀ KIỂU BÀI
“NGHỊ LUẬN VÈ MỘT T ư TƯỞNG ĐẠO LÍ”.

1.1. Phương thức biểu đạt và văn bản nghị luận.
1.1.1. Phương thức biểu đạt.
Giao tiếp là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của
con người. Thông qua giao tiếp, con người có thể trao đổi, giãi bày ý kiến đó
với mọi người và khiến mọi người có thể hiểu, thông cảm với bản thân hoặc
thống nhất trong lao động để tạo ra những hiệu quả nhất định.

Hoạt động giao tiếp là hoạt động có mục đích. Mục đích ở đây được hiểu
là trao đổi thông tin, truyền đạt một nội dung, một vấn đề, một chuyện gì đó,
hay một việc gì đó với nhau. Mục đích này không tự nhiên sinh ra, không tự
nhiên là có. Nó xuất phát từ chỗ một nhân vật giao tiếp cảm thấy có “nhu cầu”
nào đấy thôi thúc phải trao đổi thông tin YỚi người kia. Nói một cách khác,
hoạt động giao tiếp bao giờ cũng chỉ được thực hiện khi con người có động cơ
nhất định nhằm đạt được một mục đích nhất định. Và để “nhu càu” giao tiếp
nảy sinh thì điều kiện quan trọng và cần thiết chính là môi trường giao tiếp.
Môi trường ấy vừa tạo ra nhu cầu, vừa là không gian tiến hành giao tiếp.
Để ghi lại nội dung lời nói trong hoạt động giao tiếp, chúng ta có thể
dùng lời nói hoặc chữ viết. Dùng lời nói ghi lại nội dung ta có các ngôn bản,
còn dùng chữ viết ghi lại nội dung giao tiếp sẽ cho ta các văn bản. Như vậy,
văn bản chính là sản phẩm của hoạt động giao tiếp. Đó là hệ thống các ngôn
ngữ được tổ chức sắp xếp hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung,
thống nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp, thực hiện một hoặc một số mục
đích nhất định.
S^ĩỉ <'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

19

JChfíu fìiạ ĩỉ (ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

Để văn bản đạt hiệu quả giao tiếp cao, điều quan trọng khi tạo lập văn
bản chính là việc người viết phải căn cứ vào động cơ, mục đích giao tiếp phù
hợp. Mục đích giao tiếp vừa là cơ sở để đánh giá, vừa là thước đo giá trị của

văn bản. Hình thức thể hiện văn bản là yếu tố ghi lại nội dung của văn bản
được gọi là kiểu văn bản.
Mỗi kiểu văn bản được sử dụng để truyền tải những nội dung cụ thể với
những mục đích cụ thể. Vì vậy, mỗi kiểu văn bản sẽ có những phương pháp
luận riêng dựa trên đặc trưng của từng kiểu văn bản. Mỗi phương pháp luận
quy định cách thức diễn đạt nội dung cho phù họp với từng kiểu văn bản như
vậy được gọi bằng thuật ngữ “phương thức biểu đạt”.
Theo “Từ điển tiếng Việt”, tường giải và liên tưởng thi “phương thức
biểu đạt là toàn thể những đặc điểm xác định cách thức, tiến hành, áp dụng.”
(Sđd. Tr.657).
Căn cứ vào cách giải thích phương thức như trên, chúng ta có thể hiểu:
phương thức biểu đạt chính là toàn bộ những đặc điểm xác định, quy định
cách thức tổ chức diễn đạt nội dung cho từng văn bản nhằm tạo ra được một
văn bản trọn vẹn, mạch lạc về nội dung và trọn vẹn về hình thức. Hay nói
cách khác, phương thức biểu đạt là khái niệm dùng để chỉ các quy định về
cách thức tổ chức diễn đạt nội dung cho văn bản nhằm tạo ra được một văn
bản phù hợp về nội dung và mục đích giao tiếp. Phương thức biểu đạt chỉ
được hình thành khi xác định được nội dung và mục đích tạo lập văn bản và
nó được biểu hiện cụ thể trong những hoàn cảnh giao tiếp. Như vậy, phương
thức biểu đạt cũng là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, là công cụ, phương
tiện, là hình thức để truyền tải nội dung giao tiếp nhằm tạo nên tính hoàn
chỉnh về hình thức, thống nhất về cấu trúc văn bản. Hơn nữa, phương thức
biểu đạt giúp con người có thể tường minh một cách trọn vẹn nội dung giao
tiếp và nhờ có nó, người đọc, người nghe mới có thể tiếp nhận đầy đủ nội

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

20


JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

dung giao tiếp, và xác định được mục đích của cuộc giao tiếp ấy. Không chỉ
vậy, phương thức biểu đạt còn là cơ sở để con người đánh giá và xác định giá
trị của văn bản trong mối quan hệ với mục đích giao tiếp đó.
Là một sản phẩm của hoạt động giao tiếp, văn bản được tạo ra nhằm
giúp con người thực hiện một hoặc một số mục đích nào đó. Vì vậy, muốn
xác định được cách tổ chức nội dung văn bản, người ta thường căn cứ vào
mục đích giao tiếp. Hiện nay, căn cứ vào mục đích giao tiếp, các nhà khoa
học cho rằng có sáu kiểu vãn bản tương ứng YỚi sáu phương thức biểu đạt đó
là: tự sự; miêu tả; biểu cảm; hành chính công vụ; thuyết minh; lập luận.
Tương ứng YỚi sáu phương thức này tạo ra sáu kiểu văn bản là: văn bản tự sự;
văn bản miêu tả; văn bản biểu cảm; văn bản hành chính công vụ; văn bản
thuyết minh; và văn bản lập luận. Mỗi kiểu văn bản đều có đặc trưng riêng,
tính chất riêng song chúng vẫn tác động lẫn nhau. Vì vậy, trong quá trình làm
văn, người viết cần biết chúng để trình bày vấn đề một cách cụ thể chân thực
nhằm giúp người tiếp nhận có thể hiểu vấn đề một cách sâu sắc và tạo ra
những hiệu quả nhất định.
1.1.2. Văn nghị luận.
l.ỉ.2.1. Khái niệm.
Trong hoạt động giao tiếp, nhiều khi con người phải đánh giá và bày tỏ ý
kiến, thái độ của mình đối với các vấn đề được trình bày. Để làm được điều
đó, con người phải sử dụng tới phương thức lập luận.
Phương thức lập luận là phương thức biểu đạt trong văn bản nghị luận.
Trong Hán ngữ cổ thì “nghị” chỉ việc phát biểu ngôn luận, còn “luận” là bình

luận, thảo luận làm cho lí lẽ rõ ràng, khúc chiết và có tính thuyết phục.
“Nghị” là hoạt động nhằm đi đến quyết định, “luận” thiên về sự phân định
phải, trái, đứng, sai. Song chúng đều cùng một ý nghĩa là con người để bàn
luận các vấn đề của xã hội.

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

21

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

Nghị luận là một dạng thức giao tiếp cơ bản của con người. Nhờ có nó,
con người có thể bàn luận và làm rõ các vấn đề của tự nhiên, xã hội. Cũng
thông qua bàn luận, con người mới có thể hiểu và tin nhau hơn. Vì vậy, nghị
luận là phương thức nảy sinh do nhu cầu của con người và nó quay lại phục
vụ đời sống xã hội. Cho nên, có thể nói nghị luận là hình thức giao tiếp nảy
sinh cùng với sự xuất hiện của con người, hình thành và phát triển cùng xã hội
loài người. Xuất phát từ vai trò quan trọng của phương thức biểu đạt này đối
với đời sống và con người nên kiểu văn bản nghị luận cũng rất được chú trọng
nghiên cứu.

về bản chất, nghị luận là kiểu văn bản, trong đó, người nói

(người viết) trình bày những ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao gồm

cả lí lẽ và dẫn chứng để bàn định, nhận xét làm cho người nghe (người đọc)
hiểu, tin, đồng tình YỚi những ý kiến của mình, và hành động theo những gì
mình đề xuất.
Nếu văn bản miêu tả là kiểu văn bản được dùng để mô tả, khắc họa lại
hình ảnh, văn bản kể chuyện được dùng nhằm tái hiện đời sống, con người
bằng ngôn ngữ chủ yếu là khơi gợi, tác động vào cảm xúc, tư tưởng người
đọc (người nghe), thì nghị luận lại thiên về trình bày các ý kiến, các lí lẽ, các
dẫn chứng để bàn định, nhận xét nhằm làm sáng tỏ một vấn đề nào đó và qua
đó tác động vào trí tuệ, lý trí của người đọc (người nghe). Vì thế, nghị luận là
kết quả của hoạt động tư duy logic. Nói khác đi, nghị luận là tên gọi chung
cho một thể loại văn bản vận dụng các hình thức của tư duy logic như khái
niệm, phán đoán, suy lý để xác định bản chất của sự việc, trình bày lí lẽ, phân
biệt đúng sai và tiến hành làm sáng tỏ một cách khoa học đối với hiện thực
khách quan và quy luật bản chất của sự vật đó nhằm biểu đạt tư tưởng, chủ
trương, ý kiến, quan điểm của người nói (người viết) đối với vấn đề được
nghị luận. Để chứng minh cho điều này, chúng ta cùng xét YÍ dụ sau:

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

22

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

“Nước ta còn nghèo. Muốn sung sướng thì phải cỏ tỉnh thần tự lực cánh

sinh, cần cù lao động, phải cố gẳng sản xuất. Lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chủng ta. Trong xã hội ta, không
nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người
nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư nếu làm tròn nhiệm vụ thì
đều vẻ vang như nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn “ngồi mát ăn bát vàng” người
đó mới là kém vì không phải là người xã hội chủ nghĩa
(“Cầ« kiệm xây dựng nước nhà ” - Hồ Chí Minh).
Đoạn văn nghị luận trên thật ngắn gọn. Trong đoạn văn ấy, Bác đã nêu
lên thái độ, nhận thức của mình đối với lao động - hoạt động cơ bản của con
người. Để làm rõ vấn đề ấy, Bác đã giúp mọi người hiểu đúng thế nào là lao
động và thái độ của Người đối với hoạt động lao động: lao động là một hoạt
động cao quý, nó không phân biệt nghề nghiệp mà chỉ phân biệt đối YỚi
những người không biết ý thức và nỗ lực trong lao động. Lao động cao quý
chính bởi nó là cơ sở tạo ra của cải vật chất cho xã hội, và là sản phẩm do
công sức con người. Triển khai vấn đề đó, Bác đã đứng trên lập trường Cách
mạng để phát biểu. Nêu cơ sở lao động của con người, Bác xuất phát từ đặc
điểm nước ta: “Nước ta còn nghèo” và qua đó Bác khẳng định: “Lao động là
nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”, làm
bất kì nghề gì “nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau”. Đọc
đoạn văn, chúng ta thấy, Bác luôn dùng ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi quần
chúng nhân dân và lối diễn đạt tự nhiên như thành ngữ: “ngồi mát ăn bát
vàng”. Bác đi thẳng vào vấn đề cốt lõi để giải thích, phân tích với lí lẽ giản dị
nhưng sâu sắc, lập luận sắc sảo, chính xác. Chính điều đó, Bác đã khiến người
đọc hiểu, tin, và đồng tình YỚi ý kiến của Người về lao động.
Tóm lại, văn bản nghị luận là loại văn bản trong đó người viết đưa ra
những lí lẽ, những dẫn chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B


23

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

bàn luận làm cho người đọc hiểu, tin, tán đồng với những ý kiến của mình và
hành động theo những điều mình đề xuất.
I.I.2.2. Đặc điểm cơ bản của văn bản nghị luận.
*

Đặc điểm 1: Văn bản nghị luận là kiểu văn bản gắn liền với đời sống

con người.
Văn bản nghị luận được tạo lập nhằm giải quyết một vấn đề nào đó trong
cuộc sống. Trong văn bản ấy, người viết sẽ trình bày các quan điểm, tư tưởng,
chính kiến, nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề để thuyết phục người đọc
tán đồng và làm theo. Văn bản nghị luận mang đậm dấu ấn chủ quan của
người viết.
Văn bản nghị luận nảy sinh khi có vấn đề cần giải quyết, cần làm sáng
tỏ. Như vậy, nghị luận nảy sinh từ đời sống và quay lại phục vụ đời sống xã
hội. Và bằng hệ thống các luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, chính xác,
hấp dẫn, lập luận sắc bén, người viết sẽ thuyết phục người đọc tán thành và
làm theo tư tưởng, quan điểm đó của mình.
Chẳng hạn: Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật, kẻ
đang chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ, đã đầu hàng Đồng minh. Trên toàn
quốc, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền. Ngày 26 - 8 - 1945, Chủ tịch

Hồ Chí Minh từ chiến khu Cách mạng Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà số 48
phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Ngày 2 - 9 1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn đồng bào, Người
thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản
“Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam mới.
Văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà
còn để công bố với thế giới, đặc biệt là những lực lượng thù địch và cơ hội
quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất nước ta. Cũng trong thời
gian đó, nhà cầm quyền Pháp tuyên bố: Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

24

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


3CkÁ€L lu ận tố t nạhiỀỊL

^ ĩrtiồtnị CĐ'76SỈJ) '76à. (JIM 2

quân Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên
thuộc quyền “bảo hộ” của người Pháp. Xuất phát từ hoàn cảnh đất nước lúc
bấy giờ, thù trong giặc ngoài luôn lâm le chống lại chính quyền non trẻ, Bác
viết “Tuyên ngôn Độc lập”. Và đến lượt nó, “Tuyên ngôn Độc lập” đã kiên
quyết bác bỏ luận điệu “bảo hộ” của thực dân Pháp. “Tuyên ngôn Độc lập ” là
một tác phẩm chính luận đặc sắc, sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm
được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác
thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.
“Tuyên ngôn Độc ỉập” là một dạng của văn bản nghị luận, thuộc ngôn

ngữ chính luận. Nó là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: Là lời tuyên bố xoá bỏ
chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình
đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc
lập, tự do trên đất nước ta.
Đoạn văn sau thể hiện rõ điều này:
“Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ẩy, cỏ
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc
Lời bất hủ ẩy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ.
Suy rộng ra, câu ẩy cỏ ỷ nghĩa là: tẩt cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng cỏ quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp
năm 1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

S^ĩỉ <
'Đàm xTliị 7Ểà CK 33 (B

25

JChfíu fìiạĩỉ(ĩ)ăn


×