Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

258916

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.27 KB, 17 trang )

Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

LỜI MỞ ĐẦU
Tiền tệ từ lâu đã trở thành vật ngang giá chung của các hàng hoá, dịch vụ. Các
giao dịch buôn bán ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều sử dụng tiền và tiền tệ gắn liền
với quan hệ lợi ích. Thực tế này minh chứng cho vai trò quan trọng của tiền tệ trong nền
kinh tế của các quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó được đặc trưng bởi sức mua; khi sức
mua thay đổi hay lạm phát xuất hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của mọi người,
từ các tổ chức, cá nhân cho tới chính phủ. Do vậy, lạm phát chính là đối tượng nghiên
cứu của các nhà kinh tế học từ nhiều năm nay. Lạm phát được coi như là một căn bệnh
thế kỉ của nền kinh tế thị trường, mặc dù lý thuyết về lạm phát đã khá phát triển nhưng
việc làm thế nào vận dụng các biện pháp để kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi
nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề phức tạp.
Nhìn lại lịch sử lạm phát ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, lạm phát
diễn ra kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế
Việt Nam đồng thời ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội.
Những sự kiện gần đây như việc Việt Nam gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài đã đột
ngột chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt
Nam trong hai năm 2009 và 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy
cơ lạm phát tăng mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ
mô và đặc biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. Với sự điều hành quản lý của
nhà nước, lạm phát đã phần nào được ngăn chặn, khắc phục; tuy nhiên với nhiều bất cập
như thị trường tài chính tiền tệ kém phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các
chính sách pháp luật vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ... lạm phát vẫn chưa thật sự
được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc
tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua, giai đoạn 2008-2010, về nguyên nhân, diễn biến,
tác động, giải pháp…sẽ giúp ta có một cái nhìn tổng quan hơn, đúc kết được kinh
nghiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới.
Với những nội dung cơ bản như trên, đề án được trình bày theo 3 chương:
1
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc



Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề lạm phát.
Chương 2: Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Các giải pháp ứng phó với lạm phát tại Việt Nam trong thời gian
tới.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình
nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ
bảo tận tình từ các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành gửi
lời cảm ơn đến thầy Th.s Nguyễn Ngọc đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ LẠM PHÁT
2
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

1.1. Quan niệm, cách tính, phân loại lạm phát
1.1.1. Quan niệm về lạm phát
Lạm phát là vấn đề không xa lạ đối với một nền kinh tế nhưng hiểu chính xác lạm
phát là gì không phải dễ, và ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm,
cách tiếp cận, lý luận khác nhau về lạm phát.
 Trường phái kinh tế học thị trường
Theo trường phái kinh tế học thị trường (đại diện là Milton Friedman), họ cho
rằng lạm phát là “một hiện tượng xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại”,
là “đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên”. Chúng ta đều
biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu
nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung
vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. Những
người theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện
tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
 Trường phái cầu kéo
Theo trường phái lạm phát do cầu kéo (đại diện là J.Keynes), họ cho rằng lạm
phát là “cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn

dụng dẫn đến mức giá chung tăng”. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là “cầu
dư thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ Chủ
nghĩ tư bản phát triển, mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn
ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và
lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái kinh tế học thị trường là không
lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát
nhưng lại mắc sai lầm về mặt logic là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của
lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nêu được đúng bản chất kinh tế - xã hội của
lạm phát.
 Trường phái lạm phát và giá cả
3
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

Theo trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là “sự tăng giá”. Thực
chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà
không có lạm phát như: thời kỳ “cách mạng giá cả” ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ
hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa... tăng giá chỉ là hệ quả là một
tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm
phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều yếu tố chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá.
Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho
người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
 Trường phái Karl Marx
K.Marx đã cho rằng: lạm phát là “sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông
những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản
phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản”. Ở đây Marx đã
đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, từ đó dẫn tới việc người ta có thể hiểu
lạm phát là do giai cấp tư bản chủ động tạo ra để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản.
Trường phái này có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các

quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ
bản của lạm phát.
Ở nước ta cũng như nhiều nước khác, quan niệm của trường phái giá cả được
chấp nhận tương đối phổ biến. Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm
phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy
bén, dễ thấy của lạm phát. Nói chung, lạm phát chính là một hiện tượng của các nền kinh
tế thị trường, và chúng ta sẽ hiểu đơn giản lạm phát là “sự tăng giá kéo dài, là sự thừa
các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi
ngân sách”.
1.1.2. Cách tính tỉ lệ lạm phát
4
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tổng
quát theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế
nào? Hai thước đo thông dụng phản ánh mức gía tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
và chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator).
 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hoá trong
nhiều năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hoá đó trong năm gốc 1. Chỉ số giá
này phụ thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hoá tiêu dùng.
Về mặt tính toán, CPI được tính như sau:
Trong đó:
i
q
: rỗ hàng hoá,
i
p
: giá của các mặt hàng
t : năm hiện hành
0 : năm gốc

 Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm
tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được
điều chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hoá và dịch vụ
vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán tỷ
lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trực tiếp sự biến
động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Về mặt tính toán, chỉ số điều chỉnh GDP được tính như sau:
Trong đó:
i
q
: rỗ hàng hoá,
i
p
: giá của các mặt hàng
t : năm hiện hành
0 : năm gốc
1.1.3. Phân loại lạm phát
1.1.3.1. Căn cứ vào định lượng
5
Chỉ số điều chỉnh GDP =
ii
t
i
t
i
t
pq
pq
0
.

.


CPI =
ii
i
t
i
pq
pq
00
0
.
.


Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

 Lạm phát vừa phải: là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh
tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó
được biểu hiện: giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng
mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền
kinh tế chấp nhận được, những tác động của nó là không đáng kể.
 Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ
2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không
đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao
thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế,
các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động
sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm

ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe
doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế.
 Siêu lạm phát: là lạm phát 3 con số một năm, xảy ra khi lạm phát đột biến
tăng lên với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa
lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh
khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị
giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị
trường biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất
phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách
nhanh chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra.
1.1.3.2. Căn cứ vào định tính
 Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
• Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×