Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Biến đổi mức sống của nhóm cư dân sau tái định cư ở đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.14 KB, 89 trang )

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đô thị hóa là một xu hớng tất yếu của lịch sử, là cơ sở để đánh giá
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phơng, mỗi quốc gia.
Trong những năm qua, việc quy hoạch dân c nhằm chỉnh trang đô thị,
nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật tạo, điều kiện cho việc mở rộng, phát triển
kinh tế - xã hội là một chính sách lớn đợc các cấp ủy Đảng và chính quyền
nhân dân thành phố Đà Nẵng đặc biệt quan tâm. Chính sách này đã và đang
mang lại hiệu quả hết sức to lớn. Diện mạo của một thành phố văn minh,
hiện đại với cơ sở hạ tầng kỹ thuật đợc nâng cấp, môi trờng sống trong lành
đang từng bớc đợc xác lập. Quá trình kiến tạo lại môi trờng đô thị ở Đà
Nẵng đã không chỉ tạo đợc môi trờng sống, chất lợng sống tốt hơn mà còn
đem lại niềm tin yêu, lòng tự hào cho ngời dân Đà Nẵng đối với Đảng, Nhà nớc và chính quyền thành phố.
Tuy nhiên, đằng sau bất kỳ một chính sách nào, dù thành công đến
mấy cũng thờng ẩn náu những vấn đề xã hội nhất định. Điều này đòi hỏi
các cấp, các ngành phải có cái nhìn toàn diện, hợp lý để tăng c ờng hiệu quả
cho xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã
hội bền vững.
Để thực hiện chủ trơng quy hoạch lại đô thị, trong những năm qua ở
thành phố Đà Nẵng, hàng chục dự án đã triển khai giúp hàng chục nghìn hộ
dân đợc di dời đến các khu tái định c (TĐC) mới. Trên nhiều mặt, đời sống
của dân c trong các khu vực này đợc cải thiện rõ rệt. Cơ sở hạ tầng nh:
Điện, đờng, hệ thống cấp thoát nớc, vệ sinh môi trờng... đều đợc nâng cấp
đạt tiêu chuẩn đô thị bậc cao. Nhng một bộ phận dân c vẫn còn băn khoăn
về khả năng tìm việc làm, tạo thu nhập đảm bảo mức sống của dân c thời
"hậu tái định c", đặc biệt là đối với nhóm c dân nghèo. Vì vậy, ở một số nơi,
một số ngời cha thích nghi đợc với môi trờng sống mới hoặc cha tìm đợc
việc làm ổn định sinh tâm lý thiếu an tâm. Mức sống ở một bộ phận dân c
cha ổn định nhất là số ngời làm các nghề tự do đang cần tiếp tục hỗ trợ để
tìm hớng giải quyết. Đây là vấn đề của không chỉ công tác truyền thông,


giáo dục mà còn là một kế hoạch phát triển kinh tế, ổn định xã hội cả trớc
mắt lẫn lâu dài.


2
Thành phố Đà Nẵng còn tiếp tục phải di dời, giải toả và chỉnh trang.
Do vậy tìm hiểu hiện trạng và nguyên nhân của những biến đổi mức sống
của cộng đồng dân c sau TĐC là việc rất cần làm. Đây là yêu cầu khoa học
cấp thiết giúp lãnh đạo thành phố hoạch định và thực hiện những chính sách
phù hợp nhằm phát triển sản xuất, ổn định đời sống, tạo tâm lý an tâm cho
cộng đồng dân c đã, đang và sẽ phải di dời, giải toả ở Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, do yêu cầu của cả lý luận và thực tiễn, đã
có một số công trình nghiên cứu trên các phơng diện khác nhau về di dời,
giải tỏa và TĐC. Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu nh sau:
- Thứ nhất: "Tái định c trong các dự án phát triển: chính sách và
thực tiễn" (TS. Phạm Mộng Hoa - TS. Lâm Mai Lan, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000).
Với công trình này, các tác giả đã tập trung trình bày nội dung của
các Nghị định, Thông t quy định về mặt pháp lý đối với việc đền bù, giải
tỏa và trách nhiệm của Nhà nớc đối với ngời bị giải tỏa; đồng thời chỉ ra
những khiếm khuyết và hạn chế của chính sách hiện hành trên cơ sở so
sánh sự khác biệt giữa chính sách TĐC của Việt Nam với chính sách TĐC
của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, tác giả cũng đề xuất, kiến nghị, bổ sung
và điều chỉnh những chính sách hiện hành, làm cho những chính sách này
phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
- Thứ hai: "Chính sách di dân châu á" (Dự án VIE/95/ 2004. Nxb
Nông nghiệp - Hà Nội, 1998).Trong công trình này đã có nhiều bài viết đề
cập ở những góc độ khác nhau của việc di dời, giải toả,di dân TĐC. Cụ thể
trong bài viết "Chính sách tái định c do kết quả của sự phát triển cơ sở hạ

tầng ở Việt Nam" (từ trang 180-195), tác giả Trơng Thị Ngọc Lan bàn đến
thực trạng công tác TĐC hiện nay ở nớc ta và tập trung trình bày những nội
dung chính của các văn bản pháp lý liên quan đến đền bù và TĐC.
Tiếp theo, bài viết "Di dân nhập c với vấn đề phát triển một đô thị mới
nh thành phố Hồ Chí Minh", tác giả Lê Văn Thành bớc đầu đề cập đến những
khó khăn, thiệt thòi về việc làm mà ngời dân TĐC phải đơng đầu.
- Thứ ba: "Tình hình thực hiện chính sách đền bù, TĐC và khôi phục
cuộc sống cho những ngời bị ảnh hởng bởi các dự án đầu t phát triển tại các
đô thị và khu công nghiệp" (Trần Xuân Quang, Hà Nội, 8/1997).


3
Đây là công trình đã khá thành công trong việc đa ra những đánh giá
có tính khái quát về tình hình thực hiện các chính sách đền bù, TĐC cho
những ngời dân bị ảnh hởng bởi các dự án phát triển.
Thứ t: "Tái định c bắt buộc (Ngân hàng Phát triển châu á,1995).
Trong tài liệu này,TĐC bắt buộc đợc xác định là chính sách đền bù và hỗ
trợ ổn định lại cuộc sống.Mục tiêu đặt ra cho việc TĐC là phải đảm bảo sau
khi TĐC, những ngời bị ảnh hởng bởi dự án ít nhất đạt tới mức sống nh họ
lẽ ra có đợc nếu không có dự án.
- Thứ năm: Hiện trạng và triển vọng cải thiện nhà ở, mức sống, môi
trờng sống của ngời nghèo đô thị - trờng hơp Thành phố Hồ Chí Minh
(chủ nhiệm đề tài: GS.Tơng Lai-1994).Với phơng pháp điều tra Xã hội học,
các tác giả đã thành công trong việc mô tả, đánh giá mức sống của nhóm
ngời nghèo đô thị.
- Thứ sáu: "Giải pháp để phát triển sản xuất cho bản Vân Kiều ở khu
TĐC xã Xuân Lộc-huyện Phú Lộc (Trần Hữu Toàn và Mai Văn Xuân, đăng
trên tap chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Từ thực trạng ng ời dân
TĐC gặp khó khăn trong phát triển sản xuất, các tác giả đã khuyến nghị các
giải pháp để giải quyết vấn đề này.

- Thứ bảy: Một số vấn đề xã hội học hàng đầu của việc cải tạochỉnh trang đô thị (CTĐT): giảm tổn thơng cho nhóm dân c nghèo nhất
của Nguyễn Quang Vinh đăng trên tạp chí Xã hội học, số 1-2001. Đây là
một nghiên cứu Xã hội học về sự ảnh hởng của các dự án cải tạo - CTĐT đến
việc làm và mức sống của nhóm dân c nghèo ở TP. Hồ Chí Minh.Cách tiếp cận
của tác giả đã gợi mở ra những hớng nghiên cứu rất bổ ích về đề tài biến đổi
mức sống của nhóm dân c bị ảnh hởng bởi quá trình đô thị hoá.
- Với Đà Nẵng có bài viết "Giải quyết việc làm trong thời kỳ đẩy
nhanh tốc độ đô thị hóa ở Đà Nẵng" của Nguyễn Hoàng Long, đăng trên
Tạp chí Lao động và xã hội, số 218, 2003.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đánh giá tình hình giải
quyết việc làm nói chung ở thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy nhanh tốc
độ đô thị hóa, trong đó có đề cập đến một số "khó khăn nhất định - nhất là
ở bớc đầu trong vấn đề tìm việc làm và thích nghi với địa bàn mới", của một
số lao động trong diện di dời đến khu TĐC.
Trong những năm gần đây còn có các dự án PMU nghiên cứu các
công trình di dời, giải toả về giao thông (đờng quốc lộ 1, đờng 5, đờng Hồ


4
Chí Minh) hay công trình nghiên cứu về sự ảnh hởng đến các mặt kinh tế
- xã hội của việc di dời, giải toả, tái đinh c ở khu công nghiệp Dung Quất
Các nghiên cứu này chú trọng vào việc xem xét mức độ ảnh hởng của các
dự án đến các mặt kinh tế, xã hội, văn hoá, lối sống của ng ời dân có liên
quan đến dự án.
Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, khái niệm TĐC chỉ mới xuất
hiện trong một số năm gần đây, các nghiên cứu về vấn đề này ch a nhiều.
Các nghiên cứu về TĐC chủ yếu tiếp cận trên phơng diện cơ sở pháp lý, tức
là quan tâm xem xét các cơ chế chính sách hiện hành về giải tỏa đền bù,
TĐC. Còn việc nghiên cứu về thực trạng biến đổi mức sống của nhóm c dân
sau TĐC chỉ mới có một vài công trình đề cập tới song mới chỉ bớc đầu. Đến

nay vẫn cha có những công trình đề cập một cách toàn diện và sâu sắc về sự
biến đổi mức sống của nhóm c dân sau TĐC ở Việt Nam nói chung và ở thành
phố Đà Nẵng nói riêng. Do vậy, nghiên cứu, làm rõ "Biến đổi mức sống của
nhóm c dân sau tái định c ở Đà Nẵng" đang là điều rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ thực trạng và nguyên nhân sự
biến đổi mức sống của nhóm dân c sau TĐC ở Đà Nẵng để đề xuất những
giải pháp nhằm góp phần ổn định và nâng cao đời sống cho cộng đồng c
dân sau TĐC.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt mục đích trên luận văn có các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và những khái niệm cơ bản về sự biến đổi mức
sống của nhóm dân c sau TĐC.
- Khảo sát và đánh giá đúng thực trạng mức sống của nhóm dân c sau
TĐC.
- Tìm hiểu những nguyên nhân kinh tế- xã hội làm thay đổi mức sống
của cộng đồng dân c sau TĐC.
- Đa ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm ổn định và nâng cao chất
lợng sống của nhóm dân c sau TĐC.
4. Đối tợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tợng nghiên cứu: Sự biến đổi mức sống của nhóm dân c sau
TĐC.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Các hộ gia đình trong diện giải toả đã di
chuyển vào khu TĐC.
4.3. Phạm vi nghiên cứu


5
Nghiên cứu sự biến đổi mức sống của nhóm dân chuyển c vào khu
TĐC trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay.

5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
1) Di dời, TĐC trong quá trình xây dựng và chỉnh trang đô thị đã ảnh
hởng mạnh mẽ đến mức sống của cộng đồng dân chuyển c nhất là nhóm xã
hội nghèo.
2) Chỉ có nhóm cán bộ, công nhân viên sau chuyển c là tơng đối ổn
định còn các nhóm xã hội khác, nhất là nhóm không có nghề nghiệp ổn
định, đời sống đang gặp nhiều khó khăn.
3) Các yếu tố cá nhân khác nh trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp,
tuổi, giới tính và hệ thống các chính sách do Đảng và Nhà nớc ban hành đang tác
động làm thay đổi nhiều đến mức sống của nhóm dân c sau TĐC.
5.2. Khung lý thuyết

Môi trờng
tự nhiên,
kinh tế
xã hội

Chính sách
của Đảng và
Nhà nớc
Gia đình

- Quy mô gia đình,

Biến đổi
mức sống

- Kiểu loại gia đình
- Nghề nghiệp gia

đình

-

Cá nhân

-

- Tuổi
- Giới tính
- Học vấn
-Nghề nghiệp

Thu nhập
Chi tiêu
Tài
sản,
môi trờng
Tiếp cận
dịch vụ đô
thị

Hệ
quả

hội

a. Biến phụ thuộc
Sự biến đổi mức sống đợc xác định thông qua các chỉ báo:
- Biến đổi về thu nhập ( thu nhập bình quân hộ và đầu ngời/ tháng so

sánh với thời điểm trớc chuyển c).
- Biến đổi mức chi phí (ăn, ở, đi lại, học tập, chăm sóc sức khoẻ,
giải trí và các dịch vụ khác so với trớc chuyển c).
- Tài sản và môi trờng (quy mô, chất lợng, quyền sở hữu nhà ở, chất
lợng môi trờng tự nhiên xã hội).


6
- Sự thay đổi khả năng tiếp cận các dịch vụ đô thị cơ bản ( điện, đ ờng, trờng, trạm, chợ, thông tin liên lạc).
b. Hệ các biến độc lập
- Chính sách của Đảng, Nhà nớc
+ Chính sách về đền bù, TĐC.
+ Hổ trợ sản xuất kinh doanh (tín dụng, thuế).
+ Chính sách tạo việc làm.
+ Các chính sách khác.
- Các yếu tố gia đình
+ Quy mô gia đình (đông thành viên, ít thành viên).
+ Kiểu loại gia đình (gia đình đầy đủ, gia đình khiếm khuyết).
+ Nghề nghiệp của gia đình (thuần nông, phi nông, hỗn hợp).
- Các yếu tố cá nhân
+ Tuổi.
+ Giới tính.
+ Trình độ học vấn.
+ Nghề nghiệp
6. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
6.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn đợc thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về biến đổi xã hội đợc nhìn dới hai mức độ tiến hoá
và cách mạng.
- Dựa trên các quan điểm, chủ trơng, chính sách phát triển kinh tế - xã

hội nói chung và chủ trơng chính sách TĐC nói riêng của Đảng và Nhà nớc.
- Dựa trên các lý thuyết xã hội học nh: Thuyết biến đổi xã hội,
thuyết hệ thống và lý thuyết di dân
6.2. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phơng pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích tài liệu có sẵn: đây là những tài liệu thu thập đ ợc từ các
báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các thống kê, các tài liệu khác liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
- Điều tra xã hội học trong đó nghiên cứu định tính với phỏng vấn
sâu 20 trờng hợp áp dụng đối với đại diện hộ gia đình thuộc diện giải toả
đền bù hiện đang sinh sống trong khu TĐC và cán bộ lãnh đạo ph ờng có
dân TĐC; điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi với số lợng 210 phiếu tơng ứng
với 210 chủ hộ gia đình đã di chuyển vào khu TĐC; kết hợp với việc quan


7
sát trực tiếp một số hộ gia đình điều tra về mức sống của nhóm dân c sống
trong khu TĐC.
7. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Vận dụng các lý thuyết về biến đổi xã hội, lý thuyết hệ thống và lý
thuyết di dân để giải thích quá trình biến đổi mức sống của nhóm dân c sau
TĐC ở Đà Nẵng.
- Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh thêm cơ sở khoa học cho việc xác
định và hoạch định các chính sách mà Đà Nẵng cần thực hiện cho c dân
vùng TĐC để phát triển kinh tế xã hội bền vững.
8. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ
lãnh đạo quản lý ở Đà Nẵng và các địa phơng có điều kiện tơng tự trong việc
hoạch định và thực hiện chính sách đền bù giải toả và TĐC.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham

khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến biến đổi
đời sống xã hội trong quá trình đô thị hoá.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chơng, 8 tiết.
Chơng 1
CƠ Sở Lý LUậN CủA VấN Đề NGHIÊN CứU
1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Mức sống
1.1.1.1. Khái niệm mức sống
Mức sống là một khái niệm đợc dùng khá phổ biến trong các nghiên
cứu để đánh giá mức độ đạt đợc về các điều kiện sống của dân c. Tuy nhiên,
mức sống là một phạm trù kinh tế - xã hội rất rộng nên cũng có nhiều quan
niệm khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì mức sống là mức đạt đợc trong chi
dùng, hởng thụ các điều kiện vật chất, tinh thần [40 tr.1157]. Nh vậy với quan
niệm này thì mức sống đợc hiểu là mức độ đạt đợc về các điều kiện vật chất và
tinh thần của dân c.


8
Theo Mác thì Mức sống dân c không phải chỉ là sự thoả mãn nhu cầu
của đời sống vật chất mà còn là sự thoả mãn nhu cầu nhất định, những nhu
cầu đợc sản sinh bởi chính những điều kiện xã hội mà trong đó con ngời đang
sống và trởng thành [23]. Nghĩa là ngoài đòi hỏi về những điều kiện vật chất,
con ngời ta còn hớng tới những nhu cầu xã hội. Những nhu cầu xã hội đợc sản
sinh từ chính những điều kiện xã hội nên đơng nhiên nó luôn thay đổi theo sự
phát triển của những điều kiện xã hội. Điều đó cũng chứng tỏ rằng mức sống
không phải là phạm trù nhất thành bất biến mà luôn biến đổi theo thời gian và

không gian nhất định.
Trên những quan điểm chung đó, Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đa ra
khái niệm mức sống vừa khái quát vừa cụ thể nh sau:
Mức sống là phạm trù kinh tế - xã hội đặc trng mức thoả mãn
nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của con ngời. Đợc thể hiện
bằng hệ thống các chỉ tiêu số lợng và chất lợng của điều kiện sinh
hoạt và lao động của con ngời. Một mặt, mức sống đợc quyết định
bởi số lợng và chất lợng của cải vật chất và văn hoá dùng để thoả
mãn nhu cầu của đời sống; mặt khác, đợc quyết định bởi mức độ
phát triển bản thân nhu cầu của con ngời. Mức sống không chỉ phụ
thuộc vào nền sản xuất hiện tại mà còn phụ thuộc vào quy mô của
cải quốc dân và của cải cá nhân đã đợc tích luỹ. Mức sống và các
chỉ tiêu thể hiện nó là do tính chất của hình thái kinh tế - xã hội
quyết định [15, tr. 973].
Nh vậy, mức sống là trình độ thoả mãn nhu cầu toàn diện, thờng xuyên
tăng lên của dân c. Mức sống dân c còn cho ta biết mức độ (cái đợc xác nhận
là nhiều hay ít trên một thang độ nào đó) về các điều kiện sinh hoạt vật chất và
tinh thần của nhóm dân c đó [25].
Nếu so với khái niệm đời sống thì mức sống có ý nghĩa cụ thể hơn.
Phạm vi ngữ nghĩa của từ đời sống thờng đợc sử dụng một cách khá chung
chung, ý nghĩa bao hàm rộng. Mặc dù vậy, để đánh giá về đời sống thì các nhà
nghiên cứu lại không thể tách rời với việc đo lờng, đánh giá mức sống.
Mức sống cũng có quan hệ gần gũi với khái niệm chất lợng cuộc sống,
bởi chất lợng cuộc sống đợc hiểu là điều kiện sống làm cho con ngời thoả mãn
các nhu cầu về tinh thần và vật chất. Nh vậy, mức sống và chất lợng cuộc sống
đều có đặc trng liên quan đến mức độ hởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần


9
của con ngời, trong đó mức sống thờng thiên nhiều về mặt "lợng" của đời sống

còn chất lợng cuộc sống thiên nhiều về mặt "chất" của đời sống. Chất lợng
sống phải đo lờng bằng những chỉ báo cụ thể về mức sống vật chất (ăn, mặc,
ở, đi lại,) và tinh thần (hởng thụ văn hoá, nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tự do
chính trị,)
1.1.1.2. Biến đổi mức sống
Mức sống là một phạm trù có tính lịch sử, chịu sự thay đổi về thời gian
và khác nhau trong không gian. Trong một quốc gia hay ở từng vùng, mức
sống thờng biến đổi cùng với sự biến đổi của điều kiện sống, đặc biệt là trình
độ phát triển sản xuất trong mỗi thời kỳ. Thời bao cấp, chiến tranh, mức sống
trung bình chỉ là có đủ những nhu cầu tối thiểu, thiết yếu nhất để duy trì sự
sống nh ăn: 13kg lơng thực/tháng, mặc: 4m2 vải một ngời/năm. Song hiện nay,
nức sống trung bình phải đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, có phơng tiện đi lại và phơng tiện gia dụng bằng mức sống khá giả trớc kia. Nh vậy nghiên cứu về mức
sống phải nghiên cứu trong tính lịch sử và cụ thể của nó.
Không chỉ làm rõ khái niệm "mức sống", luận văn còn phải làm rõ khái
niệm "biến đổi mức sống" (BĐMS). Song để có cơ sở nhận thức rõ hơn về khái
niệm BĐMS phải bắt đầu từ khái niệm biến đổi. Biến đổi là gì? Biến đổi nh
thế nào? Theo Từ điển tiếng Việt Biến đổi là sự thay đổi so với cái trớc đó
[37, tr.89]. Sự thay đổi đó có thể tăng hoặc giảm, từ dạng này sang dạng khác,
từ hình thái này sang hình thái khác.
Vậy biến đổi mức sống là sự thay đổi mức độ thoả mãn các nhu cầu về
thể chất, tinh thần và xã hội của ngời dân. Vì biến đổi mức sống là một quá
trình kinh tế - xã hội nên để xác định nó, mỗi phép đo đều cần ít nhất hai thời
điểm khác nhau. Điểm mốc mà tác giả lựa chọn để so sánh, làm sáng tỏ sự
biến đổi mức sống của ngời dân là sau khi đối tợng đợc giải toả, di dời và sinh
sống ở khu TĐC so với mức sống thời gian trớc di dời. Khoảng thời gian sau
TĐC đợc lựa chọn để nghiên cứu ít nhất là từ hơn 6 tháng trở lên. Những hộ
gia đình mới chuyển vào khu TĐC với thời gian dới 6 tháng cha đủ thời gian
cần thiết để đánh giá về những biến đổi mức sống của họ. Đối với Thành phố
Đà Nẵng, năm 1997 là một mốc khá trọng đại vì đợc tách ra từ tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng để trở thành thành phố trực thuộc trung ơng. Đây cũng là thời

điểm mà thành phố triển khai mạnh mẽ các chơng trình, dự án quy hoạch, xây
dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị. Vì vậy, nhóm dân c thuộc diện TĐC


10
trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2004 trở thành đối tợng nghiên
cứu của luận văn.
1.1.1.3. Các chỉ báo đo lờng sự biến đổi mức sống của nhóm dân c
sau tái định c ở Đà Nẵng
Mức sống là một phạm trù kinh tế - xã hội rất rộng, vì vậy đánh giá sự biến
đổi mức sống phải dựa trên các chỉ báo về thu nhập, chi tiêu, nhà ở, đồ dùng lâu
bền, mức độ hởng thụ (khả năng tiếp cận) các dịch vụ đô thị cơ bản...
Trớc hết, là chỉ báo về thu nhập. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên để
đo lờng mức sống. ở đây thu nhập thực tế thờng đợc tính theo bình quân đầu
ngời/tháng. ở Đà Nẵng, bình quân đầu ngời/tháng đợc tính theo 5 mức rất
nghèo, tạm đủ, trung bình, khá giả, giàu nh sau:
- Nhóm hộ nghèo
:Từ 150.000đ trở xuống/đầu ngời/tháng
- Nhóm hộ tạm đủ
:Từ trên 150.000đ - 300.000đ/đầu ngời/tháng
- Nhóm hộ trung bình
:Từ trên 300.000đ - 600.000đ/đầu ngời/tháng
- Nhóm hộ khá giả
:Từ trên 600.000đ-1.200.000đ/đầu ngời/tháng
- Nhóm hộ giàu
:Từ trên 1.2000.000đ trở lên/đầu ngời/tháng
Sự phân chia này đợc dựa trên định mức chuẩn nghèo ở khu vực đô thị
của Tổng cục thống kê.
Thu nhập là chỉ tiêu rất quan trọng để đo lờng mức sống, song nếu căn
cứ thuần tuý vào mức thu nhập bình quân đầu ngời/tháng thì sự nhận biết về

mức sống dân c sẽ cha thật đầy đủ và chính xác. Một mặt do mức thu nhập
của ngời dân sau TĐC có sự dao động rất lớn, do tình trạng thu nhập không ổn
định trong môi trờng hoạt động kinh tế của ngời dân TĐC gây ra.
Mặt khác, các hộ dân TĐC phải trang trải những chi phí lớn cho việc
làm nhà, tạo lập những điều kiện vật chất cần thiết ở nơi c trú mới nên phần
đông đang là những con nợ. Phần chi tiêu cho đời sống gia đình họ trở nên eo
hẹp khi phải dành dụm phần thu nhập để trả nợ.
Vì vậy, đánh giá mức sống cần phải xem xét về một số chỉ báo khác nh,
chi tiêu cho các nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, ở, đi lại) và khả năng tiếp cận các
dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, vui chới giải trí,).
ở đây, phần chi tiêu chủ yếu tập trung cho các nhu cầu thiết yếu nh ăn,
mặc, ở, đi lại Trong đó, số lợng các khoản chi và cơ cấu của chúng cũng là
những yếu tố phản ánh mức sống và chất lợng sống của từng hộ dân cũng nh
của cả cộng đồng dân c này.


11
Ngoài ra, nhu cầu và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội nh giáo dục,
y tế, vui chới, giải trí cũng là những chỉ báo cần phải đo lờng. Mức sống của
cộng đồng dân chuyển c tăng lên hay giảm đi một phần phụ thuộc mức độ
thuận tiện và khả năng tiếp cận những dịch vụ xã hội này. Tỷ lệ ngời đánh giá
mức tiếp cận của dịch vụ khá lên, nh cũ hay giảm đi so với trớc chuyển c là
những chỉ báo đo lờng mức sống của nhóm xã hội này.
1.1.2. Nhóm xã hội
Nhóm xã hội là những bộ phận cơ bản, hữu cơ cấu thành nên xã hội.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì Nhóm xã hội là khái niệm xã hội học
chỉ một tập hợp ngời liên kết với nhau bởi các dấu hiệu hình thức hoặc bản
chất đợc điều chỉnh bởi những thiết chế có những giá trị chung và ít nhiều biệt
lập với các tập hợp ngời khác [15, tr.264].
Nh vậy không phải bất cứ một tập hợp ngời nào cũng là một nhóm.

Theo quan niệm xã hội học thì nhóm phải là một tập hợp ngời mà đặc trng
quan trọng nhất là họ cơ bản có chung hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội,
nhờ đó họ có khuôn mẫu hành vi cơ bản giống nhau. Khoa học xã hội học đã
dựa trên những tiêu chí này mà xem xét sự khác biệt giữa nhóm công nhân với
nông dân, nông dân với trí thức hoặc nhóm phân chia theo các tiêu chí khác
nhau nh nghề nghiêp, tuổi tác, vùng sinh sống, giới, dân tộc,
Nhóm là một khái niệm rất rộng và phức tạp. Theo số lợng các thành
viên và điều kiện tác động lẫn nhau trong nhóm, các nhóm xã hội đợc chia
làm nhóm nhỏ và nhóm lớn.
Nhóm lớn là nhóm mà các thành viên liên kết nhau bởi điều kiện khách
quan chung, xác định sự tồn tại của họ một cách vững chắc nh giai cấp, tầng
lớp, dân tộc, đảng phái chính trị, nghề nghiệp ...
Nhóm nhỏ là nhóm ngời tồn tại trong khoảng không gian và thời gian
xác định, đợc liên kết bởi các quan hệ thực tế của các thành viên của nhóm,
thực hiện trên cơ sở giao tiếp nh các đội sản xuất, lớp học, gia đình, nhóm bạn
bè.
Dựa vào tính chất, mức độ tổ chức có nhóm chính thức và nhóm không
chính thức... Nhóm chính thức là tập hợp ngời có mối liên hệ đợc quy chuẩn
hoá thông qua những thiết chế xã hội xác định. Còn nhóm không chính thức là
những nhóm hình thành tự phát trong đó các quan hệ của các thành viên nhóm
không đợc thiết chế hoá. Hiện nay, trong nhiều ngành khoa học xã hội, thuật
ngữ nhóm đợc dùng với hai nghĩa: nhóm quy ớc và nhóm thực.


12
Nhóm quy ớc là những nhóm do ngời ta lập ra theo những dấu hiệu nhất
định để nghiên cứu. Chẳng hạn, trong phân tích kết quả những nghiên cứu xã
hội học, chúng ta có thể phân chia các đối tợng khảo sát thành những nhóm
một cách có chủ định theo: tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp...
Nhóm thực là nhóm đợc dùng cho tập hợp ngời tồn tại trong thực tế, nơi

mà mọi ngời tập hợp cùng nhau, liên kết với nhau bằng một dấu hiệu chung
nào đó [6, tr. 161].
Xã hội tác động đến cá nhân thông qua nhóm, vì vậy việc nghiên cứu
ảnh hởng của nhóm với t cách là yếu tố trung gian giữa cá nhân và xã hội là
yêu cầu cần thiết và tất yếu trong việc nhận thức về con ngời và xã hội.
Nhóm dân c bị ảnh hởng bởi các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, quy
hoạch và chỉnh trang đô thị ở Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ năm 1997
đến nay là nhóm xã hội mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Họ có đặc trng
chung là cùng bị ảnh hởng bởi các dự án phát triển của thành phố nên phải
giải toả di dời và tạo lập cuộc sống mới trong các khu TĐC.
Để có cái nhìn sâu hơn về cơ cấu xã hội của nhóm c dân thuộc diện giải
toả, TĐC, trong quá trình phân tích, tác giả cũng sẽ phân chia các đối tợng
theo các nhóm quy ớc nh: giàu, nghèo, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp,
giới tính,...
1.1.3. Giải toả, đền bù và tái định c
1.1.3.1. Giải toả: Cũng nh khái niệm đền bù, TĐC, khái niệm giải toả
đợc sử dụng phổ biến trong các Nghị định, Quyết định, Thông t của Chính
phủ, của các bộ ngành và địa phơng nhằm quy định trách nhiệm của Nhà nớc, của các chủ dự án cũng nh quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá
nhân trong diện bị ảnh hởng bởi các dự án an ninh, quốc phòng, kinh tế - xã
hội...
Theo nghĩa gốc, giải toả là sự từ bỏ, làm cho nó thoát khỏi [40, tr.726].
Khái niệm giải toả đợc đề cập đến trong nghiên cứu này chính là nói
đến việc phá, dỡ những kết cấu cũ đang trở thành những chớng ngại để giải
phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho việc triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển kinh tế - xã hội nào đó.
1.1.3.2. Đền bù
Đền bù: Trả lại tơng xứng với giá trị hoặc công lao [40, tr.623]; hay Đền
bù: Trả lại đầy đủ, tơng xứng với sự mất mát hoặc sự vất vả [37, tr.300].



13
Nh vậy, theo nghĩa chung nhất, đền bù là việc thay thế các tài sản bị
mất bằng hiện vật hoặc bằng tiền.
Với hàm nghĩa nói trên, khái niệm đền bù (hay bồi thờng) thờng đợc sử
dụng trong các văn bản luật để quy định trách nhiệm bồi thờng khi Nhà nớc
thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng hay phát triển
kinh tế - xã hội nói chung.
ở Đà Nẵng, trong những năm qua, chính quyền thành phố đã thờng
xuyên tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng nhằm thực hiện các dự án quy
hoạch phát triển đô thị. Phơng thức đền bù đợc thành phố Đà Nẵng vận dụng
trong việc giải phóng mặt bằng là hoàn trả bằng tiền khi ngời dân bị mất đất
và bị h hại các tài sản khác. Ngời dân trong diện giải toả đợc đền bù bằng tiền
và đợc quyền u tiên mua lại đất theo khung giá mà thành phố quy định cho
các khu quy hoạch (tức là các khu dành cho TĐC).
1.1.3.3. Tái định c
- Theo nghĩa rộng, Tái định c là một quá trình bao gồm đền bù các thiệt
hại về đất đai và tài sản di chuyển, TĐC, ổn định và khôi phục cuộc sống cho
những ngời bị thu hồi đất để xây dựng các dự án. Tái định c còn bao gồm các
hoạt động nhằm hỗ trợ cho những ngời bị ảnh hởng do việc thực hiện các dự án
gây ra, khôi phục và cải thiện mức sống, tạo điều kiện phát triển các cơ sở sản
xuất kinh tế, văn hoá, xã hội của hộ và cộng đồng [14, tr.193-194].
Nh vậy, TĐC là một quá trình bao hàm từ việc đền bù (bồi thờng) cho
các thiệt hại về tài sản và ổn định cuộc sống bị xáo trộn do dự án phát triển
gây ra. Đây là quá trình giúp ngời dân di chuyển và hỗ trợ họ tạo lập lại nơi ở
mới, khôi phục cuộc sống và đảm bảo tăng nguồn thu nhập của họ.
- Theo nghĩa hẹp, TĐC đợc dùng chỉ sự di chuyển của các hộ gia đình
tới định c ở nơi ở mới.
Peter R. Burbridge cũng cho rằng Tái định c là chỉ việc lập c của các
cá nhân, các nhóm hộ gia đình hoặc toàn bộ một làng, một xã [3, tr.13].
Đây là cách hiểu thông thờng trong đời sống xã hội, song khái niệm TĐC

theo quan niệm này chỉ có hàm nghĩa chỉ nơi c trú mới mà ngời dân di dời đến,
tức là chỉ nói tới hình thức lập c mà cha chú trọng đến quá trình lập c đó.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả vừa sử dụng khái niệm TĐC theo
nghĩa hẹp để xác định không gian nghiên cứu, vừa đồng thời và chủ yếu sử
dụng khái niệm TĐC theo nghĩa rộng tức là quan tâm đến đối tợng TĐC là
những cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hởng bởi các dự án quy hoạch, xây dựng cơ


14
sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị với tất cả những yếu tố có liên quan nh: đền bù,
hỗ trợ di dời và điều kiện sinh sống tại các khu TĐC của thành phố.
1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu
luận văn

1.2.1 Lý thuyết về biến đổi xã hội
Mọi xã hội đều tồn tại trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng.
Biến đổi xã hội (BĐXH) là một quá trình, một thuộc tính tất yếu của xã hội.
ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, mỗi khoa học có quan điểm khác
nhau về BĐXH. Theo quan điểm của xã hội học thì BĐXH là khái niệm chỉ sự
khác biệt về phơng diện xã hội của thời điểm hiện tại so với thời điểm trớc đó
của một hệ thống xã hội, trọng tâm là sự biến đổi của cơ cấu xã hội.
Sự khác biệt về phơng diện xã hội đợc nói tới ở đây là sự thay đổi của
các dạng hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, các hệ thống
phân tầng xã hội. Không phải mọi sự thay đổi nào đó diễn ra trong xã hội đều
đợc coi là BĐXH, mà chỉ có những thay đổi có ảnh hởng sâu sắc tới đa số cá
nhân trong xã hội, sự thay đổi các cơ cấu, tổ chức, các tầng lớp xã hội... mới
đợc coi là sự BĐXH.
Sự BĐXH rất phức tạp và có thể diễn ra dới nhiều hình thức và mức độ
khác nhau: có biến đổi phát triển tức là diễn ra theo chiều hớng tích cực, tiến
bộ, phù hợp với mong muốn của xã hội. Có biến đổi suy thoái, diễn ra theo

chiều hớng xấu, xã hội lâm vào bế tắc với những xung đột, đổ vỡ, thay đổi xã
hội [39, tr.255-256].
Theo một số nhà nghiên cứu thì sự BĐXH là tổ hợp của rất nhiều
nguyên nhân chứ không phụ thuộc duy nhất vào một yếu tố đơn lẻ. Sự tơng tác
phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài đã tạo nên
sự biến đổi. Các nhà lý thuyết hiện đại chú trọng các yếu tố: môi trờng vật
chất (biến động của thiên nhiên), công nghệ, sức ép dân số, giao lu văn hoá...
để lý giải những BĐXH.
Quan niệm biến đổi tổng hợp còn khẳng định sự biến đổi có thể đi lên,
có thể là đi xuống, thậm chí bị huỷ diệt. Sự biến đổi cũng thờng mang tính chu
kỳ. Trên thực tế, mỗi lý thuyết đều có quan điểm luận giải khác nhau về sự
biến đổi xã hội mà trong đó mỗi lý thuyết đều có hạt nhân hợp lý về nhận thức
cũng nh dự báo quá trình biến đổi xã hội. Để nhận thức một cách đầy đủ quá
trình biến đổi xã hội nói chung và biến đổi mức sống của ngời dân sau TĐC


15
nói riêng không thể không chú ý tới các yếu tố hợp lý này. Luận văn sẽ cố
gắng tích hợp các yếu tố hợp lý nói trên để có cái nhìn đa diện, đa chiều về
những yếu tố tác động đến mức sống và dự báo xu hớng biến đổi mức sống
của ngời dân trong quá trình đô thị hoá.
Theo lý thuyết về sự BĐXH có hai quá trình có thể xảy ra: sự biến đổi
từ từ- tiến hoá và sự biến đổi nhảy vọt- cách mạng. Nghiên cứu những biến đổi
về mức sống của nhóm dân chuyển c ở một thành phố nh Đà Nẵng có thể xem
xét sự biến đổi dới cả hai quá trình này song sự biến đổi này có thể xem xét
nhiều hơn dới góc nhìn tiến hoá.
Các nhà xã hội học đại diện tiêu biểu cho quan điểm tiến hoá là A.
Comte (1798-1857) và H.Spencer (1820-1883). Các ông cho rằng, BĐXH là
sự tăng trởng và phát triển của xã hội (cả vật chất lẫn trí tuệ) cùng năng suất
lao động xã hội. Đó là quá trình tiến hoá tất yếu của mọi xã hội cùng với quá

trình tích luỹ tri thức và khoa học công nghệ của con ngời [39, tr.256].
Theo A. Comte, mọi xã hội đều tuần tự biến đổi qua ba giai đoạn: thần
học, siêu hình và thực chứng. A.Comte cho rằng trí tuệ là động lực, sức mạnh
duy trì và phát triển xã hội; đến lúc nào đó khoa học sẽ thống trị xã hội. Nh
vậy có thể dự báo đợc sự BĐXH dựa trên sự phát triển của tri thức nhân loại.
H.Spencer thì cho rằng, xã hội sẽ phát triển từ một xã hội có cấu trúc và
trình độ giản đơn, thấp kém tiến dần lên các mức phát triển phức tạp, cao hơn.
Trong quá trình này, một xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích ứng)
hay tiêu cực (không thích ứng) và sự lựa chọn này sẽ gắn kết với số phận của
nó [22, tr.4], nghĩa là các cá thể, các phân hệ, các nhóm xã hội yếu kém không
thích nghi đợc với tiến trình phát triển xã hội sẽ bị, loại bỏ dần.
Nh vậy, theo quan điểm này thì BĐXH là sự tiến hoá một chiều [6, tr.252],
tất cả các xã hội đều tiến hoá từ hình thức đơn giản đến phức tạp, hình thức sau bao
giờ cũng tiến xa hơn những hình thức trớc của nó.
Nhìn chung, hạt nhân hợp lý của lý thuyết này là khẳng định đặc trng
cơ bản của BĐXH, đó là tiến bộ xã hội. Đô thị hoá nhằm kiến tạo lại môi trờng sống dân c là hoạt động mang tính tất yếu của sự phát triển xã hội. Xem
xét sự biến đổi mức sống của nhóm dân c sau TĐC ở Đà Nẵng phải đợc đặt
trong quá trình vận động, phát triển chung đó mới nhận thức đợc bản chất vấn
đề.


16
ở đây, biến đổi mức sống, một mặt phải xem xét đầy đủ các yếu tố tạo
thành về cả vật chất lẫn tinh thần và mặt khác là các chiều hớng biến đổi thuận
và nghịch của quá trình này. Trên cơ sở đó mà đánh giá tổng hợp sự biến đổi.
1.2.2. Lý thuyết xung đột
Luận điểm gốc của thuyết xung đột cho rằng, do có sự khan hiếm các
nguồn lực (đất đai, nguyên vật liệu, tiền tài, địa vị ...) và do sự phân công lao
động và sự bất bình đẳng trong phân bổ nguồn lực, quyền lực nên quan hệ
giữa các cá nhân, các nhóm xã hội luôn nằm trong tình trạng mâu thuẫn, cạnh

tranh với nhau vì lợi ích [17, tr. 232]. Theo quan niệm của Mác và Ăngghen
thì toàn bộ sự phát triển của xã hội loài ngời từ ngày đầu của thời đại văn
minh cho đến tận ngày nay diễn ra trong một mối mâu thuẫn thờng xuyên
giữa giai cấp bóc lột, áp bức với giai cấp bị bóc lột, bị áp bức [16, tr.232].
Nghĩa là, chính mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp là nguồn gốc và động
lực của sự biến đổi, phát triển lịch sử xã hội loài ngời.
Các lý thuyết xung đột đã giải thích BĐXH nh là hệ quả của cuộc đấu
tranh giành u thế giữa các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau trong những
xã hội có phân chia giai cấp. Đặc biệt lý thuyết macxit về BĐXH mang tính
tích cực hơn khi nhấn mạnh khả năng của con ngời có thể ảnh hởng tới số
phận riêng của họ thông qua các hoạt động chính trị - xã hội. Nhất là khi cách
mạng khoa học và công nghệ thông tin phát triển ở trình độ cao đã làm cho vai
trò, động lực của con ngời càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Quan điểm xung đột rõ ràng cho ta một cách nhìn sâu sắc, khi xem xét
và giải quyết các mâu thuẫn, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nhóm xã hội với
nhau, giữa các tổ chức và cá nhân trong vấn đề phân chia lợi ích. Với cộng
đồng dân c phải di dời, giải toả, lý thuyết xung đột giúp chúng ta đi sâu, xem
xét những xung đột trong bản thân ngời dân TĐC trớc những lựa chọn quyết
định có liên quan đến đời sống gia đình, đồng thời còn nhằm lý giải sự chênh
lệch về lợi ích giữa ngời dân bị thu hồi đất phải di dời với lợi ích của các chủ
dự án.
Chuyển đổi nơi c trú tất yếu dẫn đến chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp,
thu nhập và nh vậy có sự phân định mức sống giữa các nhóm xã hội khác
nhau. Có thể khẳng định, tính năng động của hộ gia đình phần nào ảnh hởng
đến mức sống. Những hộ năng động, có kiến thức, có năng lực, thích ứng
nhanh với môi trờng mới, lựa chọn đợc phơng thức làm ăn mới thì sớm ổn


17
định cuộc sống. Điều này, một phần nào, làm phân hoá giàu nghèo tăng và

cũng làm tăng sự bất bình đẳng giữa các nhóm hộ có cơ cấu nghề nghiệp khác
nhau. Đây là những yếu tố giúp cho việc nhìn nhận một cách sâu sắc hơn
những biến đổi diễn ra trong cộng đồng dân chuyển c đã đợc nghiên cứu.
1.2.3. Tiếp cận theo lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống đợc áp dụng trong nghiên cứu xã hội đã coi xã hội
là một hệ thống với tập hợp những yếu tố liên hệ với nhau, tạo thành sự
thống nhất ổn định và tính chỉnh thể. Hệ thống này có những thuộc tính và
những quy luật tích hợp [5, tr.20]. Nguyên lý tính chỉnh thể là nguyên lý
xuất phát đồng thời là nguyên lý trung tâm của lý thuyết hệ thống. Nó cho
thấy đặc trng cơ bản nhất của hệ thống là tính thống nhất chỉnh thể. Tính
thống nhất của hệ thống còn là sự thống nhất trong đa dạng hay gọi đó là
nguyên lý tính phức thể. Hệ thống là một thể phức tạp, đa cấu trúc, đa chức
năng, phức tạp về các loại quan hệ. Trong cấu trúc có hệ thống đóng khác với
hệ thống mở; hệ thống thuần nhất khác với hệ thống không thuần nhất; Hệ
thống điều khiển với hệ thống bị điều khiển. Còn trong chức năng có những
phạm trù thể hiện hành vi, hành động, hoạt động nhằm duy trì hệ thống; trong
quan hệ có quan hệ vĩ mô khác quan hệ vi mô, quan hệ bên trong (nội tại)
khác với quan hệ bên ngoài...
Lý thuyết hệ thống trong xã hội học gắn liền với tên tuổi Talcott
Parsons - nhà xã hội học ngời Mỹ.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3
chiều: cấu trúc - chức năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc
của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi vừa trao đổi
với môi trờng xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều khiển
[17, tr.204].
Parsons đã đa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là
AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với
môi trờng; (G) Hớng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên
kết, phối hợp các hoạt động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định , trật
tự.

Tơng ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, ngời ta có tiểu hệ thống
kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các


18
giá trị, chuẩn mực xã hội đợc quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà
trờng, tổ chức văn hoá, tôn giáo [17, tr.204].
Tơng quan và tơng tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống
xã hội.
Với những đặc trng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng thuyết
hệ thống vào nghiên cứu sự biến đổi mức sống của nhóm dân c sau TĐC.
Trớc hết coi mức sống nh là tổng hợp của nhiều yếu tố thống nhất. Tính
chỉnh thể của mức sống thể hiện qua các yếu tố cấu thành nh mức sống vật
chất và mức sống tinh thần. Trong đó mức sống vật chất thể hiện ở mức ăn, ở,
mặc, đi lại, học tập, chăm sóc sức khoẻ, và mức sống tinh thần thể hiện ở
mức hởng thụ các thành quả về văn hoá, nghệ thuật, nghỉ ngơi, vui chơi, giải
trí và các quyền tự do chính trị mà ngời ta đợc hởng.
Đến lợt nó, mức sống lại chịu tác động của tổ hợp các yếu tố kinh tế xã
hội nh nghề nghiệp, gia đình, địa vị xã hội, giới, học vấn và môi trờng xã hội.
Nghiên cứu sự biến đổi về mức sống cần phải đặt trong tổng thể hệ thống
những yếu tố này.
Ngoài ra còn phải xem xét mức sống nh một phạm trù có tính hệ thống
luôn luôn biến đổi và ngày càng đợc nâng cao. Khi xã hội phát triển, mức
sống cũng chuyển động theo đúng khả năng của mỗi cá nhân và gia đình. Sự
hớng đích của mọi sự phát triển là tạo ra sự cân bằng, hài hoà trong hệ thống
mức sống của từng nhóm xã hội và ảnh hởng của nó đến các phơng diện khác
của xã hội.
Tóm lại, sự biến đổi mức sống của nhóm dân c sau TĐC sẽ đợc lý giải
phần nào theo các nguyên lý của hệ thống, và thông qua đó để phân tích
những đặc điểm của sự biến đổi và những nhân tố tác động đến quá trình đó.

1.2.4. Tiếp cận theo lý thuyết di dân
Đã có nhiều quan niệm khác nhau về di dân, tuy nhiên có thể hiểu di
dân theo hai cấp độ sau đây:
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự di chuyển của ngời dân trong không gian
và thời gian nhất định. Theo quan niệm này thì di dân là khái niệm chỉ mọi sự
vận động, dịch chuyển của dân c.
Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự di chuyển của dân c từ một đơn vị lãnh thổ
này sang đơn vị lãnh thổ khác, nhằm xác lập nơi c trú mới trong một khoảng
thời gian nhất định (Liên hợp quốc).


19
Nh vậy, theo quan niệm này thì di dân đợc hiểu là sự di chuyển dân c
gắn với việc thiết lập nơi c trú mới. Đây cũng là quan niệm mà tác giả sử dụng
để nghiên cứu quá trình ngời dân di chuyển để tái lập lại nơi c trú mới trong
quá trình thực hiện chủ trơng di dời, giải toả nhằm chỉnh trang đô thị ở Đà
Nẵng.
Có nhiều cách phân loại các hình thức di dân khác nhau. Theo độ dài
thời gian c trú, có các hình thức di dân lâu dài, tạm thời và chuyển tiếp.
Theo khoảng cách ngời ta phân biệt di dân xa hay gần, giữa nơi đi và
nơi đến. Trên bình diện chung có thể chia thành di dân quốc tế và di dân nội
địa. ở hình thức di dân nội địa, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu có thể
chia ra di dân nội vùng và di dân ngoại vùng.
Theo tính pháp lý, ngời ta phân biệt di dân hợp pháp hay không hợp
pháp; di dân tự do hay có tổ chức; di dân tình nguyện hay bắt buộc. Tuỳ vào
mức độ can thiệp của chính quyền mà ngời ta phân chia di dân theo loại này
hay loại khác.
Di dời giải toả và TĐC đang là chủ trơng lớn của thành phố Đà Nẵng
nhằm thực hiện quy hoạch, chỉnh trang đô thị (CTĐT). Đây cũng là xu hớng
tất yếu của quá trình đô thị hoá theo chiều sâu nhằm hớng tới một xã hội văn

minh hiện đại.
Quá trình di dời giải toả, tái lập nơi c trú mới ở các khu TĐC của một
bộ phận dân c ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến nay là hình thức di dân lâu dài, thuộc
diện di dân nội vùng có tổ chức, có kế hoạch. Ngời dân di chuyển nơi ở trong
phạm vi thành phố, theo kế hoạch giải toả di dời mà thành phố đã định sẵn.
Di dân vốn mang bản chất kinh tế - xã hội sâu sắc, vì vậy để quá trình
di dân và TĐC đạt hiệu quả mong muốn thì vấn đề đặt ra là phải chú trọng đến
các mục tiêu kinh tế và xã hội. Do đó, động cơ di dân đến các khu tái định đợc
luận văn đặc biệt quan tâm xem xét.
Về các nguyên nhân di dân chủ yếu, trên cơ sở quan sát các hiện tợng di
dân trên thế giới, nhiều lý thuyết di dân đã đợc khái quát, trong đó phải kể đến lý
thuyết lực hút - lực đẩy do Ravenstein (1889) là ngời đầu tiên đa ra.
Theo GS.TS. Tống Văn Đờng thì khi phân tích các dòng di dân ở nớc Anh,
Raventein cho rằng các yếu tố lực hút quan trọng hơn các yếu tố lực đẩy.
Ông nói rằng: Các luật lệ tồi hoặc ngột ngạt, thuế khoá nặng nề, khí hậu không
thuận hoà, môi trờng xã hội xung quanh không cởi mở, thậm chí có sự cỡng bức


20
(trong buôn bán, vận chuyển nô lệ), tất cả những điều đó đã và đang tạo ra các
hình thức di dân, tuy nhiên không có loại hình thức di dân nào có thể so sánh với
khát vọng tiềm ẩn trong mỗi ngời đàn ông vơn lên làm tốt hơn cuộc sống của
chính họ về phơng diện vật chất [10, tr.86]. Nghĩa là Raventein cho rằng khát
vọng vơn lên phía trớc, hớng tới điều kiện sống tốt hơn, thuận lợi, đó mới chính
là thực chất động cơ di dân của phần lớn dân di c.
Ngoài ra còn có các lý thuyết di dân mới lý giải các nguyên nhân di dân.
Chẳng hạn một vài lý thuyết điển hình nh mô hình phân tích chi phí - lợi ích
trong quyết định di dân. Ngời di c sẽ cân nhắc các yếu tố lực đẩy và các yếu tố
lực hút và họ sẽ di c nếu nh nhận thấy lợi ích có đợc nhiều hơn chi phí. Chẳng
hạn nh anh thiếu việc làm hay thất nghiệp, mức sống thấp trong khi đó ai di dân

đến nơi ở mới có việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn... thì ngời ta dễ dàng thực
hiện quyết định di dân. Có thể nói, quyết định di dân còn phụ thuộc vào một số
biến số khác nữa, tuy nhiên trong đó các biến số kinh tế là chủ đạo lý giải
nguyên nhân di dân, sau đó là các cơ hội, phát triển cá nhân và ý thức cộng đồng.
Nh vậy các lý thuyết di dân đều chỉ ra yếu tố lợi ích, đặc biệt lợi ích
kinh tế là động cơ chính yếu tạo ra lực hút các dòng di c đến các khu định c
mới. Đây chính là căn cứ để đi vào phân tích sự biến đổi mức sống của ngời
dân sau TĐC, đồng thời cũng là cơ sở khoa học để tác giả đề xuất các giải
pháp nhằm ổn định và nâng cao mức sống cho ngời dân sau TĐC.
Đời sống của ngời dân ở các khu TĐC sớm ổn định và đợc nâng cao là
yếu tố quan trọng, quyết định sự ổn định chính trị - xã hội và là tiền đề để thúc
đẩy nhanh tiến trình phát triển đô thị hoá theo chiều sâu của Đà Nẵng nói
riêng và cả nớc nói chung trong những năm tới.
1.3. Quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nớc về đô thị hoá
và tái định c

1.3.1. Quan điểm về đô thị hoá
Đô thị hoá là quá trình mở rộng đô thị, biến nông thôn thành thành thị
tạo môi trờng sống theo hớng văn minh, hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng
tốt hơn nhu cầu phát triển của cá nhân và xã hội. Do vậy, đô thị hoá vừa là xu
hớng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội, vừa là thớc đo trình độ phát triển
của mỗi quốc gia, mỗi địa phơng.
Lịch sử hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng các đô thị thờng đóng vai trò là các trung tâm kinh tế, chính trị, thơng mại, văn hoá và xã


21
hội, là động lực của sự tiến bộ xã hội. Các đô thị luôn giữ vai trò là đầu tàu
dẫn dắt các cộng đồng nông thôn đi theo mình trên con đờng tiến bộ và văn
minh. Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2007, trên trái đất chúng ta sẽ
có tỷ lệ dân số sống ở các đô thị vợt quá con số 50%, tức là phần lớn nhân loại

đang và sẽ sống trong môi trờng đô thị.
Nhận thức sâu sắc quy luật vận động phát triển của lịch sử, đồng thời
thấy đợc vai trò đầu tàu của đô thị trong việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng
và Nhà nớc ta luôn quan tâm coi trọng đến chiến lợc đô thị hoá và lấy quan
điểm phát triển bền vững với mục tiêu vì con ngời, lấy con ngời làm trung
tâm, xác định con ngời vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
làm trọng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: Sớm quy
hoạch mạng lới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội. Phát triển đô thị đi đôi với việc xây dựng đồng bộ và quản
lý các công trình công cộng (điện, cấp thoát nớc, cây xanh...) [7, tr.214]. Nghĩa
là không thể để quá trình đô thị hoá diễn ra một cách tự phát, xen lẫn giữa cái
đợc, cái mất mà phải dựa trên cơ sở đã đợc kế hoạch hoá trong chiến lợc phát
triển, lâu dài của đất nớc.
Theo Nghị quyết Trung ơng 7 (khoá VIII), phơng hớng phát triển đô thị
nớc ta là: "cải tạo, mở rộng, nâng cấp đô thị hiện có. Xây dựng Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ thành những trung tâm
lớn song tránh tập trung quá đông dân c. Nâng cấp một số đô thị loại vừa, trớc
hết là các đô thị nằm trên trục đờng giao thông chính, ở các cửa khẩu, các địa
bàn kinh tế trọng điểm. Đô thị hoá phải gắn liền với mục tiêu là tăng trởng
kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân [8, tr.90].
Trong quy hoạch phát triển mạng lới đô thị ở Việt Nam, Đà Nẵng đợc
xác định là thành phố trung tâm về kinh tế, chính trị - văn hoá - xã hội của các
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Kể từ khi trở thành đơn vị hành chính trực
thuộc Trung ơng từ 1997, cấp uỷ và chính quyền thành phố đã chủ trơng đẩy
mạnh công tác quy hoạch, tăng cờng đầu t phát triển kết cấu hạ tầng một cách
đồng bộ, xây dựng thành phố theo hớng văn minh hiện đại.
Ngay từ năm 1997, các cơ quan chức năng đã đa ra quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010 với nội dung: xây dựng
thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị hiện đại, văn minh, phát triển trong



22
thế ổn định và bền vững, có vị trí trung tâm của miền Trung và Tây Nguyên về
công nghiệp, thơng mại, dịch vụ, du lịch, tài chính, bu chính viễn thông, giáo
dục - đào tạo và khoa học - công nghệ trong mối quan hệ với cả nớc, khu vực
Asean, mà trớc tiên là các lãnh thổ phía tây: Lào, Campuchia, Thái Lan,
Mianma [35, tr.35].
Ngày 16/10/2003, Bộ Chính trị ban hành nghị quyết 33/NQ-TW về xây
dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH-HĐH đất nớc và đã
xác định: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn
của cả nớc, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung với vai trò là
trung tâm công nghiệp, thơng mại, du lịch và dịch vụ, là thành phố Cảng biển,
đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nớc và quốc tế;
trung tâm bu chính viễn thông và tài chính - ngân hàng; một trong những
trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào tạo về khoa học công nghệ của
miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lợc về quốc phòng, an ninh của khu vực
miền Trung và của cả nớc.
Nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị thực sự là một sự định hớng chiến
lợc cho Đà Nẵng phát triển mạnh trong tơng lai không xa.
1.3.2.Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nớc về tái định c
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nớc về TĐC đợc thể hiện qua
các văn bản pháp lý liên quan đến đền bù thiệt hại và TĐC.
Nghị định 151 của Thủ tớng Chính phủ ban hành ngày 14/4/1959 quy
định về thể lệ tạm thời về trng dụng ruộng đất là văn bản pháp quy đầu tiên
liên quan đến việc đền bù và TĐC bắt buộc ở Việt Nam. Nghị định này đã đa
ra những nguyên tắc cơ bản trong việc trng dụng ruộng đất của nhân dân cho
việc xây dựng các công trình do Nhà nớc quản lý.
Tuy nhiên, trớc năm 1992, đất đai cha đợc giao cho các hộ gia đình sử
dụng ổn định và lâu dài nên khi cần Nhà nớc chỉ thu hồi lại mà không nhất

thiết phải đền bù hoặc chỉ đền bù cho chính quyền địa phơng hay tập thể đang
sử dụng đất, mức đền bù các tài sản bị thiệt hại không đợc quy định rõ ràng
mà giải quyết theo thoả thuận.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993 và 2003
đã đặt cơ sở nền tảng pháp lý cho chính sách đền bù, TĐC ngày càng đi dần
đến sự hoàn chỉnh hơn để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đời sống.
Bản Hiến pháp sửa đổi đợc thông qua năm 1992 đảm bảo quyền dân
chủ của công dân, quyền sở hữu của Nhà nớc đối với đất đai và tài nguyên,


23
quyền sử dụng đất của các tổ chức và cá nhân; đặc biệt Hiến pháp 1992 còn
bao gồm việc công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất và quyền sở hữu t nhân
về tài sản và sản xuất.
Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 là những văn
kiện quan trọng làm cơ sở cho việc thực hiện đền bù và TĐC cho những ngời
bị mất nơi ở một cách không tự nguyện.
Các Luật Đất đai nói trên đã xác định: đất đai thuộc quyền sở hữu toàn
dân do Nhà nớc thống nhất quản lý. Các tổ chức và cá nhân không thể sở hữu
đất đai nhng lại đợc giao quyền sử dụng đất và điều này lại tạo ra cơ sở pháp
lý cho quyền đền bù khi Nhà nớc thu hồi đất.
Các đạo luật nói trên thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta trong
việc thống nhất quản lý đảm bảo lợi ích chính đáng, hài hoà giữa Nhà nớc với
ngời dân, đồng thời vừa là cơ sở để xác lập hệ chính sách đền bù, TĐC... Hàng
loạt các nghị định, thông t đợc ban hành nh: Nghị định 60/CP (1994): Quyền
sở hữu đô thị; Nghị định 87/CP (1994): Quy định về khung giá các loại đất;
Nghị định 90/CP (1994): Đền bù thiệt hại khi Nhà nớc thu hồi đất; Thông t
15/LĐ-TB-XH (1995): Trợ cấp cho các gia đình chuyển đến vùng kinh tế mới;
Nghị định 22/CP (1998) về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nớc thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;

đặc biệt là Nghị định 197/CP (2004) về bồi thờng, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nớc
thu hồi đất đã và đang bảo đảm quyền lợi thiết thực cho ngời dân. Hệ thống
các văn bản pháp quy nói trên đang tiến dần tới một chính sách TĐC hoàn
chỉnh. Nếu các văn bản trớc năm 1998 chủ yếu chú trọng đến việc đền bù cho
các thiệt hại khi Nhà nớc thu hồi đất thì từ Nghị định 22/1998/NĐ-CP về sau,
đặc biệt là Nghị định 197/2004/NĐ-CP đã có thêm nhiều điều khoản quy định
về sự hỗ trợ cũng nh lập khu TĐC để tạo nơi ở mới và ổn định đời sống và sản
xuất cho ngời dân sau TĐC. Trong các nghị định này, chính sách hỗ trợ và
TĐC đều hớng tới mục tiêu bồi thờng, hỗ trợ thoả đáng (tất nhiên là tuỳ theo
điều kiện cụ thể của từng địa phơng) quyền lợi của ngời dân, từ khâu bồi thờng các thiệt hại về đất đai, tài sản đến khâu hỗ trợ di chuyển, ổn định đời
sống và sản xuất ở nơi TĐC.
Từ năm 1998 đến nay trong các nghị định của Chính phủ đã đợc bổ
sung thêm 2 chơng mới là chính sách hỗ trợ và tái định c.
Về chính sách hỗ trợ, trong các nghị định, Chính phủ đã có quy định cụ
thể mức hỗ trợ về di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất; hỗ


24
trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm và các hỗ trợ khác nhằm giúp ngời
dân TĐC sớm ổn định thu nhập và đời sống.
Về TĐC, các điều 28, 29, 30, 31 của Nghị định 22/1998/NĐ-CP đã quy
định về việc lập và tổ chức khu TĐC tập trung hoặc phân tán cho phù hợp với
tình hình thực tế của địa phơng; khu TĐC phải xây dựng phù hợp với quy
hoạch, tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng; trớc khi bố trí đất ở cho các hộ gia
đình, cá nhân, khu TĐC phải đợc xây dựng cơ sở hạ tầng thích hợp, phù hợp
với thực tế quy hoạch về đất ở, đất xây dựng của địa phơng. Đến Nghị định
197/2004/NĐ-CP, việc lập và bố trí TĐC lại đợc quy định một cách cụ thể, chi
tiết hơn. Đặc biệt đối với điều kiện bắt buộc đối với khu tái định c đợc điều
35 của Nghị định quy định một cách chặt chẽ, có lợi cho cuộc sống của ngời
dân sau TĐC nh sau:Trớc khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu

TĐC phải đợc xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ đảm bảo đủ điều kiện cho ngời
sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ [4, tr.35]. Điều 36 còn quy định các biện
pháp hỗ trợ sản xuất... Nh vậy, cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nớc ngày càng mạnh mẽ, nhu cầu di dời giải toả để thực hiện các dự
án phát triển ngày càng tăng thì hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nớc đối với vấn đề TĐC cũng ngày càng đợc xây dựng, bổ sung và hoàn
thiện hơn. Mọi quan điểm, chính sách đều hớng đến mục tiêu phát triển đất nớc, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho cá nhân và cộng đồng.
Trên cơ sở quan điểm, chính sách chung về TĐC của Đảng và Nhà nớc,
UBND thành phố Đà Nẵng đã cụ thể hoá bằng những Quyết định 4503/1998;
Quyết định 170/1999; Quyết định 141/2002; Quyết định 122/2003 và Quyết
định 209/2004 ban hành quy định tạm thời về bồi thờng, hỗ trợ và TĐC khi
Nhà nớc thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Các chế độ, chính sách
bồi thờng, hỗ trợ và TĐC đợc thành phố điều chỉnh theo hớng ngày càng đảm
bảo lợi ích thiết thực cho đối tợng bị ảnh hởng bởi dự án. So với các quyết
định ban hành t năm 2003 về trớc, Quyết định 209/2004 đã có những quy định
đem lại lợi ích hài hoà giữa Nhà nớc và nhân dân. Ví dụ, trớc đây giá đất trong
khu TĐC nhà nớc bán lại cho ngời dân quá cao so vơi giá mà ngời dân đợc
đền bù khi giải toả thì giờ đây đã đợc điều chỉnh phù hợp hơn; Hay chính sách
hỗ trợ TĐC (hỗ trợ di chuyển,thuê nhà ở, đào tạo nghề, chuyển đổi nghề
nghiệp)đã đợc thành phố quy định một cách rõ ràng,cụ thể. Đặc biệt, trong
Quyết định 209/2004, thành phố còn có chính sách phân thêm các lô đất phụ


25
cho những hộ gia đình có diệm tích đất thu hồi lớn và đông nhân khẩu(tối đa
là 5 lô).
Các quyết định nêu trên đều mang tinh thần chỉ đạo là hớng đến thực
hiện Chủ trơng của thành phố là tất cả các hộ dân sau khi giải toả, TĐC phải
có cuộc sống tốt hơn trớc về mọi mặt, tuyệt đối không để hộ nào rơi vào cuộc
sống khó khăn hơn. Đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đi

sâu phân tích thực trạng những biến đổi về mức sống của nhóm dân phải di
dời, giải toả sau TĐC ở thành phố Đà Nẵng.


×