Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp khai thông nguồn vốn tín dụng đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.32 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc cạnh tranh trong nền kinh tế
nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng ngày càng mạnh mẽ. Nếu không bắt
nhịp với xu thế đó các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ không tồn tại trên
thị trường hiện nay. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng nước
ngoài với tiềm lực vốn lớn, trang thiết bị kỹ thuật với công nghệ hiện đại,
trình độ quản lý chuyên sâu cũng như phong cách làm việc nhanh chóng và
hiệu quả đã và đang thu hút được không chỉ đối tượng khách hàng là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổng công ty Nhà nước mà còn
cả các DNVVN. Do vậy các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng
trước thử thách lớn để đứng vững trên thị trường và giữ thị phần tiềm năng
trong nước.
DNVVN chiếm số đông trong tổng doanh nghiệp ở Việt Nam. Hiện
nay, số lượng DNVVN là 240000, chiếm 96% doanh nghiệp của cả nước. Với
sự gia tăng liên tục về số lượng và hoạt động ngày càng hiệu quả, Các
DNVVN được đánh giá là một trong những động lực chính thức đẩy nền kinh
tế phát triển, khuyến khích quá trình tư nhân hóa và phát triển kỹ năng kinh
doanh. Mặc dù với quy mô không lớn nhưng cơ cấu gọn nhẹ, linh hoạt và
thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của môi trường. DNVVN đã giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, đa dạng hóa các hoạt động kinh
tế và đóng góp lớn vào GDP và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Chính vì vậy, các DNVVN không chỉ trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các nhà lập chính sách mà còn là mối quan tâm chủ đạo đối với các ngân hàng
thương mại Việt Nam khi thiết lập đối tượng khách hàng mục tiêu. Đây là đối
tượng khách hàng tiềm năng của ngân hàng mà nếu có sự quan tâm đầu tư
đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho DNVVN dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng.
1
Chuyên đề thực tập


Vấn đề bất cập hiện nay, các DNVVN đang gặp phải rất nhiều khó
khăn về vốn. Số DNVVN được vay vốn từ ngân hàng rất hạn chế (đặc biệt là
doanh nghiệp dân doanh) bởi một phần do bản thân doanh nghiệp và một
phần từ phía ngân hàng. Trong 100 hồ sơ vay vốn tại ngân hàng ngẫu nhiên
của các DNVVN thì chỉ có khoảng từ 35 – 40 hồ sơ có thể được chấp nhận
cấp vốn. Như vậy, khả năng tiếp cận vốn ngân hàng thương mại của các
DNVVN vẫn còn nhiều hạn chế.Nhu cầu về vốn của DNVVN rất lớn và
không ngừng tăng lên mà các ngân hàng thì yêu cầu tài sản thế chấp cao,
khiến DNVVN không đáp ứng được. Điều này không hề lợi cho cả ngân hàng
lẫn doanh nghiệp. Doanh nghiệp không có vốn để sản xuất kinh doanh và
ngân hàng không mở rộng được thị phần, lợi nhuận cũng không cao, từ đó
kéo theo nền kinh tế kém phát triển. Trước tình hình đó, buộc các ngân
hàng thương mại Việt Nam phải xây dựng chiến lược kinh doanh để thu hút
khách hàng, xác định cho mình đối tượng khách hàng mục tiêu phù hợp để có
những giải pháp nhằm không ngừng phát triển mối quan hệ với khách hàng,
tạo uy tín trong lòng khách hàng.
Xuất phát từ thực trạng trên, sau một thời gian thực tập tại phòng giao
dịch số 5 - Nguyễn Du - MB, và được tìm hiểu những chủ trương chính sách
của MB. Bởi vậy, em đã chọn đề tài “Giải pháp khai thông nguồn vốn tín
dụng đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội”
làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu thực trạng từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng như từ phía ngân hàng hiện nay để từ đó thấy được những hạn chế và
nguyên nhân trong tín dụng đối với DNVVN.
Nghiên cứu những chỉ tiêu chung về khai thông nguồn vốn tín dụng đối
với DNVVN, từ đó đánh giá thực trạng hoạt động khai thông nguồn vốn tín
dụng đối với DNVVN tại ngân hàng.
2
Chuyên đề thực tập

Cuối cùng, chuyên đề sẽ đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp
phần khai thông nguồn vốn tín dụng cho các DNVVN tại MB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng khai thông nguồn vốn tín dụng đối
với DNVVN tại MB.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại MB trên
địa bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và thực tiễn như: Phương pháp tư
duy biện chứng, suy luận logic và kết hợp phương pháp duy vật lịch sử sử
dụng số liệu thực tế để luận giải thông qua các phương pháp : So sánh, thống
kê, tổng hợp, phân tích…
5. Kết cấu của chuyên đề:
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng đối với DNVVN
tại MHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNVVN trên địa bàn Hà
Nội tại MB từ năm 2006 đến năm 2008.
Chương 3: Giải pháp khai thông nguồn vốn tín dụng đối với DNVVN trên địa
bàn Hà Nội tại MB.
Vì thời gian thực tập không nhiều và kiến thức thực tế còn hạn hẹp nên
chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong sự đóng
góp của thầy và các anh chị cán bộ phòng giao dịch số 5 - Nguyễn Du – MB
cùng những ai quan tâm đến đề tài này để giúp cho chuyên đề được hoàn
thiện hơn.
3
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT

ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ TẠI NHTM
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHTM:
1.1. Khái niệm:
NHTM là một tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, là doanh nghiệp
đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Một tổ chức cung ứng
vốn chủ yếu và hữu hiệu. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức
năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có rất
nhiều khái niệm về NHTM, nhưng khái niệm có thể nói là chung nhất là:
NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một doanh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác
trong nền kinh tế.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
a. Huy động vốn:
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ
vốn kinh doanh của NHTM. Đây là hoạt động đóng một vai trò quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động, đến khả năng mở rộng kinh doanh của
ngân hàng. Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền tệ (nội tệ và
ngoại tệ) và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận là vốn huy động từ
tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
- Vốn huy động từ tiền gửi:
Để huy động vốn, các NHTM đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác
nhau cho khách hàng lựa chọn. Các NHTM nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh
tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
4
Chuyên đề thực tập
+ Tiền gửi của tổ chức kinh tế gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền
gửi có kỳ hạn.
+ Tiền gửi của dân cư gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh

toán.
+ Tiền gửi khác như: Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác, tiền gửi
của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi của tổ chức đoàn thể xã
hội…
Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và
tiết kiệm của khách hàng. Đây là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng sử dụng
cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác.
- Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá:
Đây là nguồn vốn mà NHTM có được thông qua phát hành giấy tờ có
giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi… Các
kỳ phiếu và trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền mặt khi
cần, bằng cách bán chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại
ngân hàng. Với cách huy động này ngân hàng có thể tập trung được một khối
lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và chủ động sử dụng. Hình thức này được
sử dụng khi ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời
hạn giải ngân nhanh của khách hàng. Tuy nhiên, khi cần nóng thì ngân hàng
có thể vay thêm NHTM, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường
vốn…
b. Hoạt động sử dụng vốn:
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau
của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan
trọng.
- Cho vay: là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả, có lãi
suất và thời hạn nhất định. Quan hệ này phải được thỏa thuận dựa theo
nguyên tắc giữa người đi vay và người cho vay.
5
Chuyên đề thực tập
Đây là hoạt động vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế và chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong các loại tài sản của NHTM. Mục đích của cho vay nhằm
đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, thông qua đó để tìm kiếm lợi

nhuận.
+ Cho vay gồm: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ dự
án.
+ Cho vay thương mại: Đây là hình thức ngân hàng cho vay đối với
những người bán, sau đó chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay
trực tiếp đối với khác hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở
rộng hoạt động sản xuất.
+ Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn
chính quan trọng giúp khách hàng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình
và xe cộ… Bên cạnh đó những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế có thể được
tài trợ bởi cho vay tiêu dùng. Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so
với lãi suất cho vay thương mại.
+ Cho vay dự án: Các ngân hàng tài trợ cho xây dựng những nhà máy
mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Nhưng hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro. Để đảm bảo an toàn
trong hiệu quả và cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ
thống các tổ chức tín dụng thì các NHTM đã đưa ra các biện pháp đảm bảo
trong cho vay, phòng ngừa rủi ro là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho
vay không bảo đảm bằng tài sản. Đây là điều kiện rang buộc đối với mỗi
khách hàng khi đến vay vốn ngân hàng.
- Đầu tư: Ngân hàng thường đầu tư bằng cách nắm giữ chứng khoán và
tham gia góp vốn với các tổ chức khác như: hùn vốn vào các ngân hàng liên
doanh, các công ty... Nhưng chứng khoán mà ngân hàng nắm là chứng khoán
Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và
6
Chuyên đề thực tập
chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng đem
lại thu nhập cao và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Chứng
khoán thường chia thành chứng khoán thanh khoản và kém thanh khoản.

Chứng khoán có tính thanh khoản cao là chứng khoán an toàn, dễ bán, ít giảm
giá nhưng có sinh lời thấp; còn chứng khoán kém thanh khoản thì có mức độ
rủi ro cao nhưng đem lại tỷ lệ sinh lời cao. Ngân hàng nên nắm giữ hợp lý
loại chứng khoán và đầu tư sao cho hiệu quả để vừa sinh lời vừa đảm bảo tính
thanh khoản khi có lượng tiền mặt rút ra.
c. Các hoạt động khác:
- Mua bán ngoại tệ:
Đây là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện, tức
là mua một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong
thị trường tài chính hiện nay mua bán ngoại tệ thường là do các ngân hàng lớn
nhất thực hiện. Bởi vì những giao dịch này có mức độ rủi ro cao, yêu cầu phải
có trình độ chuyên môm cao.
- Bảo quản vật có giá:
Bên cạnh hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, các ngân hàng thực hiện
việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị khác cho khách hàng. Ngân hàng giữ
vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng
phát hành). Giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền gửi để thanh toán các
khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc
sử dụng phương tiện thanh toán bắng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến
khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của
ngân hàng. Đây là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rut ngắn
thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân vì tính an toàn
7
Chuyên đề thực tập
, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm chí phí. Điều này đã khuyễn khích các
Doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Đây
được coi là một bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng.

- Tài trợ các hoạt động của chính phủ:
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường xuyên, chính phủ các nước đều
muốn tiếp cận các khoản cho vay của ngân hàng. Chính phủ thường dùng
một số đặc quyền trao đổi các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân
hàng trung ương thành lập, Chính Phủ đều tìm cách tham dự hoặc trực tiếp
can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay Chính Phủ dành
quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng phải
thực hiện theo chính sách của Chính Phủ và tài trợ cho Chính Phủ bằng cách
mua trái phiếu Chính Phủ, hoặc cho vay ưu đãi các doanh nghiệp của chính
phủ…
Ngoài ra, ngân hàng còn có các hoạt động khác: Quản lý ngân quỹ,
cung cấp dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch vụ môi giới và đầu
tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý.
2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
2.1. Khái niệm về DNVVN:
Nói đến DNVVN là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ
lớn hay quy mô của các doanh nghiệp, bởi vì khái niệm doanh nghiệp vừa và
nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một nước tại một thời điểm nhất định. Một
doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được xem là
DNVVN nhưng trong môi trường kinh tế của quốc gia khác thì lại là doanh
nghiệp lớn, hoặc doanh nghiệp cực nhỏ. Song, khái niệm chung nhất về
DNVVN như sau: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp
nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những
giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia
tăng thu được theo thời kỳ theo quy định của quốc gia.
8
Chuyên đề thực tập
Còn đối với DNVVN ở Việt Nam, Ngày 23/11/2001 Chính Phủ đã ban
hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Theo quy
định của nghị định này: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã

đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng và số lao động trung bình hang năm không quá 300 người. Căn cứ
vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương, trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp
dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí
nói trên.
Theo khái niệm này, cũng như các nước khác, để phân biệt DNVVN
với doanh nghiệp lớn, Việt Nam quan tâm tới hai tiêu thức chính là vốn và lao
động. Như vậy, vốn và lao động là hai tiêu thức cơ bản để đánh giá quy mô và
phân loại doanh nghiệp. Tuy nhiên do đặc điểm của các ngành nghề khác
nhau dẫn đến nhu cầu lao động , nhu cầu về vốn của mỗi doanh nghiệp rất
khác nhau và tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
2.2 Đặc điểm của DNVVN:
DNVVN không chỉ mang nhũng đặc trưng vốn có của một doanh
nghiệp mà nó còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- Thứ nhất: DNVVN có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu hồi vốn nhanh.
Là loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nên việc đầu tư vốn sản suất
không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản suất của các doanh nghiệp này
thường vào các DNVVN sẽ tăng khả năng thu hồi vốn, tiếp tục tái cấp tín
dụng để đầu tư vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo, đồng thời cũng tăng nhanh
tốc độ luân chuyển vốn của ngân hang, tăng khả năng sinh lời. Đây được coi
là một lợi thế dối với DNVVN so với doanh nghiệp lớn. Khi cho DNVVN
vay với số lượng khách hang lớn hơn, ngân hang sẽ phân tán rủi ro hơn đối
với cho vay doanh nghiệp lớn với cùng tổng dư nợ.
9
Chuyên đề thực tập
- Thứ hai: DNVVN hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, năng động,
nhạy bén và dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường.
Với quy mô nhỏ, DNVVN có thể hoạt động kinh doanh ở tất cả các
lĩnh vực, với giá cả hợp lý đáp ứng mọi nhu cầu sản xuất , tiêu dung dù là nhỏ

nhất của mọi tầng lớp xã hội. Ngoài ra, với cơ sở vật chất không lớn, bộ máy
qản lý gọn nhẹ nên DNVVN dễ dàng thay đổi ngành nghề, lĩnh vực sản phẩm
dịch vụ kinh doanh khi có sự biến động trên thị trường. Nhờ vậy mà DNVVN
phân tán được rủi ro, tiết kiệm chi phí trong hoạt động kinh doanh của mình,
đảm bảo hiệu quả công việc. Đây là một mặt mạnh mà DNVVN có thể khai
thác hết năng lực của mình, để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
- Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu, thủ công do quy mô vốn nhỏ. Số
lượng DNVVN cả nước hiện nay khoảng 240000, chiếm khoảng 96% số
doanh nghiệp trong cả nước, số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%, DN
có 1-5 tỷ đồng tiền vốn chiếm 37,03%, DN co 5-10 tỷ đồng tiền vốn chiếm
8,18%, nên hầu hết nguồn tài chính của các DNVVN còn hạn hẹp. Mặt khác
việc tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề đầu tiên co ý nghĩa quyết định thì các
DNVVN còn gặp phải khó khăn không nhỏ, nhất là những khoản vay trung và
dài hạn. Chính vì vậy, các DNVVN ít có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết
bị, thay thế công nghệ phù hợp, có hiệu quả. Thực tế cho thấy, hầu hết máy
móc thiết bị đang dung trong các DNVVN ở Việt Nam là máy móc lạc hậu,
đã khấu hao hết nhưng vẫn được tận dụng, sửa chữa để sử dụng. Trình độ
công nghệ được đánh giá là lạc hậu so với các nước đang phát triển trong khu
vực từ 2-3 thế hệ. Do vậy, sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp,
hàm lượng chất xám ít, sức cạnh tranh tranh kém so với sản phẩm cùng loại
của các quốc gia trong khu vực. Để mở rộng sản xuất kinh doanh hay sửa
chữa, mua sắm các trang thiết bị mới, DN cần có nguồn vốn mang tính chất
ổn định và mang tính dài hạn. Hầu hết các doanh nghiệp được thành lập mới
trong những năm gần đây, chưa xây dụng được hình ảnh riêng, chưa có uy tín
nên việc vay vốn ngân hang còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy nguồn vốn và
10
Chuyên đề thực tập
công nghệ còn hạn chế, thu nhập thấp. Các doanh nghiệp này hoạt động chủ
yếu dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên thị trường tài chính phi chính thức, ít
tiếp cận với nguồn vay của ngân hang do không đảm bảo được các điều kiện

cần thiết đặc biệt là tài sản đảm bảo.
- Thứ tư: Trình độ người quản lý còn yếu kém, tay nghề của người lao
động chưa cao.Các doanh nghiệp được thành lập chủ yếu là các doanh nghiệp
gia đình. Do vậy trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh thường theo
thói quen làm việc và dựa vào mối quan hệ tray ỳ trông công việc, không có
nguyên tắc làm việc,… kỹ năng chuyên môn. Hơn nữa quản lý theo thị trường
hiện đại đang thiếu. Các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo,
thiếu nhiều về hiểu biết quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Người lao động trong DNVVN có tay nghề kém, ít qua trường lớp đào
tạo cơ bản, chủ yếu được chuyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, lao động
phổ thong, trình độ tay nghề đơn giản, chưa được đào tạo chiếm 60-70R lực
lượng lao động trong các DNVVN. Người lao động chưa chưa được đào tạo
tác phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại.
11
Chuyên đề thực tập
Bảng 1: Trình độ học vấn, đào tạo của lao động doanh nghiệp năm
1995.
(Đơn vị:%)
Bởi vậy, DNVVN muốn khắc phục những hạn chế này, bản than doanh
nghiệp phải tự vận động kế hợp với hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo,
đào tạo lại cán bộ công nhân, thợ lành nghề kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản
lý giỏi mới có thể vươn lên, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hôi nhập trong thời
kỳ hội nhập kinh tế mới.
- Thứ năm: Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ,
gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu.
Các DNVVN thường nhận gia công chi tiết, phụ kiện… của sản phẩm
cho xí nghiệp lớn hoặc tổ chức thu mua, thu gom nguyên liệu, phụ kiện làm
đại lý bán hang. Đặc biệt mô hình DNVVN rất phù hợp với các làng nghề thủ
công mỹ nghệ, những mạt hang truyền thống ở Việt Nam. Ở khu vực nông

12
Chuyên đề thực tập
thôn hiện nay, phổ biến với mô hình DNVVN tận dụng nguyên vật liệu và lao
động tại chỗ. Có tới 80% DNVVN hướng vào khai thác, chế biến nông sản
thực phẩm, gỗ, dệt may, sản xuất gạch ngói, thuộc da, thủ công mỹ nghệ.
- Thứ 6: Mô hình tổ chức kinh doanh gọn nhẹ, quản lý đơn giản. Mô
hình quản lý tổ chức trong các DNVVN thường đơn giản, mối quan hệ chủ -
thợ trực tiếp, thậm chí chủ doanh nghiệp trực tiếp làm thợ. Quan hệ giữa lao
động và người quản lý khá thân thiết. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân
chia phòng ban, bộ phận rõ rang, thậm chí một người có thể đảm nhận nhiều
vị trí. Điều kiện mặt bằng cho sản xuất kinh doanh của các DNVVN thường
chật hẹp, nhiều doanh nghiệp còn dung nhà ở làm nơi sản xuất kinh doanh,
giao dịch, giới thiệu sản phẩm bán hang. Chính điều này tạo sự năng động,
linh hoạt trong sản xuất kinh doanh. Đây là điểm mạnh, lợi thế lớn của
DNVVN trong cơ chế thị trường hiện nay, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặ biệt là khu vực nông thôn.
Trên đây là những đánh giá chung về đặc điểm của DNVVN hiện nay,
vì năng lực tài chính nhỏ bé thiếu tài sản đảm bảo, không có phương án sản
xuất kinh doanh hiệu quả nên việc tiệp cận các nguồn vốn vay của các NHTM
và các tổ chức tài chính còn rất khó khăn. Đây là vấn đề được các NHTM
cũng như Chính phủ quan tâm để khai thác số lượng khách hang tiềm năng
này, mở rộng tín dụng để tăng thu nhập và tồn tại trên thị trường.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách như: Chính
sách khuyến khích đầu tư, chính sách về mặt bằng sản suất kinh doanh, chính
sách về thị trường và khả năng cạnh tranh, chính sách về xúc tiến xuất khẩu,
chính sách về thông tin tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực. Điều này nhằm
khuyến khích và tạo thuận lợi cho DNVVN phát huy tính chủ động, sáng tạo,
nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực,
mở rộng lien kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tạo việc làm và nâng
cao đời sống cho người lao động. Chính điều này giúp các ngân hang mở rộng

tín dụng một cách dễ dàng hơn.
13
Chuyên đề thực tập
2.3 Nguồn vốn của DNVVN:
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành
lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn của doanh
nghiệp chia làm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
a. Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không không chia và
tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới.
- Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ
doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ
sở hữu góp. Xét về hình thức sở hữu doanh nghiệp thì:
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư
của Nhà nước. Chủ sở huux của doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp
phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Ví dụ đối với công ty cổ phần vốn do các cổ đông đóng góp, mỗi cổ đông là
một chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ
phần mà họ nắm giữ.
- Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia:
Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được
sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương
thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì
doanh nghiệp giảm được chi phí, bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều
doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư lợi nhuận để lại, nguồn vốn tái
đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã
và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Nguồn vốn của
DNVVN lâu nay chủ yếu dựa vào nguồn vay phi chính thức. Số DN được vay

từ nguồn vốn chính thức (ngân hàng) rất hạn chế bởi một phần do bản than
14
Chuyên đề thực tập
doanh nghiệp và một phần do các định chế từ phía ngân hàn. DNVVN ở Việt
Nam có lợi nhuận để lại ít ỏi, nên nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ lợi
nhuận không chia rất hạn chế.
- Phát hành cổ phiếu mới:
Một nguồn tài chính rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động
vốn cho doanh nghiệp. Mặc dù phát hành cổ phiếu có nhiều ưu thế so với các
phương thức huy động khác, nhưng cũng có hạn chế mà DNVVN gặp không
ít khó khăn đó là: xuất phát từ cán bộ quản lý, phần đông chưa qua đào tạo,
việc lập dự án để chứng minh tính khả thi của cơ hội kinh doanh là điều quá
sức.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của DN có thể được bổ xung từ phần chênh
lệch đánh giá lại tìa sản cố định, chênh lệch tỷ giá.
b. Nguồn vay nợ:
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể
sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hang, tín dụng thương mại và vay
thông qua phát hành trái phiếu.
Vốn tín dụng ngân hàng: Đây là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà
còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng đóng vai trò là người
cung cấp vốn doanh nghiệp từ khi mới thành lập đến khi bước vào hoạt động
kinh doanh, cung cấp vốn lưu động khi doanh nghiệp có nhu cầu.
Vốn tín dụng thương mại: Các DNVVN hầu như không đáp ứng được
điều kiện vay vốn của ngân hàng như điều kiện về khả năng tài chính, tính
khả thi của dự án hay điều kiện tài sản bảo đảm. Bởi vậy, các DNVVN
thường sử dụng phổ biến tín dụng thương mại hay còn được gọi là tín dụng
15
Chuyên đề thực tập

của người cung cấp. Nguốn vốn này được hình thành một cách tự nhiên trong
quan hệ mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Nguồn này có ảnh hưởng trực tiếp
to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn cả đối với nền kinh tế. Trong
một số doanh nghiệp, nguồn vốn này dưới dạng các khoản phải trả có thế
chiếm tới 20% tổng vốn, thậm chí có thể tới 40% tổng vốn.
Ưu điểm của nguồn vốn này là rẻ, tiện dụng và có tính linh hoạt trong
kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh
doanh một cách một cách lâu bền. Tuy vậy, cần nhận thức tính chất rủi ro của
quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
3. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM ĐỐI VỚI DNVVN:
3.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng đối với DNVVN:
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tín dụng, khó có thể đưa ra một
định nghĩa đầy đủ, rõ ràng về tín dụng. Tùy theo góc độ nghiên cứu mà chúng
ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này. Nói chng, định nghĩa một cách
đầy đủ về tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới
hình thức tiền tệ hoặc hiên vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau
một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban
đầu. Có rất nhiều loại tín dụng, trong đó có tín dụng ngân hàng. Tín dụng
ngân hàng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, là quan hệ tín
dụng giữa một bên là ngân hàng và một bên là các cá nhân tổ chức trong và
ngoài nước. Ở đây, chúng ta xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản
của ngân hàng, tín dụng đối với DNVVN là một hình thức cấp tín dụng thúc
đẩy sự tăng trưởng, phân tán rủi roc ho ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở tiếp cận
theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng đối với DNVVN được
hiểu như sau: Tín dụng ngân hàng đối với DNVVN là một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và các DNVVN, trong đó ngân
hàng chuyển quyền sử dụng cho các DNVVN trong một khoang thời gian
16
Chuyên đề thực tập
nhất định theo thỏa thuận, các DNVVN có trách nhiệm hoàn trả vô điều

kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN là một giao dịch về tài sản
trên cở sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở tín dụng giữa ngân hàng
và các DNVVN. Đây là điều kiện tiên quyết giữa người vay và người cho
vay. Ngân hàng tin tưởng sau một thời gian thỏa thuận sẽ được hoàn trả gốc
và lãi. Người đi vay là các DNVVN, giá trị tài sản đảm bảo hay sự bảo lãnh
của bên thứ ba.
- Tính hoàn trả: Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp
trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện ( khi đến thời hạn đã thỏa thuận, các
DNVVN phải thanh toán cả gốc và lãi cho ngân hàng). Giá trị hoàn trả thông
thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là các DNVVN
phải trả them phần lãi ngoài vốn gốc. Sự chênh lệch này là giá trả cho sự hy
sinh quyền sử dụng vốn tạm thời.
- Tính thời hạn: Đó là sự thỏa thuận giữa ngân hàng và các DNVVN về
thời gian sử dụng giá trị đó, đảm bảo ho sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và
thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó. Vì nguồn vốn huy động có tính chất
nhàn rỗi tạm thời nên tín dụng ngân hàng chủ yếu đáp ứng các nu cầu vốn
ngắn hạn.
- Tính rủi ro: Là một trong những đặc trưng nổi bật của tín dụng ngân
hàng nói chung, tín dụng ngân hàng đối với DNVVN nói riêng. Rủi ro do
thông tin không cân xứng dẫn đến rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch.
3.2. Các hình thức tín dụng đối với DNVVN:
a. Chiết khấu thương phiếu:
17
Chuyên đề thực tập
Thương phiếu được hình thành từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và
dịch vụ giữa các khách hàng với nhau. Trong mua bán chịu hàng hóa, bên bán
giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua, nhưng chưa nhận được tiền
mà chỉ nhận được một giấy nợ thanh toán. Giấy nợ đó có thể là một hóa đơn

hàng hóa trả chậm và cũng có thể là một thương phiếu, bao gồm hối phiếu và
lệnh phiếu. người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến
hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để
xin chiết khấu trước hạn. Vậy chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín
dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo
hạn cho ngân hàng để đổi một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ lãi
chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có).
Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu (thường chung cho các loại
thương phiếu), ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm phần lệ phí triết
khấu đối với những trương hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi
tiền.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa
ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách
hàng, ngân hàng thương ký vớ khách hàng hợp đồng chiết khấu (cấp cho
khách hàng hạn mức chiết khấu trong kỳ). khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ
cần gửi thương phiếu lên ngâ hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất
lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Ngoài ra, ngân hàng thương
mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản với chi phí thấp (vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả
năng chuyển nhượng – có tính thanh khoản cao).
b. Cho vay:
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu cho NHTM. Để đảm
bảo cho NHTM có thể duy trì và phát triển một cách vững chắc, đòi hỏi hoạt
18
Chuyên đề thực tập
động cho vay của NHTM phải an toàn và hiều quả sinh lời cao. Cho vay là
một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thực hiện điều hòa vốn trong nền
kinh teesduowis hình thức phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động
được từ trong xã hội (quỹ cho vay) để đáp ứng nhu cầu về vốn. Cho vay là
quyền của NHTM với tư cách là người cho vay (chủ nợ) yêu cầu khách hàng

của mình – người đi vay muốn vay được vốn phải tuân theo quy định, điều
kiện nhất định, đảm bảo cho người cho vay có thể thu hồi được vốn (gốc+lãi)
sau một thời gian nhất định. Theo quyết định 1627/2001/QĐ – NHTM, ngày
31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay: “Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả
năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng mà ngân hàng thỏa thuận với khác
hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp. Để quản lý và
sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng, cần thiết phải phân loại cho vay. Nếu phân
theo đặc điểm của nhóm vay các doanh nghiệp thường sử dụng thì có các
phương thức phân loại như sau:
- Cho vay thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội ( vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi. Hạn mức thấu chi được xác định trên cơ sở dư bình quân tài
khoản tiển gửi thanh toán của khách hàng và tỷ lệ hạn mức thấu chi thỏa
thuận giữa hai bên.
Số lãi mà khách hàng phải trả = lãi suất thấu chi x thời gian thấu chi x
số tiền thấu chi.
19
Chuyên đề thực tập
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ bị lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không
phù hợp về thời gian và quy mô. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, phần lớn
là không có đảm bảo. Hình thức này nhìn chung là chỉ sử dụng đối với các
khách hàng có dộ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Hiện nay, dịch vụ cho vay thấu chi được áp dụng khá phổ biến ở các

ngân hàng. Thông một tài khaonr được thấu chi gấp 3 lần mức lương, đáp
uwngss kịp thời nhu cầu thanh toán ngắn hạn của cá nhân, doanh nghiệp với
thủ tục rút vốn nhanh chóng, linh hoạt; lãi suất hợp lý, cạnh tranh.
- Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với những
doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từng lần, không có nhu cầu vay thường
xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần có nhu cầu
vay vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo quy định. Mỗi món vay khách
hàng phải làm đơn xin vay và hoàn tất hồ xơ trong bộ hồ sơ tín dụng. Ngân
hàng phải xem xét và giải quyết căn cứ vào số tiền cho vay đã được giám đốc
ngân hàng duyệt, tổng dư nọ ngân hàng không được vượt mức cho vay cao
nhất trong quý. Việc thẩm định xét duyệt cho vay, quản lý, giám sát tình hình
sử dụng vốn vay và thu hồi nợ được thực hiện theo từng hợp đồng tín dụng.
Khách hàng có thể rút vốn một lần hoặc nhiều lần phù hợp với tiến độ
sử dụng vốn, nhưng tổng số tiền của các lần rút vốn không được vượt quá số
tiền cho vay ghi trong hợp đồng tín dụng. Mỗi món vay được quy định thời
hạn trả nợ cuối cùng, nhưng kỳ hạn nợ của mỗi món vay không được vượt
quá thời hạn trả nợ cuối cùng của món vay. Kỳ hạn nợ được ấn định phải trả
vào lúc doanh nghiệp xin vay hết chu kỳ chu chuyển. Theo từng thời kỳ hạn
nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng
sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu có thấy
20
Chuyên đề thực tập
dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu trước hạn hoặc chuyển nợ quá
hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay tưng lần tương đối đơn giản, áp dụng cho các doanh
nghiệp có trình độ quản trị tài chính yếu, và có nhiều rủi ro hoặc không quan
hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng. Trên thực tế, hầu hết các doanh
nghiệp mới thành lập, các DNVVN thường được áp dụng hình thức cho vay
này.

- Cho vay theo hạn mức:
Đây là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là giới hạn tối đa số tiền cho
vay mà ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng trong khoảng một thời
gian nhất định, có thể tính cho cả kỳ và cuối kỳ. Hạn mức được cấp trên cơ sở
kê hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vay vốn khách hàng.
Hạn mức tín dụng ngắn hạn = Nhu cầu vốn lao động kế hoạch – (vốn
kinh doanh ngắn hạn + nguồn vốn coi như tự có + nguồn vốn khác).
Trong đó nguồn vốn kinh doanh ngắn hạn là một phần nguồn vốn kinh
doanh sử dụng cho các nhu cầu về tài sản cố định. Nguồn vốn coi như tự có là
tất cả các số dư các quỹ, lợi nhuận chưa phân phối và khoản chênh lẹch tăng
giá vật tư theo quyết định của nhà nước. Nguồn vốn khác bao gồm vay ngân
hàng khác hoặc vay đối tượng khác, vay nội bộ của công ty…
Hạn mức tín dụng trung dài hạn = Tổng dự toán chi phí – nguồn vốn
đầu tư tự có. Hạn mức tín dụng trung dài hạn thể hiện số vốn tín dụng của
ngân hàng tham gia vào công trình hay dự án đầu tư, giúp cho đơn vị chủ đầu
tư có đủ vốn để thực hiện công trình, cải tiến kỹ thuật cho doanh nghiệp.
21
Chuyên đề thực tập
Đậy là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
ngắn hạn có nhu cầu vay thường xuyên, kinh doanh ổn định và vốn vay tham
gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Khi vay theo han mức
doanh nghiêp phải cung cấp cho ngân hàng các báo cá tài chính và phương án
tài chính về bảng cân đối tài chính và nguồn vốn, lưu chuyển tiền tệ và kết
quả kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ
hạn nợ và thời hạn tín dụng. khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ,
tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay
không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu
quả sử dụng lần vay.
- Cho vay luân chuyển:

Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Doanh nghiệp
khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể vay để mua hàng và thu nợ
khi doanh nghiệp bán hàng. Đây là một trong số những khoản cho vay linh
hoạt nhất, yêu cầu tín dụng luân chuyển thường được ngân hàng chấp nhận
mà không đòi hỏi đảm bảo bằng bất cứ tài sản nào. Ngân hàng và doanh
nghiệp thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn
cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Tùy theo tính chất yêu cầu nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay người vay vốn để luân chuyển vật
tư, hàng háo nhanh và có nhu cầu vay vốn theo phương thức luân chuyển.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng
ngân quỹ trong thời gian tới. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định, tùy
theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải
thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
22
Chuyên đề thực tập
vay – trả thường xuyên với ngân hàng. Hơn nữa, rất thuận tiện cho các khách
hàng, thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay.
Theo quyển “ Quản trị HNTM” của Peter S.Rose có viết cam kết cho
vay luân chuyển có hai loại. Loại phổ biến nhất là cam kết vay vốn chính thức,
đây là cam kết có tính chất hợp đồng, ngân hàng đảm bảo sẽ cho khách hàng
vay tới một lượng vốn tối đa xác định trước với lãi suất đã ấn định hoặc với
lãi suất thay đổi trên cơ sở lãi suất cơ bản như LIBOR. Ngân hàng có thể
không thực hiện nghĩa vụ nếu có những thay đổi bất lợi nghiêm trọng hoặc
khi vay người không thực hiện các điều khoản trong hợp đồng. Loại thứ hai ít
chặt chẽ hơn là hạn mức tín dụng đảm bảo, ngân hàng đồng ý cho khách hàng
vay trong trường hợp khẩn cấp. Ngân hàng chỉ dành những cam kết tín dụng
nới lỏng cho các doanh nghiệp có chất lượng tín dụng cao nhất và thường

định giá thấp hơn nhiều so với loại cam kết cho vay chính thức. Với loại cho
vay này, khách hàng được đáp ứng vốn kịp thời, việc thanh toán nhanh ngọn.
Tuy nhiên, thời hạn của khoản vay không rõ ràng làm cho ngân hàng gặp khó
khăn trong thu hồi vốn khi doanh nghiệp găp trở ngại trong tiêu thụ.
Phương thức cho vay luân chuyển lâu nay chỉ áp dụng ở phạm vi hẹp là
khu vực doanh nghiệp nhà nước. Do vậy cần mở rộng áp dụng mọi thành
phần kinh tế đơn giản dễ thực hiện, tiết kiệm thời gian, tiến vốn nhàn rỗi trong
quá trinh lưu chuyển tiền tệ.
- Cho vay trả góp:
Đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường
được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định
hoặc hàng lâu bền. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa
mà khách hàng đã mua trả góp.
23
Chuyên đề thực tập
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người
vay. Do rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung
lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay theo dự án đầu tư:
Cho vay đầu tư dự án là loại hình cho vay có mức độ rủi ro cao nhất,
nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư dự án mới, các
dự án nâng cấp, mở rộng sản xuất kinh doanh giúp các doanh nghiệp thuận lợi
trong việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc mở rộng
quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Nếu tính được hiệu
quả kinh tế, có tính khả thi mà doanh nghiệp thiếu vốn thì ngân hàng sẽ cho
vay theo dự án đầu tư giúp doanh nghiệp chủ đầu tư hoàn thành dự án.
Khi cho vay theo dự án, ngân hàng cần thẩm định dự án đầu tư đánh
giá chính xác về khả năng hoàn trả của dự án. Quá trình thẩm định cần phải

kết hợp với các hình thức khác nhau như: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, thực
hiện bảo lãnh dự thầu, thông qua đó xác định được số tiền cho vay tối đa, thời
hạn cho vay, vấn đề bảo đảm tiền vay, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
hoạt động hiệu quả. Đối với cho vay theo hình thức này, thường là cho vay
với các dựu án đầu tư cần có nguồn vốn lớn, việc cho vay sẽ đòi hỏi sự tham
gia của một tổ chức tài chính. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận mức phí
trả khi khác hàng trả trước hạn, phí cam kết trả một phần chi phí hoạt động
của ngân hàng.
- Cho vay hợp vốn:
Cho vay hợp vốn là hình thức cho vay trong đó có hai hay nhiều tổ
chức tín dụng tham gia vào một dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh
doanh của một khách hàng vay vốn. Nguyên tác tổ chức việc cho vay hợp vốn
24
Chuyên đề thực tập
là các thành viên tự nguyện tham gia và phối hợp với nhau để thực hiện; Các
thành viên thống nhất lựa chọn tổ chức đầu mối thanh toán, các ben thỏa
thuận thống nhất trong hợp đồng – Cho vay hợp vốn có thể thực hiện với
khoản cho vay ngắn hạn cũng như các khoản cho vay trung và dài hạn.
Ở Việt Nam, so với các doanh nghiệp lớn thì phương thức vay vốn của
DNVN đơn điệu hơn, chủ yếu là phương thức cho vay từng lần, cho vay theo
hạn mức và cho vay theo dự án.
c. Cho thuê tài sản:
Là một hình thức tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê
máy móc và thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cớ sở
hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Ngân hàng mua tài sản cho
khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu
đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua
lại tài sản đó. Khách hàng phải trả cả gốc và lãi sau thời hạn nhất định, dưới
hình thức tiền thuê hàng kỳ. thời gian thuê thường chiếm phần lớn thời gian
hoạt động của tài sản, trong thời gian này người đi thuê không được hủy

ngang hợp đồng.
Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh
không có hiệu quả, không trả được tiền thuê đầy đủ và dúng hạn. Cho thuê
khác với cho vay ở chỗ, tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng,
ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện cam kết
đúng hợp đồng. Hình thức cho thuê mang tính rủi ro rất cao do nhiều tải sản
cho thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao…
d. Bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng là một dạng dịch vụ hiện, là cam kết của ngân hàng
dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
25

×