Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài dự thi kiến thức liên môn dành cho học sinh trung học cơ sở (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.37 KB, 10 trang )

BÀI DỰ THI
CUỘC THI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN
ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN
DÀNH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

- Trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Địa chỉ: thôn 3 –Eakamút-Huyện Eakar-Tỉnh Đắc Lắc
- Điện thoại:01248331714
- Email:
THÔNG TIN VỀ HỌC SINH
HỌ VÀ TÊN NHÓM HỌC SINH LỚP 7B1


1. Hoàng Trung Nguyên sinh: 20/08/2002
2 .Trịnh Quỳnh Trang Ngày sinh: 05/04/2002
3. Nguyễn Thị Thùy Phương: 09/09/2002

I.

II.

III.

Tên tình huống:
Vận dụng kiến thức liên môn : ngữ văn, địa lý, lịch sử, tin học để
phân tích bài thơ ‘Qua Đèo Ngang’ của ‘bà Huyện Thanh Quan’ .
Đặt vấn đề:
Sau khi học xong bài thơ qua đèo ngang em hãy vận dụng các môn
học để phân tích bài thơ
Giải quyết tình huống:
1.Môn ngữ văn:



Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Đèo Ngang là con đèo lịch sử, đã đi vào ca dao, huyền thoại với sự
tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh cũng như những câu ca dao, những bài


thơ của các danh nhân đã lưu dấu như Lê Thán Tông, Vũ Tông Phan,
Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Nguyễn Phước Miên Thẩm ... trong đó
nổi tiếng nhất là bài Qua Ðèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
PHÂN TÍCH
Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, tác phẩm của bà thường là tâm
sự, là nỗi buồn sâu kín của nhà thơ trước thời thế của đất nước, trong đó phải
kể đến tác phẩm Qua Đèo Ngang, một tác phẩm có giá trị lớn trong kho tàng
văn học dân tộc.
Trên đường từ Thăng Long trở về Huế, đến Đèo Ngang, đứng trước cảnh đẹp
của thiên nhiên, tác giả đã thấy nhiều cảm xúc dâng lên, và thấy cảnh vật như
đang cùng chung tâm sự với mình.
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Cảnh vật lúc bà quan sát là cảnh của một ngày tàn. Cảnh vật không còn mang
hơi ẩm rực rỡ của ban ngày mà chỉ còn sót lại vài tia nắng vàng vọt, yếu
ớt. Bóng xế tà gợi lên lòng trong người đọc một nỗi buồn ban mác, bâng
khuâng. Âm điệu của bà từ hạ xuống, kéo dài âm điệu mênh mang của một

nốt nhạc trầm buồn, sâu lắng. Cái bóng xế tà của Bà Huyện Thanh Quan làm
ta nhớ đến buổi chiều buồn buồn trong cau ca dao xưa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông vê quê mẹ ruột đau chín chiều
Cảnh vật buồn đã gợi lên trong lòng người thi sĩ một nỗi niềm sâu kín, thúc
dục thi sĩ hòa vào cảnh vật để tìm tri kỉ chia sẻ tâm sự của mình. Thời gian dễ
gợi trong lòng người bao nỗi cô đơn buồn bã chính là khoảng khắc hoàng hôn
về chiều. Bà Huyện Thanh Quan ngắm khung cảnh Hoàng Sơn với đôi mắt
buồn ngấn lệ và cảnh vật càng vắng lặng hơn khi điệp từ chen ở câu hai xuất
hiện. Từ chen cho ta hình dung thấy thiên nhiên nơi Đèo ngang không phải là
hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng ma thiên nhiên ở đây um tùm, rậm


rạp. Hoa, lá, đá chen chút nhau, xô đẩy nhau để cố vươn lên đón những ánh
sáng cuối ngày. Lời thơ nhẹ nhàng, trang trọng. Bà Huyện Thanh Quan vẽ
nên bức tranh Đèo Ngang hoang vu, vắng lặng sao mà buồn đến thế! Tâm
hồn đã cô đơn, Bà Huyện Thanh Quan ngắm cảnh để vơi đi nỗi buồn, thế
nhưng càng ngắm càng buồn, phải chăng đó là bởi:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ...
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Người thi sĩ đang buồn trước sự rối ren của thời thế, chưa tìm được lối thoát,
gặp cảnh vật này, nhà thơ như được chia sẻ nỗi lòng cùa mình. Và rồi từ đỉnh
Đèo Ngang, nữ sĩ phóng tầm mắt về phía xa để tìm chút sự sống; xa xa dưới
chân núi thấp thoáng bóng người:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhà thơ đã rất tinh tế khi sử dụng những từ láy gợi hình lác đác, lom
khom đứng ở đầu câu càng làm cho cảnh vật trở nên thưa thớt, vắng lặng.
Con người hiện lên như cái ngút ngàn mênh mông của thiên nhiên không làm
cho cảnh chiều tươi vui, nhộn nhịp mà càng làm cho bức tran thiên nhiên

vắng lặng, quạnh hiu hơn. Cảnh đây, thời gian ấy hòa vào tâm trạng của nhà
thơ khiến cho nỗi buồn của bà như tăng lên gấp bội và cùng xoáy sâu vào tâm
hồn nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan khi văng vẳng bên tai tiếng chim cuốc cuốc,
chim gia gia khắc khoải lúc hoàng hôn đang từ từ buông xuôi:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Tác giả đã dùng thủ pháp nghệ thuật sắc sảo tinh tế khi sử dụng các từ
ghép đau lòng, mỏi miệng càng làm cho nỗi lòng ta ray rứt, bâng khuâng.
Tiếng chim gia gia da diết hay đó chính là nỗi nhớ nhung tha thiết của Bà
Huyện Thanh Quan khi phải rời gia đình, quê hương, vượt nghìn trùng vào
kinh đô Huế nhận thức Cung trung giáo tập. Một con người đa sầu đa cảm
như bà thì thử hỏi làm sao không nhứ không thương quê hương cho được!
Còn tiếng chim cuốc cuốc nhớ nước đau lòng khắc khoải? Phải chăng đó là


tâm sự sâu kín nhất của nhà thơ? Sống trong cảnh đất nước nhà mà Nguyễn
cai trị, nước những bạc nhược hung tàn của vua chúa, Bà Huyện Thanh Quan
luôn hoài niệm về quá khứ vàng son. Bà sống lại những kỉ niệm thời dĩ vãng
để rồi nhớ, rồi đau. Nỗi đau ây càng thấm thía, xót xa như Tú Xương đã từng
viết:
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Sông lấp)
Cảnh thiên nhiên thì buồn thê lương còn tâm trạng nhà thơ thì sao? Sau khi
đã ngắm hết mọi góc cạnh của cảnh vật, thấy cảnh vật nào cũng buồn, tác giả
quay trở lại với tâm trạng thực tại của mình:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Đứng trước khug cảnh mênh mông, hoang vu của đất nước, tác giả đã có thời
gian tĩnh lặng để suy nghĩ về thực tại. Câu thơ với hai hình ảnh đối lập trời

non nước và ta với ta càng gợi cho ta sự cô đơn, lẻ loi của Bà Huyện Thanh
Quan. Cụm từ ta với ta không mang nỗi vui sướng hân hoan, thắm thiết như
của Nguyễn Khuyến mà lại trầm buồn, đơn lẻ. Không chỉ ta với ta mà
còn mảnh tình riêng cho nước, cho nhà. Đọc câu thơ ta không thể không
nghẹn ngào mùi lòng trước sự cô đơn trống vắng của nữ sĩ Huyện Thanh
Quan. Thân nữ nhi yếu đuối, bà phải xa nhà, xa quê hương và giờ đây lại ôm
trọn trong lòng nỗi nhớ man mác ấy như có hình khối, cụm từ ta với ta không
đọc. Giữa trời đất mênh mông tác giả thấy mình bỗng dưng nhỏ lại, chơi vơi
trong vũ trụ bao la. Đi trong nước mà còn tìm nước đó phải chăng là nỗi đau
đớn, xót xa nhất trong đời của người nữ sĩ Huyện Thanh Quan?
Bằng tài năng của mình kết hợp với tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước
trong con người thi sĩ đã tạo ra một tác phẩm có gía trị sâu sắc. Bài thơ đã vẽ
lên bức tranh độc đáo về cảnh vật, bộc lộ tâm hồn thanh cao, vì dân vì nước
của nhà thơ và thể hiện được bút pháp tài tình của nhà thơ.
2.Môn địa lý :


Vị trí :

Đèo Ngang nằm trên quốc lộ 1A, trên dãy Hoành Sơn đoạn dãy Trường Sơn
chạy ngang ra biển Đông. Đèo dài 6 km, đỉnh cao khoảng 250 m (750 ft),
phần đất phía Quảng Bình (tức phần phía Nam) thuộc xã Quảng Đông, huyện
Quảng Trạch, phần đất phía Hà Tĩnh (tức phần phía Bắc) thuộc xã Kỳ Nam,
huyện Kỳ Anh. Đèo Ngang cách thị trấn Ba Đồn huyện Quảng Trạch 24 km,
cách bờ sông Gianh (một giới tuyến Bắc-Nam khác trong lịch sử Việt Nam
về sau này) 27 km, cách thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình 80 km về phía
Bắc (Đồng Hới ở phía Nam đèo Ngang), cách thành phố Hà Tĩnh tỉnh Hà
Tĩnh 75 km về phía Nam (Hà Tĩnh ở phía Bắc đèo Ngang). Đây là ranh giới
cũ giữa Đại Việt (và trước đó là Đại Cồ Việt) với Chiêm Thành, từ sau khi
người Việt giành được độc lập (năm 939, thời nhà Ngô) và trước thời kỳ

Nam tiến của người Việt (năm 1069, thời nhà Lý). Thời Pháp thuộc đèo có
tên trên bản đồ là Porte d'Annam.
3.Lịch sử:
Theo Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam thì đường
qua dãy Hoành Sơn được Ngô Tử An khai phá từ năm 992 và đã có
quá trình hình thành từ hơn 1000 năm. Từ xa xưa, quân Chiêm Thành


và quân Đại Việt đã đụng độ và tranh chấp khu vực hiểm yếu này.
Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thì đèo là nơi diễn ra nhiều trận
chiến ác liệt. Thời chống Mỹ cứu nước (1965 - 1975) đèo là nơi oanh
kích dữ dội của không quân và hải quân Mỹ. Trong những năm 19671969, cổng Hoành Sơn là nơi chứa đạn pháo cao xạ. Mùa hè năm
1969, bom Mỹ đánh trúng đơn vị pháo, 8 chiến sĩ anh dũng hy sinh
ngay tại đỉnh đèo. Nay, đèo Ngang là điểm nối thông Nam Bắc trên
tuyến quốc lộ 1A.
Theo các tài liệu sử còn lưu lại đến ngày nay như Đại Việt sử kí toàn
thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì con đường thông
qua đèo Ngang đã có từ thời vua Lê Đại Hành (980 - 1005). Vua Lâm
Ấp (Champa, Hoàng Vương, Chiêm Thành) cũng đã xây dựng tại đây
lũy Lâm Ấp vào thế kỉ XVII. Thế nhưng, địa danh này bắt đầu được
biết đến nhiều thì phải đến tận thời kì xảy ra việc chia cắt Đàng Ngoài
- Đàng Trong, quân Trịnh đã xây dựng tại đây một hệ thống đồn lũy,
gọi là lũy đèo Ngang hay lũy ông Ninh (chỉ Ninh Quốc công Trịnh
Toàn).
Sau khi vua Quang Trung thống nhất đất nước, chấm dứt tình trạng
Trịnh - Nguyễn phân tranh thì đèo Ngang trở thành cửa ngõ ra Bắc
vào Nam. Thế nhưng, khi tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh năm
1789 (Kỷ Dậu), nhà vua đã quyết định không qua cổng của những
thành lũy dựng từ trước mà trổ một con đường khác, với ý nghĩ muốn
đất nước liền một dải, không có sự phân chia.



Năm 1833, vua Minh Mạng cho xây dựng Hoành Sơn Quan ở đỉnh
đèo Ngang và cho khắc hình vào Cửu Đỉnh (Huyền Đỉnh). Hoành Sơn
Quan cao hơn 4m, hai bên có thành dài hơn 30m, trên cửa thành đắp
nổi ba chữ "Hoành Sơn Quan". Hai phía Bắc - Nam của Hoành Sơn
Quan đào núi thành 1000 bậc tam cấp. Hiện nay, Hoành Sơn Quan
vẫn còn, tuy không nguyên vẹn nhưng vẫn sừng sững, uy nghi, phong
trần nơi đầu núi hướng ra biển, là chứng tích của một thời kì lịch sử.
4.Tin học:
Dùng internet để tra thêm thông tin và hình ảnh minh họa
5.Giáo dục công dân:
Đọc thơ của bà Thanh Quan, nhiều người thắc mắc tại sao thi nhân đang sống
trên đất nươc mình mà luôn nhớ về cố quốc (nhớ nước đau lòng, con quốc
quốc), luôn thương nhớ gia đình (thương nhà mỏi miệng, cái gia gia),
IV.

Ý nghĩa của việc giải quyết tình huống
Việc kết hợp các kiến thức liên môn như lịch sử, địa lý vào môn ngữ
văn rất quan trọng, giúp cho bài làm văn bao quát, đầy đủ ý hơn. Từ
đó bài làm có sức thuyết phục hơn đối với bài văn thuyết minh. Như
vậy, kiến thức liên môn tạo điều kiện cho học sinh chủ động, tích
cực, sáng tạo, thêm những hiểu biết về quê hương, giúp học sinh ý
thức hơn việc học phải đi đôi với hành, rèn luyện các kỹ năng giải
quyết tình huống trong cuộc sống. Tuy nhiên tình huống đó trong
khi chúng ta nghĩ chúng không đáng để chúng ta phải bận tâm đến,
nhưng khi thực sự cần giải quyết chúng là một điều không dễ chút
nào. Vì vậy chúng ta hãy vận dụng kiến thức liên môn, những kỹ
năng mà chúng ta đã được học, được biết trên lớp hay ngoài xã hội



để giúp chúng ta giải quyết tình huống. Nó sẽ giúp ích cho chúng ta
rất nhiều đấy.




×