Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

:” Kích cầu đầu tư - Lý thuyết và thực tiễn tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.38 KB, 36 trang )

Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn

LỜI NÓI ĐẦU
Vừa qua cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu
gây ra hậu quả hết sức to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam
cũng không nằm ngoài khu vực bị ảnh hưởng nhất là khi chúng ta trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khủng hoảng có
những ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội và các nhà kinh tế
học trên thế giới, chính phủ các nước nói chung cũng như chính phủ Việt Nam
nói riêng cũng đã làm hết sức mình để đưa nền kinh tế của quốc gia mình thoát
khỏi khủng hoảng. Bằng việc xem xét lại các lý thuyết kinh tế đang được áp
dụng hiện nay đặc biệt là lý thuyết bàn tay hữu hình với sự can thiệp điều tiết
nền kinh tế của nhà nước, các quốc gia đã có những chính sách kinh tế với
những gói giải cứu kinh tế nhằm kích cầu đầu tư, tiêu dùng, tạo công ăn việc
làm nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Chính sách kích cầu kinh tế bên cạnh
những mặt tích cực thì cũng có những hạn chế. Nhận thức được những hạn chế
này sẽ giúp chính phủ có được những sự lựa chọn thích hợp trong việc thực thi
chính sách. Nhóm sinh viên chuyên ngành kinh tế đầu tư chúng em với mong
muốn tìm hiểu, vận dụng những kiến thức chuyên ngành để đi sâu tìm hiểu vấn
đề thực tiễn. Điều đó thôi thúc chúng em tiến hành nghiên cứu đề tài:” Kích cầu
đầu tư - Lý thuyết và thực tiễn tiễn”. Trong đề tài thảo luận này chúng em đưa
ra một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và kích cầu đầu tư, tình hình thực tiễn
kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm kích cầu
đầu tư có hiệu quả.
Nhóm thảo luận chúng em xin chân thành cám ơn PGS.TS Từ Quang
Phương cùng các thầy cô giáo trong bộ môn kinh tế đầu tư đã giúp đỡ chúng em
thực hiện bài viết này. Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức nên bài
viết không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được những
góp ý của thầy cô để bài viết hoàn thiện hơn.
- 1 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn


MỤC LỤC
LƠÌ NÓI ĐẦU…………………………………………..……………………….1
Chương I: Lí luận chung về kích cầu đầu tư………….…………………………4
I. Đầu tư và cầu đầu tư………………………………………………………..4
1. Khái niệm về đầu tư……………..………………………………………4
2. Cầu đầu tư…………………..……………………………………………4
2.1. Khái niệm………………...…………………………………………….4
2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư……………...…………………….4
2.2.1. Lợi nhuận kì vọng…………………………………………………..4
2.2.2. Lợi nhuận thực tế……………………………………………………6
2.2.3. Lãi suất tiền vay………….………………………………………….7
2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia………….………………..8
2.2.5. Chu kì kinh doanh…………………………………...……………...10
2.2.6. Đầu tư nhà nước……………………..…..…………………………11
2.2.7. Môi trường đầu tư……………………..……….……………………11
2.2.8. Thuế thu nhập doanh nghiệp………......……………………………12
II. Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư………..……......................13
1. Thế nào là kích cầu…………………..…………………………………13
1.1.Khái niệm……………………………..………………………………13
1.2. Nguồn gốc và cơ sở của chính sách…………...…………………13
1.3. Mục đích của chính sách kích cầu………………………………15
1.4. Nguyên tắc cơ bản của kích cầu…………………………………15
1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu……..….…………………18
2. Kích cầu đầu tư…………………………………………………………18
2.1. Khái niêm…………..………………………………...………………18
2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng………..……………18
2.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư……………….…………………………19
2.4. Tác động của kích cầu đầu tư……………...…………………………19
2.4.1. Tác động tích cực……………………………..……………………19
2.4.2. Tác động tiêu cực……………..……………………………………22

2.5. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư………...………….…………………24
2.5.1. Vốn trái phiếu chính phủ……………………...……………………24
2.5.2. Vốn ngân sách nhà nước……………………...……………………25
2.5.3. Quỹ dự trữ ngoại hối………………………….……………………25
2.5.4. In tiền……………………………………….………………………26
2.5.5. Vay nợ nước ngoài…………………………………………………26
2.5.6. Trì hoãn trả nợ…………………………..…………………………27
2.6. Các công cụ, biện pháp sử dụng………...……………………………27
2.6.1. Nhóm chính sách tiền tệ……………………….…………………27
2.6.2. Nhóm chính sách tài khóa……………………….…………………30
2.6.3. Nhóm chính sách giải pháp khác……………………...……………30
2.7. Kinh nghiệm kích cầu đầu tư trên thế giới………………………32
2.8. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kích cầu đầu tư………..……………34
2.8.1. Độ trễ chính sách…………………………………...………………34
- 2 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
2.8.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách……………….……………35
Chương II: Thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam
I. Thực tiễn kích cầu đầu tư trước khủng hoảng kinh tế 2007…………...……37
1. Tình hình kinh tế -xã hội Việt Nam giai đoạn 1986_2007……....……37
2. Tình hình kích cầu đầu tư của Việt Nam giai đoạn 1986_2007……..…39
II. Thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2007_nay……….……49
1. Khủng hoảng kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới Việt Nam…………….49
2. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới và của Việt Nam……52
2.1. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới………….…………52
2.2. Nội dung kích cầu ở Việt Nam……………….………………………55
2.2.1. Gói kích cầu thứ nhất………………….………………………….55
2.2.1.1. Nội dung cụ thể goi kích cầu…………..…………………………55
2.2.1.2. Công cụ biện pháp thực hiện……………..………………………56
2.2.1.3. Tình hình thực hiện………………………………………………61

2.2.1.4. Tác động của gói kích cầu………………..………………………62
2.2.1.5. Các vấn đề của gói kích cầu…………..…………………………71
2.2.2. Gói kích cầu thứ hai………………..………………………………75
2.2.2.1. Các quan điểm……………………………………………………75
2.2.2.2. Nội dung cụ thể gói kích cầu…………….……….………………76
2.2.2.3. Tác động của gói kích cầu số 2…………………..………………77
3. So sánh các gói kích cầu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới78
Chương III: Giải pháp thực hiện chính sách kích cầu đầu tư hiệu quả ở Việt
Nam
I. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kích cầu đầu tư……………80
1. Huy động vốn kịp thời và hiệu quả………………………..……………80
2. Giải pháp sử dụng hiệu quả vốn kích cầu đầu tư…………..……………80
2.1. Kích cầu phải kịp thời………………………...………………………80
2.2. Phân bổ nguồn vốn hợp lí……………………..………………………81
II. Kết hợp với chính sách tiền tệ, tỷ giá, khyến khích xuất khẩu, thu hút đầu
tư………………………...……………………………………….……………..82
III. Giám sát và đánh giá kết quả gói kích cầu…………….………………….83
1. Vai trò giám sát của quốc hội……………………….…………………...83
2. Đánh giá kết quả thực hiện gói kích cầu………………………………...84
IV. Một số đề xuất nhằm phát huy hiệu quả chính sách kích cầu đầu tư……..84
V. Các giải pháp kich cầu đầu tư trong dài hạn…………….…………………87
1. Giải pháp kích cầu đầu tư trong nước……………………………………87
2. Giải pháp kích cầu đầu tư nước ngoài……………………………………88
KẾT LUẬN……………….……………………………………………………89
Danh mục tài liệu tham khảo:…………………………………………..………90

- 3 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
I. Đầu tư và cầu đầu tư

1. Khái niệm đầu tư :
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lưc đã bỏ ra để đạt đươc các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn với những hi sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
2. Cầu đầu tư
2.1. Khái niệm:
Cầu đầu tư là tất cả nhu cầu của doanh nghiệp về hàng hóa vật tư, máy
móc, dịch vụ…và nguồn tài chính để duy trì hay mở rộng sản xuất của doanh
nghiệp đó trong một thời gian nhất định.
2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư
Nhu cầu đầu tư của các cá nhân, các doanh nghiệp và của chính phủ có
vai trò quan trọng đối với nền kinh tế bởi đầu tư là một bộ phận chính cấu thành
nên tổng cầu. Vì vậy cần xem xét kĩ lưỡng các yếu tố tác động đến cầu đầu tư
dưới đây để thấy được yếu tố nào tác động ít, yếu tố nào tác động nhiều và xu
hướng tác động của các yếu tố như thế nào để đưa ra chính sách kích cầu phù
hợp và đem lại hiệu quả mong muốn cho nhà đầu tư.
2.2.1. Lợi nhuận kì vọng
2.2.1.1. Lí thuyết của Keynes:
- Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi
vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết
của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết
đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sa
̀
ng bỏ vốn
để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi
nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng
thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ
gửi tiền vào ngân hàng.

- Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ
suất đầu tư của số tiê
̀
n đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên
của vốn giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau:
Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về
vốn tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suâ
́
t cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các
yếu tố khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên
giảm.
Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia
tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt đô
̣
ng, phát huy kết quả trong thực
tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào
- 4 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
nền kinh tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định,
lúc đó tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm.
Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản
xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi
lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1
đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn so với khi lượng
vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn
cũng giảm dần.
Thứ tư, khi quy mô vốn đầu tư tăng, hiệu quả biên của vốn giảm dần nên
các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn
mức lãi suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi
suất vốn vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các

nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là
điểm hiệu quả biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Theo Keynes, tỉ suất lợi nhuận là đại lượng rất khó xác định. Nhưng
chính điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư quyết định bỏ tiền đầu tư. Do lợi
nhuận khó xác định, có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp, thậm chí có thể
âm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được khoản lợi
nhuận cao đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có
thể xảy ra. Đó là tính 2 mặt của hoạt động đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được
lợi nhuận kì vọng.
2.2.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
+ Cung – cầu hàng hóa:
Trong các giai đoạn của 1 dự án thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem là
khâu quan trọng nhất. Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của dự án
có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.
Nghiên cứu cầu hàng hóa để đảm bảo sản phẩm bán ra có thể tiêu thụ
được. Cầu hàng hoá trước hết phụ thuộc vào sức mua chung của người dân, đó
là tỷ lệ tiêu dùng (C) chia cho thu nhập khả dụng của từng người dân (Yd) với
tổng số dân cư của địa phương hay của một quốc gia. Như vậy cầu hàng hóa phụ
thuộc vào thu nhập, mức sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người dân.
Cung hàng hóa là mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu trong 1 thời điểm
nhất định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất xã hội, tức là khả năng
cung ứng và kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vốn, công
nghệ...Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu và khả năng phân phối,
lưu thông hàng hóa.
+ Mức độ rủi ro:
Một trong những đặc điểm của đầu tư phát triển là thời kì đầu tư và thời
gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài, nguồn vốn chi cho đầu tư khá lớn, nghĩa là
kèm theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì
vọng. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất rộng, ví dụ như những thay đổi không
lường trước được của giá cả, công nghệ,… Vấn đề là khả năng quản trị rủi ro

của doanh nghiệp như thế nào, mức độ phát triển của các dịch vụ hạn chế rủi ro
- 5 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
(bảo hiểm, tín dung,..) và quan trọng nhất là sự ổn định của môi trường đầu tư cả
về kinh tế, xã hội và chính trị.
+ Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất:
Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác
định được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành
khai thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất. Cụ thể là:
- Các điều kiện về nguồn nhân lực: bao gồm cả về chất lượng và số
lượng. Khi xem xét nguồn nhân lực ta cần chú ý về khả năng dự báo tốc độ tăng
dân số, về tiền lương, về trình độ học vấn và văn hóa của họ…
- Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển: đó chính là khả năng huy
động vốn trên thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư.
- Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào các chính sách bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên, tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng, các mối liên hệ
giữa các ngành kinh tế….
- Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công
nghệ, khả năng nghiên cứu ứng dụng của đội ngũ khoa học trong nước.
Nếu là nhập công nghệ từ nươ
́
c ngoài thì còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ
cán bộ khoa học trong nước: họ tiếp thu, triển khai công nghệ đó như thế nào?
- Về cơ sở hạ tầng: phần lớn đươ
̣
c đầu tư từ ngân sách nhà nước, do đó
phụ thuộc vào quy hoạch vùng và kha
̉
năng ngân sách.

+ Thuế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái
phân phối của cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành,
vùng, miền. Thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lơ
̣
i nhuận của doanh nghiệp nên các
ưu đãi về thuế thường được sử dụng như 1 biện pháp khuyến khích đầu tư.
Vấn đề ở đây là phải xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Bởi nếu ưu
đãi quá mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Ngược lại, một
mức thuế cao sẽ giảm tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước cũng
như làm gia tăng tình trạng trốn thuế hay buôn lậu.
2.2.2. Lợi nhuận thực tế
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lơi nhuận thực tế ta có thể xem
xét đến “lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ”,theo thuyết này thì qui mô đầu tư tỷ lệ
thuận với lợi nhuân thưc tế của doanh nghiệp thể hiện qua phương trình:
I = f (lợi nhuận thực tế)
Do đó, dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận
cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn có
thể huy động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay
các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi
nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh
nghiệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động
từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình
tra
̣
ng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do
đó việc đi vay không phải là hấp dẫn, trư
̀
khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng
- 6 -

Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn
bán cổ phiếu đê
̉
tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiê
̣
p áp dụng khi hiệu
quả của dựa án đầu tư la
̀
rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ
lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường
chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng
của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
2.2.3. Lãi suất tiền vay
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là
chi phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hươ
̉
ng lớn đến các chỉ tiêu
tài chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản
ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ
suất lợi nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước
quy định, các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suâ
́
t lớn hơn 150%
so với lãi suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu
tư tài chính, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, tái
chiết khấu. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ
vốn trong nền kinh tế.

Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị
trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu
nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự điều tiết
của ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp
vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất cũng chịu
ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, nếu tình trạng thâm hụt ngân sách
kéo dài thì chính phủ phải đi vay để bù đắp thâm hụt, hơn nữa thâm hụt ngân
sách còn làm cho tiết kiệm quốc gia giảm khiến cho cung vốn vay giảm đẩy lái
suất tăng lên làm cho cầu đầu tư giảm xuống.
Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ
thuộc vào tỉ lệ lạm phát thông qua biểu thưc sau:
+Nếu tỷ lệ lạm phát π >=10% :
+Nếu tỷ lệ lạm phát π <=10%:
r =i – π
Trong đó : r là lãi suất thực tế;
i là lãi suất danh nghĩa;
π là tỷ lệ lạm phát;
Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi tỷ suất hoàn vốn nội bộ(IRR) của
dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn,
nhu cầu đầu tư sẽ giảm.
- 7 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Đồ thị:

Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển
khai, tức là các dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế có thể tăng
trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao,
chính phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu
quả thấp sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế lại
rơi vào suy thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới thì

có thể vốn đầu tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài do đó không làm tăng tổng
đầu tư trong nước.
Trên thực tế có trường hợp doanh nghiệp vẫn tăng qui mô vốn đầu tư khi
lãi suất cho vay ở mức cao. Đó là những trường hợp mà doanh nghiệp nhận thấy
được rằng mở rộng qui mô sản xuất sẽ thu được lợi nhuận cao hoặc những hoạt
động kinh doanh mạo hiểm với mức độ rủi ro cao hoặc những doanh nghiệp vừa
và nhỏ sử dụng ít vốn vay hơn nên tác động của lãi suất đến quyết định đầu tư là
không lớn dẫn đến họ vẫn quyết định đầu tư. Và cũng có những trường hợp khi
lãi suất cho vay thấp nhưng doanh nghiệp vẫn không tăng qui mô vốn đầu tư vì
họ cho rằng mở rộng qui mô vốn đầu tư không làm tăng lợi nhuận cũng như việc
tăng qui mô cũng làm tăng độ rủi ro lên.
Do đó việc lãi suất tăng cao hay giảm xuống luôn luôn gây bất lợi cho nền
kinh tế cho nên việc điều hành chính sách của nhà nước cũng như ngân hang sao
cho lãi suất giữ ở mức ổn định vừa kích thích đầu tư vừa kiềm chế được lạm
phát, phát triển nền kinh tế.
2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
- Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố
ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư. Ví dụ: Khi GDP tăng
- 8 -
D
i
I
O
i
0
i
1
I
0

I
1
Hình 1: Lãi suất tiền vay là biến nội sinh của hàm cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại
vừa làm tăng tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng
thì cung vốn vay tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư ( Do AD = C +I + G +
NX - M)
Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về
đầu tư.
Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban
đầu trong sản lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
- Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn
đề này được đề cập trong lí thuyết gia tốc vốn đầu tư . Theo lý thuyết này, để
sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất
định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công
thức: x = K/Y (*)
Trong đó:
K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu;
Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu;
x: hệ số gia tốc đầu tư;
Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y
Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến
nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng
phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi so với
thời kì trước.
Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
+ Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì
kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
+ Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế

tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hô
̣
i kinh doanh lớn, dẫn đến tiết
kiệm tăng cao và đầu tư tăng nhiều.
Tuy nhiên, nó còn có 1 số hạn chế :
Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định.
Thực tế đại lượng này (x) luôn biến động do sự tác động cu
̉
a nhiều nhân tố khác.
Thứ hai, thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI)
chứ không phải sư biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng. Thật
vậy, từ công thức (*) ở trên có thể viết:
Tại thời điểm t: Kt =x * Yt (1)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1 = x * Yt-1 (2)
Lấy (1) trừ (2) ta có :
Kt – Kt-1 =x*Yt –x*Yt-1 = x*(Yt – Yt-1)
Trong đó (Kt–Kt-1) là đầu tư ròng và bằng (It – D), với D là khấu hao
Do đó, (It – D) = (Kt –Kt-1) = x*(Yt – Yt-1) =x*∆Y
Và đầu tư ròng : ∆I = x.∆Y
Như vậy theo lí thuyết này thì đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản
lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần).
Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm.
- 9 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ
bằng không. Khi ∆Y = 0 thì ∆I = 0
Thứ ba, theo lí thuyết này thì toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được
thực hiện ngay trong cùng 1 thời kì. Điều này không đúng vì nhiều lí do, chẳng
hạn như do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến vốn đầu tư không đáp ứng,
do cầu vượt quá cung…Do đó, lí thuyê

́
t gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện
qua thời gian. Theo lí thuyết đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác
định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô
đầu tư mong muốn được xác định trong thời gian dài hạn.
2.2.5. Chu kì kinh doanh
- Thế nào là chu kì kinh doanh? Đó là những dao động của nền kinh tế
xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng
nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái của nền kinh tế. Mỗi chu kì kinh doanh
bao gồm 4 thời kì: suy thoái, khủng hoảng, phục hồi, hưng thịnh
- Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu
đầu tư khác nhau.
Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng, vì sao?
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định
thì việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết
kiệm chi phí sản xuất, gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền
kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh
nghiệp tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi
xuống, qui mô nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh
nghiệp tư nhân thu hẹp lại.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư
lại chưa chắc đã giảm?
Thật vậy, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh
nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của toàn
bộ nền kinh tế. Bởi vì mă
̣
c dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn
đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất
chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số

- 10 -
0
t
Hình I.5. Chu kỳ kinh doanh
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của
quốc gia đang trên đà đi xuống để kéo dài chu kì sống của sản phẩm.
Mặt khác, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định và đi lên,của cải tăng nên
công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng,họ
muốn đầu tư vào những tài sản thay thế có lợi tức dự kiến cao như đầu tư vao
chứng khoán công ty bởi vì khi nền kinh tế ổn định thì thị trường chứng khoán
trở nên ổn định hơn, rủi ro chứng khoán giảm và hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
2.2.6. Đầu tư của Nhà nước
Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư của
doanh nghiệp.
Tổng đầu tư xã hội = Đầu tư nhà nước + Đầu tư tư nhân
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu
lợi mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội.
Thông qua ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới
giao thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…điều này nhằm cải
thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu
tư vào các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước.
Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vấn giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, nguồn vốn của họ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, tổng vốn vay từ các ngân hàng thương mại và từ nước ngoài.
Vì vậy mỗi động thái trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có

tác động ít nhiều đến các hành vi của các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế. Nói
cách khác, đầu tư nhà nước dẫn đường cho đầu tư của tư nhân, của các doanh
nghiệp đi sau.
Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách,
nợ nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ
giải ngân vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước.
Do vậy, đầu tư nhà nước vừa là đòn bẩy kích thích đầu tư tăng cao góp
phần làm cho tổng đầu tư xã hội tăng nếu hoạt động đầu tư nhà nước có hiệu
quả. Trong trường hợp đầu tư nhà nước không đúng hướng,không phù hợp hoặc
sử dụng vốn nhà nước không hiệu quả sẽ gây hiệu ứng ngược lại cho đầu tư tư
nhân và khiến cho tổng đầu tư xã hội giảm sút, kéo nền kinh tế đi xuống.
2.2.7. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan,chủ
quan, bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp hay các nhà đầu tư có mối liên
hệ tương tác lẫn nhau,có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của nhà đầu tư.
Có thể nói môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết
định bỏ vốn của nhà đầu tư, sự cải thiện môi trường đầu tư có ảnh hưởng vô
cùng quan trọng và tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu
- 11 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
tư và tăng chi tiêu đầu tư toàn xã hội. Trong một thế giới mở cửa và hội
nhập,việc cải thiện môi trường đầu tư hoặc hướng tới một môi trường kinh
doanh lành mạnh, đủ sức cạnh tranh là đích đến để phát triển kinh tế xã hội của
bất kì quốc gia nào. Môi trường đầu tư được coi là nhân tố số một để khơi thông
các dòng vốn từ mọi tầng lớp dân cư trong nước và nước ngoài. Môi trường
thuận lợi thì các doanh nghiệp, doanh nhân mới toàn tâm, toàn ý tập trung trí
tuệ, vốn và kĩ thuật để phát triển sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội.
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tô

́
, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hiệu quả đầu tư. Có thể nói đến hai kha
́
i niệm:
- Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ
thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên lạc, cơ
sở hạ tầng giao thông,…
- Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp
lý liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng…
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các
hoạt động đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì
vậy cần chú ý đến công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút các
nhà đầu tư, tạo cho họ sự tin cậy để bỏ vốn đầu tư.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc
đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính
sách nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính
sách và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó
đến chi phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
2.2.8. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Đây là loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ
phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng với họ đầu tư
vẫn hợp lí, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản ( lãi suất thực tế cu
̉
a vay
vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê thấp
hơn chi phí tư bản.
Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi động
cơ đầu tư nhưng lại cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp phải trích khấu hao dựa
trên chi phí lịch sử, tức là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá mua tư

bản ban đầu. Trong thời kì lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí lịch sư
̉
nên
thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá quá cao lợi nhuận, thậm chí
vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận của doanh nghiệp bằng không, từ đó làm
cho việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn, cản trở hoạt động đầu tư.
Bên cạnh đó thì việc miễn thuế đầu tư lại là một quy định trong luật thuế
nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư sẽ làm giảm mức
thuế mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư, họ sẽ dành khoản tiền đó
để mua hàng đầu tư mới, nói cách khác sẽ làm giảm chi phí đầu tư thực tế của
mỗi đơn vị tư bản. Như vậy, miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và tăng
chi tiêu đầu tư.
- 12 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp nên chính phủ cần đưa ra chính sách thuế hợp lý nhằm khuyến khích và
nâng cao hiệu quả của chi tiêu đầu tư nhưng vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước.
II.Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư
1. Thế nào là kích cầu ?
1.1. Khái niệm:
Chính sách kích cầu là một loạt các biện pháp kinh tế nhằm duy trì và gia
tăng tổng cầu của một nước thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
1.2. Tại sao phải kích cầu? (nguồn gốc và cơ sơ của chính sách)
Chính sách kích cầu xuất phát từ học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học
nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Trong lý thuyết của
mình, Keynes rất coi trọng tổng cầu của nền kinh tế. Theo ông, nền kinh tế chịu
tác động của hai nhân tố cơ bản: Tổng cung, tức toàn bộ số hàng hóa bán trong
nền kinh tế không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò
thụ động, nó chịu sự tác động của tổng cầu. Tổng cẩu phụ thuộc vào cac yếu tố:

mức chi tiêu cá nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư, mức chi tiêu của
chính phủ và chi tiêu ròng của nước ngoài đối với hàng hóa sản xuất trong nước
( xuất khẩu ròng) trên thị trường và tổng cầu, tức toàn thể số hàng hóa mà người
ta muốn mua. Nhân tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và việc làm.
Theo Keynes, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường
không theo kịp so với tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu
hẹp đầu tư, gây ra nạn thất nghiệp cũng như khủng hoảng kinh tế. Để giải quyết
tình trạng này phải tăng tổng cầu. Tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng
đầu tư. Do đó sẽ gia tăng việc làm và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng
quốc gia cũng được gia tăng.Đồng thời, Keynes cũng đề cao vai trò của Nhà
nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách kich cầu của Chính
phủ. Ông cho rằng để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp cần có sự can thiệp
của Nhà nước vào kinh tế để tăng tổng cầu, gia tăng việc làm và thu nhập. Sự
can thiệp của Nhà nước thông qua các công cụ như chương trình đầu tư Nhà
nước; Chính sách tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ; Mở rộng việc làm
bằng cách mở rộng đầu tư thậm chí cả vào các ngành thuộc lĩnh vực quân sự;
Khuyến khích tiêu dùng cá nhân...Như vậy, có thể nói, chính sách kích cầu bắt
nguồn từ tư tưởng kích cầu rút ra từ hai giả thuyết quan trọng của học thuyết
Keynes:
- Giả thuyết thuyết thứ nhất:
Cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản xuất bị dư thừa.
Biểu hiện của tình trạng này là các yếu tố đầu vào cho sản xuất không được sử
dụng hết công suất: thất nghiệp trên thị trường lao động, máy móc bị bỏ bê trong
khu vực doanh nghiệp, và hàng hóa ế thừa.
- 13 -
Kích cầu đầu tư – Lý thuyết và thực tiễn
Hiện tượng dư cung này khiến cho các nhà sản xuất giảm giá để hy vọng
bán được hang hóa. Điều này làm cho giá cả có khuynh hướng giảm trên tất cả
các thị trường. Lúc này những người tiêu dùng không còn nhu cầu sử dụng thêm
vì họ đã thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của họ nên dù có giảm giá hàng hóa cũng

không khuyến khích người mua, và cầu càng ở dưới xa cung thực tế.
- Giả thuyết thứ hai:
Chính phủ có khả năng chủ động chi tiêu toàn bộ, thậm chí nhiều hơn thu
nhập của mình. Trong khi đó, các khu vực không phải chính phủ (hộ gia đình và
khu vực kinh tế tư nhân) thường chi tiêu ít hơn tổng thu nhập vì họ muốn để
dành (khuynh hướng tiết kiệm biên lớn hơn 0). Trong điều kiện bình thường,
khoản tiết kiệm được chuyển sang khu vực doanh nghiệp để đầu tư (tạo nên
thành phần của tổng cầu), nhưng trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp không
muốn đầu tư thêm nữa vì không có khả năng lợi nhận
Như vậy, qua giả thuyết thứ nhất, Keynes cho rằng nền kinh tế bị suy
thoái vì tạm thời không có đủ cầu cho cung đang dư thừa, tức là thiếu cầu hiệu
- 14 -
Sản lượng
Mức giá
AD
AS
Mức giá
Sản lượng
AD
AS
Y*
Y*

×