Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Đề tài:
LẠM PHÁT- TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008, thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy
thoái 1929-1933. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, thế giới chứng kiển sự sụp
đổ của những định chế tài chính khổng lồ. Lý do sâu xa của nó là sự mất cân bằng quốc tế
của các khu vực kinh tế trụ cột trên thế giới và những vấn đề nội tại của hệ thống ngân
hàng Mỹ và Châu Âu. Cho đến thời điểm này, hàng loạt ngân hàng tên tuổi đã phải tuyên
bố phá sản hoặc nhờ chính phủ cứu trợ. Thị trường tài chính nhiều nước gần như đóng
băng, kéo theo là nền kinh tế thực sự suy thoái.Nạn thất nghiệp tăng đến mức báo động,
nhất là trong tầng lớp dân nghèo ở các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển
Thương mại quốc tế giảm mạnh, sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn chưa có dấu
hiệu ngừng lại, lạm phát xảy ra ở khắp nơi. Mặc dù nhiều nước đã đưa ra những gói kích
cầu lớn, với tổng số tiền công bố toàn cầu xấp xỉ 2000 tỉ USD, những dự báo lạc quan nhất
cũng chỉ hy vọng thế giới sẽ bắt đầu phục hồi vào đầu năm 2010.
Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. 2008 là năm nền kinh tế Việt Nam
phải đối mặt với những vấn đề phức tạp trong nước cũng như những tác động khó lường từ
tình hình thế giới. Đặc biệt là nạn lạm phát tăng cao khiến nền kinh tế nước ta không tránh
khỏi rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, ngân sách Chính phủ thâm hụt, đời sống
người dân gặp nhiều khó khăn.
Chính vì thế, lạm phát hiện nay đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Ổn
định lạm phát là một vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi lẽ lạm phát là một trong những chỉ tiêu
vĩ mô quan trọng đánh giá “tình hình sức khỏe” của một nền kinh tế bên cạnh các chỉ tiêu
tăng trưởng và thất nghiệp.Bên cạnh đó, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động tổng
hợp từ các yếu tố kinh tế khác nhau, và rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu, nên
việc kiềm chế lạm phát thường gặp rất nhiều khó khăn.
Theo báo cáo, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ trong khu vực châu Á vì GDP
của Việt Nam chỉ chiếm xấp xỉ 1% so với toàn khu vực, trừ Nhật Bản. Trong những năm
gần đây, Việt Nam gây ấn tưởng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng liên tục. Mặc dù vậy,
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 1
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của mình.
Đặc biệt, đối với Việt Nam, một nước đi theo con đường kinh tế thị trường chưa lâu, cuộc
khủng hoảng kinh tế lần này có thể làm xói mòn niềm tin vào thị trường, nhất là khi vai trò
của Nhà Nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả ở Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục con đường đang đi. Nên coi cuộc
khủng hoảng lần này như một cơ hội tái cơ cấu lại nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, Việt
Nam cần lựa chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan và bền vững.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 2
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
PHẦN I
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm:
1.1 Định nghĩa:
Trong kinh tế học, lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Trong một
nền kinh tế, điều này đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao
khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu dùng mua được ít hàng hóa hơn, hay phải trả
một giá cao hơn để hưởng cùng một loại dịch vụ. Cần chú ý là sự tăng giá của một vài mặt
hàng cá biệt nào đó trong ngắn hạn ngoài thị trường không có nghĩa là đã xảy ra lạm phát.
Khi so sánh với một nền kinh tế khác thì lạm phát là sự “phá giá tiền tệ” của một
loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. . Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu
là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa
thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu.
Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền lưu hành trong dân chúng tăng
lên do Nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội
chiến, thâm thủng ngân sách…). Trong khi đó, số lượng hàng hóa không tăng thêm khiến
dân chúng cầm trong tay quá nhiều tiền sẽ dẫn đến tranh mua, điều này làm cho giá cả tăng
vọt, có khi còn dẫn đến siêu lạm phát. Những ví dụ điển hình của siêu lạm phát đã xảy ra
tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920, khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3.25 x 106 mỗi
tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ, hoặc tại Hungary sau Thế
chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4.19 x 1016 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ).
Một khái niệm cũng rất hay được đề cập trong kinh tế là tỉ lệ lạm phát cơ bản. Lạm
phát cơ bản chính là lạm phát thể hiện việc thay đổi mức giá mang tính chất lâu dài, loại bỏ
những biến động giá mang tính chất tạm thời trong chỉ số giá tiêu dùng. Lạm phát cơ bản là
một chỉ báo quan trọng đối với xu hướng lạm phát hiện hành và trong tương lai. Chỉ số này
giúp cho các nhà hoạch định chính sách có thể nhận biết được sự biến động giá tiêu dùng
chỉ xảy ra trong thời gian ngắn hạn hay đó là xu thế lâu dài. Vì vậy, lạm phát cơ bản là
thông tin đầu vào quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương.
Phân loại:
Một phương pháp thông thường là phân loại lạm phát dựa trên mức độ:
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 3
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
a. Thiểu phát: trong kinh tế học được hiểu là lạm phát ở tỉ lệ rất thấp.
b. Lạm phát thấp: mức lạm phát tương ứng với mức độ tăng giá từ 3%- 7% một
năm.
c. Lạm phát cao (lạm phát phi mã): mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai
chữ số một năm, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển
đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm
phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung, lạm phát phi mã nếu duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến
dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi
người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu
hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ
mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
d. Siêu lạm phát: là lạm phát “mất kiểm soát” , tình trạng giá cả tăng nhanh chóng
khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ
quát. Một cách hiểu đơn giản là chỉ số lạm phát hằng tháng từ 50% trở lên ( cứ 31 ngày giá
cả tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu
lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế
chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến
70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương
tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên
10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến
mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức
quốc xã và Thế chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ
xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có
xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng
thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng
hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở
một số nước Mỹ La-tinh.
Theo tiêu chuẩn Kế toán quốc tế, có bốn chỉ tiêu để xác định siêu lạm phát:
- Người dân không muốn giữ tài sản của mình dưới dạng tiền.
- Giá cả hàng hóa trong nước không còn được tính bằng nội tệ mà tính bằng một
ngoại tệ ổn định.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 4
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
- Các khoản tín dụng sẽ tính cả khoản mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn.
- Lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỉ lệ lạm phát cộng dồn
trong ba năm lên tới 100%
Tỉ lệ lạm phát của các nước trên thế giới
2. Các chỉ số đo lường lạm phát:
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng
lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu
thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các Liên đoàn lao động và tạp chí kinh doanh cũng
làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một
mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá
cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm
hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo
kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 5
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các nhà kinh tế thường dùng hai
chỉ tiêu để đánh giá mức độ lạm phát của một nền kinh tế: chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ
số giảm phát tổng sản phẩm trong nước GDP deflator.
2.1 Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index):
Chỉ số giá tiêu dùng thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, phản ánh xu hướng
và mức độ biến động giá theo thời gian của các mặt hàng trong “rổ” hàng hóa và dịch vụ
đại diện.
Rổ hàng hóa và dịch vụ đại diện để tính chỉ số giá tiêu dùng là một danh mục gồm
các loại hàng hóa và dịch vụ phổ biến, đại diện cho tiêu dùng của dân cư.
CPI đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi “người tiêu dùng thông thường” một
cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm
hằng năm trong các chỉ số này là tỉ lệ lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép
đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong
muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỉ lệ tăng của CPI. Đôi
khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản
chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tốc độ
chậm hơn so với tỉ lệ lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
CPI nhằm theo dõi mức tăng giảm giá của hàng hóa tiêu dùng, các nhóm hàng quan
trọng nhất có ảnh hưởng đến đời sống cũng như tâm lý của dân chúng.
Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng số cố
định trong tính toán. Mức độ bao phủ của chỉ số này chỉ giới hạn đối với một số hàng hóa
tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hóa cơ bản của
người dân thành thị mua vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ số này gặp phải khi phản
ánh giá cả sinh hoạt là:
Không phản ảnh biến động của giá hàng hóa tư bản.
Không phản ảnh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hóa tiêu dùng cũng như sự thay đổi
trong phân bố chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hóa khác nhau theo thời gian.
2.2 Chỉ số giảm phát GDP ( Gross Domestic Product deflactor):
Chỉ số giảm phát GDP, còn gọi là chỉ số điều chỉnh GDP là chỉ số tính theo phần
trăm phản ánh mức giá chung của tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 6
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
số điều chỉnh GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng
bao nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội. Hay nói
cách khác, nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP
của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh, hay GDP thực.
Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán tỷ lệ lạm phát
trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số này không phản ánh trực tiếp sự biến động trong giá
hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nhược điểm chính của chỉ số
này là không thể hiện được sự thay đổi của chất lượng hàng hóa khi tính toán tỷ lệ lạm phát
và chỉ số không thể hiện được sự biến động giá cả trong từng tháng.
Người ta tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau:
Chỉ số giảm phát GDP = 100 x
GDP danh nghĩa
GDP thực tế
So sánh CPI và chỉ số giảm phát GDP:
- CPI có thể đo lường hằng tháng, không như chỉ số giảm phát GDP có tính tổng
hợp hơn nên chỉ có thể đo lường hằng quý ở mức tin cậy hạn chế và muốn đạt được độ tin
cậy ở mức độ cao thì phải là chỉ số hằng năm vì lúc đó thống kê mới thu thập chỉ số đầy đủ.
- Khác với Chỉ số giá tiêu dùng CPI, DGDP được tính trên giỏ hàng hoá thay đổi do
vậy nó phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau. Mặc dù vậy nó lại
không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu
dùng ít hơn một loại hàng nào đó. Ví dụ: do sau dịch cúm gà, giá gà trở nên quá đắt so với
giá thịt lợn nên người tiêu dùng sẽ mua ít thịt gà hơn và mua nhiều thịt lợn hơn. Phúc lợi
của người tiêu dùng đã giảm xuống do họ phải tiêu dùng thịt gà ít hơn nhưng DGDP không
phản ánh được điều này cho dù nó phản ánh được sự thay thế giữa thịt gà và thịt lợn.
- CPI chỉ phản ánh mức giá của hàng tiêu dùng còn DGDP phản ánh giá của cả hàng
hoá do doanh nghiệp, chính phủ mua. Vì thế DGDP được coi là phản ánh đúng hơn mức
giá chung.
- DGDP chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì GDP chỉ
tính sản phẩm trong nước) còn CPI phản ánh mức giá của cả hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ:
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 7
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
khi giá một chiếc xe ô tô Toyota nhập khẩu tăng thì nó được phản ánh ở CPI nhưng không
được phản ánh ở DGDP.
- CPI không phải là chỉ số áp dụng cho GDP. Nhưng vì tiêu dùng cuối cùng ở nhiều
nước lên tới 50-90% GDP, nên CPI và chỉ số giảm phát cho GDP thường không khác nhau
nhiều, kể cả ở những nước mà tiêu dùng cuối cùng chỉ ở khoảng 50-60%.
Ngoài ra, tùy điều kiện và quy mô nền kinh tế, người ta còn dùng một vài chỉ số sau
đây để đo lường lạm phát:
Chỉ số giá sinh hoạt (CLI): là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân
so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các
nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp
hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI
có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá
cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ
giá cả thế giới nói chung).
Chỉ số giá sản xuất (PPI): đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi
nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình
giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người
tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI
"ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là
khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
Chỉ số giá bán buôn: đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
Chỉ số giá hàng hóa: đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa
chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước
Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho
Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000,
Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản
về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá
nhân".
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 8
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, nhưng xét về bản chất, có thể chia ra làm
bốn nhóm chính: lạm phát do chính sách, lạm phát do cầu, lạm phát do cung, và lạm phát
do quán tính.
3.1 Lạm phát do chính sách:
Thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở rộng, phản ánh thâm hụt thu chi ngân
sách lớn và việc tài trợ thâm hụt bằng tiền tệ, thường là cội rễ của lạm phát cao. Một ví dụ
kinh điển đó là những trận siêu lạm phát ở áo và Đức những năm 20 do mở rộng tiền tệ thái
quá.
3.2 Lạm phát do cầu: (demand-pull inflaction)
Lạm phát do cầu, còn được gọi là lạm phát cầu kéo (demand-pull inflation), xảy ra
khi tổng cầu tăng trong khi tổng cung không đổi hoặc tổng cung tăng chậm hơn tổng cầu.
Có nhiều nguyên nhân làm tăng tổng cầu:
- Do tăng chi tiêu của các hộ gia đình và tăng đầu tư của các doanh nghiệp. Khi đó,
có một lượng tiền lớn được tung ra mua hàng hoá và dịch vụ gây ra sự thừa tiền trong lưu
thông, dẫn đến việc đồng tiền bị mất giá.
- Do tăng cán cân thương mại, khiến cho nước ngoài tăng mua hàng trong nước, còn
người trong nước giảm mua hàng nước ngoài.
- Do Chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế. Nếu chính phủ tăng chi tiêu của mình
dành cho hàng hoá và dịch vụ, lượng tiền mà chính phủ chi mua hàng hoá và dịch vụ sẽ
được đưa trực tiếp vào nền kinh tế, làm tăng tổng cầu. Nếu Chính phủ giảm thuế hoặc tăng
chi chuyển nhượng thì sẽ làm tăng thu nhập khả dụng, từ đó làm tăng tiêu dùng của hộ gia
đình, tức là tăng cầu. Hiện nay, nguyên nhân tăng chi tiêu của Chính phủ là một trong
những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng lạm phát cao.
- Do việc kiểm soát lượng cung tiền của ngân hàng trung ương còn hạn chế. Ngân
hàng trung ương không kiểm soát được lượng cung tiền hợp lí, cung tiền tăng làm tăng lãi
suất, kích thích tăng đầu tư tư nhân làm tăng cầu.
3.3 Lạm phát do cung: (cost-push inflation)
Lạm phát do cung, còn được gọi là lạm phát chi phí đẩy (cost-push inflattion), xảy
ra khi chi phí sản xuất gia tăng hoặc năng lực sản xuất của quốc gia bị giảm sút, trong cả
hai trường hợp đều tạo ra áp lực tăng giá.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 9
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên nhân sau: do gia tăng tiền lương danh
nghĩa, tăng giá nguyên-nhiên-vật liệu,... Do chi phí sản xuất tăng nên doanh nghiệp buộc
phải tăng giá sản phẩm nhằm bảo đảm lợi nhuận, cuối cùng, thị trường cân bằng tại mức
giá cao hơn ban đầu.
Năng lực sản xuất của quốc gia giảm có thể do các nguyên nhân như: giảm sút
nguồn nhân lực, do sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên, do sự biến động chính trị, chiến
tranh, thiên tai,... Do năng lực sản xuất suy giảm nên khả năng đáp ứng nhu cầu giảm, gây
khan hiếm hàng hoá và tăng giá cả.
Cả hai trường hợp nêu trên tuy có cơ chế tác động khác nhau nhưng cùng có một kết
quả sau cùng: nền kinh tế vừa bị lạm phát vừa giảm sản lượng.
3.4 Lạm phát do quán tính: (inertial inflation)
Lạm phát do quán tính (inertial inflation) hay lạm phát dự kiến (expected inflation)
là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này
được đưa vào các hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các loại thoả thuận khác. Và, chính vì
mọi người đều đưa tỷ lệ lạm phát dự kiến này vào mọi hoạt động của mình nên cuối cùng
nó trở thành hiện thực.
Một ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính là khi nền kinh tế bị lạm phát
cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hằng ngày,
họ đem tiền đổi lấy các đồng tiền mạnh khác, vàng hay các loại hàng hoá để tích trữ giá trị,
làm tăng lượng tiền lưu thông trên thị trường, càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.
4. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế:
4.1 Ảnh hướng tích cực:
Lạm phát khó có thể là một điều tốt lành cho nền kinh tế trừ trường hợp ở mức độ
nhẹ và trong tầm kiểm soát của chính phủ. Ví dụ, hàng năm chính phủ có thể phát hành
thêm một lượng tiền mới để tiêu xài cho những chương trình công cộng hoặc giải quyết
thiếu hụt ngân sách khiến đồng tiền được xoay vòng tạo ra thêm của cải, trực tiếp đẩy cao
tổng sản lượng quốc dân GDP (Gross Domestic Product) lên thêm một mức. Dĩ nhiên nếu
quá đà sẽ có nguy cơ gây ra lạm phát nặng hoặc siêu lạm phát và làm các hoạt động kinh tế
sẽ bị tê liệt.
Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền trong giới hạn cho phép của nền
kinh tế là một hình thức thu “thuế lạm phát”. Chính phủ sử dụng khoản phụ trội này để
quân bình ngân sách với hi vọng sang năm kinh tế tiếp tục phát triển sẽ được nộp ngân sách
nhiều hơn.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 10
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Một chút lạm phát cũng khiến doanh nghiệp kiếm thêm lợi nhuận vì thông thường từ
khâu nhập nguyên liệu (giá trước lạm phát) đến lúc hoàn thành sản phẩm bán được cao giá
hơn cũng tốt thêm cho doanh vụ.
Tỉ lệ lạm phát bao nhiêu là vừa phải cũng tùy thuộc vào tình hình phát triển kinh tế
của từng nơi, đặc điểm của nền kinh tế của từng quốc gia khác nhau. Theo lẽ thông thường
thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì là điều tốt. Do đó,
các quốc gia đang ở giai đoạn kinh tế cất cánh (tỉ lệ phát triển xấp xỉ 10%) có thể chấp nhận
một tỉ lệ lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển (tỉ lệ phát triển dưới 5%).
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá
mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu
tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất
đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
4.2 Ảnh hưởng tiêu cực:
4.2.1 Đối với lạm phát có thể dự kiến được:
Trong trường hợp nền kinh tế có khả năng dự báo trước việc xảy ra lạm phát,
các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy nhiên những hậu
quả mà nó đem lại ít nhiều là không thể tránh khỏi.
Chi phí mòn giày: là một giả thuyết của trường phái kinh tế học Keynes mới nhằm
khẳng định rằng giá cả cứng nhắc trong ngắn hạn là do có sự tồn tại của chi phí điều chỉnh
giá cả.
Giả thuyết xuất phát từ thuật ngữ kinh tế “chi phí mòn giày”, mượn hình ảnh khi giá
cả tăng lên, người ta phải đến ngân hàng thường xuyên hơn để rút tiền về tiêu, và việc đi lại
nhiều hơn này làm cho giày chóng bị rách hơn.
Lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa
bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay
làm giảm cầu về tiền. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ này để chỉ những tổn thất phát
sinh do những bất tiện cùng với thời gian tiêu tốn mà người ta hứng chịu so với trước khi
có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát luôn dẫn đến việc giá cả tăng lên. Trong ngắn hạn, có thể
mức giá tăng lên là không lớn nhưng việc sửa lại (in ấn, phân phát lại…) các thực đơn, các
báo giá để phản ánh việc tăng giá cả nhỏ nói trên là không nhỏ. Các doanh nghiệp phải chịu
chi phí lớn hơn lợi ích mà họ thu được nếu tăng giá bán sản phẩm của mình. Vì vậy, các
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 11
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
doanh nghiệp có xu hướng trong ngắn hạn sẽ không thay đổi giá cả. Và vì vậy, họ cũng sẽ
không thay đổi mức tiền công trả cho lao động, cũng không thay đổi số lao động trong
doanh nghiệp của mình.
Thế có nghĩa là, trong ngắn hạn, thị trường hàng hóa có thể xảy ra hiện tượng mất
cân bằng. Tổn thất xã hội và tổn thất cá nhân (doanh nghiệp) sẽ xảy ra, song tổn thất cá
nhân nhỏ hơn tổn thất xã hội. Đây là một loại thất bại thị trường, và vì thế, cần có sự can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế.
Giả thuyết này dựa trên một số giả định quan trọng đó là: (1) Doanh nghiệp phải là
doanh nghiệp giữ khả năng chi phối thị trường, và các doanh nghiệp khác sẽ ngại tăng giá
sản phẩm của mình khi thấy doanh nghiệp chi phối thị trường không tăng giá. (2) Doanh
nghiệp duy lý và dự tính được lạm phát. (3) Mức thay đổi giá trong ngắn hạn là nhỏ và chỉ
sau một thời gian dài, mức thay đổi giá gộp lại mới lớn.
Ảo giác tiền tệ: giả dụ giảm tiền công danh nghĩa đi 2% trong điều kiện vật giá
chung không đổi, thì người lao động sẽ nhận ra ngay. Nhưng nếu tăng tiền công thêm 2%
trong điều kiện mức giá chung tăng tới 4% thì người lao động lại không nhận thấy là tiền
công thực tế của mình bị giảm. Mặt khác, tăng tiền công danh nghĩa với một tỷ lệ bằng tỷ
lệ lạm phát, nghĩa là tiền công thực tế không đổi, thì người lao động sẽ cho rằng thu nhập
của mình tăng lên và có thể tiêu dùng nhiều hơn.
Ảo giác tiền tệ khiến cho quyết định của các chủ thể kinh tế trở nên không chính xác
và hành vi kinh tế của họ bị làm méo mó. Giá cả, do đó, không linh hoạt. Từ đó dẫn đến
nền kinh tế có thể ở trạng thái mất cân bằng và thiếu hiệu quả.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm
phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh
nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của
doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền
kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình
trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của
người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong
trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do
lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh
nghĩa và thu nhập thực tế.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 12
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo
trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá
nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
4.2.2 Đối với lạm phát không thể dự kiến được:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các
cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay
bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu
thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của
nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của
lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể
và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát
biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm
cách chống lại loại lạm phát này.
5. Các giải pháp kiềm chế lạm phát:
Ổn định lạm phát là một hành vi của Chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước điều trị
cho một nền kinh tế khi có lạm phát xảy ra. Muốn bình ổn hiệu quả thì phải tìm ra những
nguyên nhân của lạm phát và từ đó có những giải pháp thích hợp. Khi biết được đích xác
nguồn gốc của lạm phát thì việc chữa trị nó là điều khả thi. . Điều cần lưu ý ở đây là không
có giải pháp nào là hoàn hảo, mọi biện pháp bình ổn lạm phát đều có cái giá phải trả của
nó, không có giải pháp nào là hoàn toàn hoàn chỉnh và lý tưởng cả.
Theo các nhà kinh tế học, có 8 nhóm để kiềm chế lạm phát, đó là:
- Thắt chặt tiền tệ.
- Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết.
- Đẩy mạnh sản xuất.
- Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu.
- Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
- Quản lý thị trường, chống đầu cơ.
- Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội.
- Đồng tâm hiệp lực để ổn định tình hình kinh tế, xã hội.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 13
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
PHẦN II
THỰC TIỄN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
1. Sơ bộ kinh tế Việt Nam từ trước đến nay:
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 14
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
1.1 Bối cảnh chung của nền kinh tế:
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta
liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn 20 năm qua (trong 5 năm 2003-2007
GDP tăng bình quân trên 8%/năm). Đời sống nhân dân được tăng lên, thu nhập GDP bình
quân đầu người từ 402 USD năm 2000 tăng lên 836 USD năm 2007, và hơn 1000 USD
năm 2008, số hộ nghèo giảm dần, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt, nhiều công trình kinh
tế xã hội được hoàn thành, hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới (tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu VN năm 2007 chiếm 156% GDP), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO,.. VN được các nước trên thế giới đánh giá tốt và khen ngợi.
Nhờ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt thời kỳ đổi mới, chất lượng
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó thể hiện ở các
khía cạnh cơ bản sau:
- Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Trước thời kỳ đổi mới, phần lớn dân số
nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu,
với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp và có nhiều người trong diện nghèo đói.
Đường lối đổi mới và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm
cho người lao động, dẫn đến nâng cao thu nhập cho người dân. Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân đầu người ở Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu
nhập bình quân đầu người năm 2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với
năm 1995, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8
lần.
- Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh,
mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 18,1%
(tính theo chuẩn nghèo quốc tế) và được thế giới đánh giá là thành công trong việc chống
nghèo đói.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng lên đáng kể. Nhờ chú trọng
giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, hạn chế tỷ lệ sinh, nên chỉ số phát triển con người
của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Năm 2006, HDI của Việt Nam đạt 0,709, cao hơn
nhiều nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
- Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện. Đến nay ở
Việt Nam có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có đường trải nhựa, 98,9% xã có trường tiểu
học và 99% các xã có trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã đạt được hoặc vượt mức như tỷ lệ
chết ở trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25%, tỷ
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 15
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi thọ của người dân (năm 2006) đạt
71,3 tuổi. Phần lớn người dân Việt Nam đã có những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt hằng
ngày như điện, nước sạch, ti vi... Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy, ô-tô và sử
dụng các phương tiện sinh hoạt cao cấp như điện thoại di động, máy tính cá nhân,... ngày
càng có xu hướng tăng nhanh.
- Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu năm 1990,
ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP, thì đến năm 2006 giảm còn 20,4%.
Trong khi đó, các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, tăng
tương ứng từ 22,7% lên 41,5%. Ngành dịch vụ duy trì khá ổn định ở mức khoảng 38%. Xét
trong từng nhóm ngành, cơ cấu ngành kinh tế cũng có sự thay đổi tích cực. Trong nhóm
ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm,
nhường chỗ cho ngành thủy sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành dịch vụ cũng thay đổi
theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, du lịch,...
- Năng suất lao động ngày càng tăng. Những ngành có năng suất lao động tăng cao
nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%/năm), ngành điện, khí đốt, nước (tăng
11,1%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh và
quản lý. Hệ số vốn đầu tư phát triển so với tốc độ tăng GDP đã giảm, chứng tỏ hiệu quả
đầu tư đã tăng lên, mặc dù vẫn còn cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như
Trung Quốc, ấn Độ do chi phí lớn. Xét chung lại, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt
Nam thời kỳ 2001 - 2005 đạt bình quân 4,81%/năm(1).
- Thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành. Sự chuyển đổi thể chế kinh
tế hiện chủ yếu là dựa vào thị trường, để cho giá cả tự điều tiết, tôn trọng quan hệ cung cầu,
khuyến khích kinh tế tư nhân, hình thành hàng loạt các thị trường,... Việt Nam đã có Luật
Đầu tư nước ngoài từ năm 1987, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (năm 1991).
Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã bảo đảm sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo
đó là hàng loạt đạo luật quan trọng để vận hành nền kinh tế thị trường đã ra đời như Luật
Đất đai, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật Môi trường, Luật Lao động và hàng trăm pháp lệnh,
nghị định khác của Chính phủ nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật và thực hiện các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 16
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Cùng với việc hình thành khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường, các thể chế
thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào
các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính ngân hàng, hình
thành những thị trường cơ bản như: thị trường tiền tệ, lao động, hàng hóa, đất đai, khoa học
và công nghệ,... Cải cách hành chính được đẩy mạnh. Chiến lược cải cách hành chính giai
đoạn 2001 - 2010 chính là một quyết tâm lớn của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn
mạnh đến việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra
sự năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Thế nhưng, về thực chất, từ năm 2007 kinh tế Việt Nam vẫn phát triển trong điều
kiện khó khăn nhiều hơn thuận lợi.
Về khó khăn: Thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tai nạn do sự cố sập cầu
dẫn cầu Cần Thơ và sự biến động bất lợi của thị trường, giá cả thế giới kéo dài, gây hậu
quả nghiêm trọng là những yếu tố không thuận lợi đối với nền kinh tế nước ta trong năm
2007. Thiên tai đặc biệt nghiêm trọng, trên diện rộng và kéo dài trong cả năm đã gây thiệt
hại nặng nề cho nền kinh tế. Đầu năm hạn hán gay gắt ở miền Bắc và miền Trung, giữa và
cuối năm bão, mưa đá, lốc xoáy, lũ quét đã tàn phá nhiều tỉnh miền Trung. Dịch bệnh gia
súc như: dịch lợn tai xanh, dịch lở mồm long móng gia súc lan rộng, dịch cúm gia cầm tái
phát tại nhiều địa phương, ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng ngành chăn nuôi cả nước.
Đặc biệt nguy hiểm là dịch tiêu chảy cấp, nhiễm khuẩn tả phát sinh, kéo dài hàng tháng đã
gây hậu quả nghiêm trọng đến nhiều ngành sản xuất công nghiệp, ngành nghề, thủy sản,
kinh doanh dịch vụ ăn uống công cộng, du lịch trên địa bàn cả nước.
Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp gây nhiều yếu tố bất lợi cho nền kinh tế
Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải,
vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng
cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy
sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm cho giá cả tiêu
dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng.
Tai nạn về sự cố sập cầu dẫn trên công trường xây dựng cầu Cần Thơ, cuối năm là
lở núi trên công trường thủy điện Bản Vẽ (Nghệ An) là những biến cố đột xuất, gây thiệt
hại lớn về người, tài sản, vốn và đã để lại hậu quả nặng nề không chỉ cho ngành xây dựng,
giao thông - vận tải mà còn tác động đến nhiều ngành và lĩnh vực khác.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 17
Đề án môn học GVHD: Phùng Nam Phương
Năm 2007, tốc độ tăng GDP của Việt nam là 8,44% đứng thứ 3 châu Á (sau Trung
Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9%
Các điểm yếu của nền kinh tế vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng yếu
kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm 2007... không đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao. Do vậy khả năng phòng
chống thiên tai, dịch bệnh hạn chế, thiệt hại gây ra rất nặng nề, hậu quả để lại là rất nghiêm
trọng và lâu dài.
Về thuận lợi: Trong quá trình tổng kết 20 năm đổi mới, các ngành và địa phương
trong cả nước đã đánh giá toàn diện và sâu sắc những thành quả đạt được cũng như những
hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý. Thành quả
nổi bật của những năm qua là duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/
năm trong 5 năm 2001 - 2005 và 8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so
với các năm trước. Đó là những tiền đề vật chất rất quan trọng, là yếu tố thuận lợi cơ bản
để các ngành, các cấp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và
thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản
thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan
hệ ngoại giao, các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được
củng cố và tăng cường thông qua các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước
cùng với sự tham gia của các nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc
phòng bảo đảm, đã tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như
các doanh nghiệp trong nước.
Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo hướng
cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả các mặt hàng này
tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Bộ máy lãnh đạo các ngành, các cấp được hoàn thiện sau Đại hội Đảng X, Quốc hội
khóa XII. Nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp kinh tế, tài chính được ban hành, bổ
sung, hoàn thiện. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và
quản lý nhiều bộ ngành, địa phương được tăng cường cả số lượng và chất lượng, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ... tạo điều kiện giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, mở rộng quan hệ
hợp tác với nước ngoài.
SVTH: Trần Thị Phương Trâm – Lớp 33K01.1 18