Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.79 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc
gia là rất phong phú và đa dạng, bao gồm: thương mại, đầu tư, du lich, văn
hóa, quân sự, chính trị,… Những mối quan hệ này tạo nên nguồn thu, chi
ngoại tệ cho một quốc gia và được phản ánh chặt chẽ trên cán cân thanh toán.
Trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc theo dõi các luồng ngoại tệ ra
vào là hết sức quan trọng để có được những chính sách đúng đắn, hiệu quả
cho nền kinh tế, điều này khiến cho vai trò của cán cân thanh toán trở nên hết
sức quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế phát triển quá nóng và
đang gặp nhiều khó khăn, môi trường kinh tế quốc tế diễn biến tiêu cực, cán
cân thanh toán phản ánh những diễn biến xấu của nền kinh tế. Thâm hụt trong
tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán Việt Nam được đánh giá là một
trong 3 ngòi nổ của khủng hoảng kinh tế. Vậy, thực chất cán cân thanh toán là
gì, vai trò và sức ảnh hưởng của nó đến đâu trong nền kinh tế thời kỳ hội nhập
hiện nay. Với đề tài tìm hiểu về cán cân thanh toán quốc tế và tình hình cán
cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam, đề án này sẽ làm rõ một số vấn đề về cán
cân thanh toán và thực tế diễn biến ở Việt Nam, cũng như chỉ ra những nguy
cơ tiểm ần trong cán cân thanh toán của Việt Nam trong thời gian gần đây.
1
I. Lý thuyết chung về cán cân thanh toán
1. Khái niệm chung
1.1. Khái niệm
Cán cân thanh toán là một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống,
ghi chép lại giá trị tất cả các giao dịch kinh tế giữa những người cư trú và
những người không cư trú trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Có 2 loại cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán thời kỳ và cán cân
thanh toán thời điểm.
Cán cân thanh toán trong một thời kỳ là bản đối chiếu giữa những khoản
tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó
chi ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Vậy, loại cán cân này chỉ
phản ánh số liệu thực thu và thực chi của một nước đối với nước ngoài trong


thời kỳ đã qua.
Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bản đối chiếu giữa các
khoản tiền đã và sẽ thu về và chi ra ở một thời điểm cụ thể nào đó. Vậy, trong
loại cán cân thanh toán này chứa đựng cả những số liệu phản ánh các khoản
tiền nợ nước ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng
vào ngày của cán cân.
1.2. Ý nghĩa của cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán là một công cụ quan trọng của chính sách vĩ mô.
Trước hết, cán cân thanh toán phản ánh kết quả hoạt động trao đổi đối
ngoại giữa một quốc gia với một quốc gia khác. Với các cán cân bộ phận , cán
cân thanh toán cho thấy những số liệu cụ thể về tình hình thương mại quốc tế,
chuyển giao vốn trong một thời kỳ hoặc thời điểm nhất định. Những số liệu
này rất quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế
của một quốc gia cùng với các chỉ tiêu khác như GDP, lạm phát, tỷ lệ thất
nghiệp,…
2
Cán cân thanh toán giúp đánh giá, nhìn nhận hoạt động kinh tế nào mang
tính chủ đạo, có lợi cho nền kinh tế, giúp định hướng SXKD và điều hành
chính sách. Nhìn vào cán cân thanh toán, các nhà hoạch định chính sách, các
nhà kinh tế có thể thấy được bộ phận nào thường có xuất khẩu ròng, bộ phận
nào đem lại thu nhập cao cho nền kinh tế…
Cán cân thanh toán là một cơ sở quan trọng để đánh giá phân tích những
nguy cơ tiềm ẩn của khủng hoảng kinh tế và những xu hướng tới của tỷ giá.
Cán cân thanh toán và các cán cân bộ phận của nó phản ánh đầy đủ toàn bộ
các luồng ngoại tệ ra vào nền kinh tế trong một thời gian nhất định, cũng như
những tác động của NHTW vào thị trường ngoại hối.
Cán cân thanh toán do đó, là công cụ dự báo kinh tế, giúp các nhà kinh tế
điều hành đưa ra những chính sách phù hợp trong thời gian tiếp theo.
1.3. Trạng thái thặng dư và thâm hụt của cán cân
Trước hết, cán cân thanh toán được lập theo nguyên tắc hạch toán kép,

trong đó tổng các bút toán ghi có đúng bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng
có dấu ngược nhau. Do đó, chênh lệch giữa tổng các bút toán ghi có và tổng
các bút toán ghi nợ luôn bằng không. Điều này có nghĩa là về tổng thể thì cán
cân thanh toán luôn trong trạng thái cân bằng.
Do đó, khi nói đến cán cân thanh toán là thặng dư hay thâm hụt, người ta
muốn nói đến trạng thái thặng dư hay thâm hụt của một hay một nhóm các bộ
phận nhất định trong cán cân thanh toán. Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay
thâm hụt cán cân bộ phận là chênh lệch giữa tổng các bút toán ghi có và tổng
các bút toán ghi nợ trên từng cán cân bộ phận.
2. Nội dung của cán cân thanh toán
2.1. Cán cân vãng lai
2.1.1. Cán cân thương mại
3
Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân hữu hình, bởi nó phản ánh
chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và các khoản chi cho nhập khẩu
hàng hóa, trong đó những hàng hóa này có thể quan sát thấy bằng mắt thường
khi di chuyển. Cán cân thương mại phản ánh chênh lệch thu chi về xuất nhập
khẩu hàng hóa hữu hình trong một thời gian nhất định.
Xuất khẩu làm phát sinh các khoản thu nên được ghi có trong cán cân
thương mại, còn nhập khẩu làm phát sinh các khoản chi nên được ghi nợ
trong cán cân thương mại. Khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập
khẩu hàng hóa, tức là khi này nền kinh tế có xuất khẩu ròng dương, thì cán
cân thương mại thặng dư. Ngược lại, khi thu nhập từ xuất khẩu thấp hơn thu
nhập dùng cho nhập khẩu hàng hóa, tức là nền kinh tế xuất khẩu ròng âm thì
cán cân thương mại ở trạng thái thâm hụt.
Với nội dung của cán cân thương mại, có thể thấy cán cân thương mại
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố tác động lên xuất nhập khẩu hàng hóa
của một quốc gia. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến thương mại và trạng
thái của cán cân thương mại là tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ,
thu nhập của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài, giá cả tương đối giữa

hàng trong nước và hàng nước ngoài, thị hiếu của người tiêu dùng và các
chính sách của chính phủ đối với thương mại.
Về nhân tố tỷ giá, khi các yếu tố khác không thay đổi, khi tỷ giá tăng sẽ
tác động làm tăng giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ. Khi tỷ giá tăng, đồng
ngoại tệ có giá hơn và giá trị của đồng nội tệ giảm. Điều đó có nghĩa là khi
đó, giá cả hàng hóa xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, từ đó kích thích tiêu
dùng hàng xuất khẩu tại nước ngoài. Trong khi đó, đồng nội tệ giảm giá khiến
cho việc tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, khiến cho nhu cầu
tiêu thụ hàng nhập khẩu giảm. Với hướng tác động là tăng xuất khẩu và giảm
nhập khẩu, tỷ giá tăng sẽ tác động giúp cho xuất khẩu ròng tăng, tức là tăng
nguồn thu ngoại tệ của quốc gia.
4
Thu nhập của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài có ảnh hưởng
đến xuất nhập khẩu hàng hóa và do đó ảnh hưởng đến trạng thái của cán cân
thương mại. Thu nhập ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho hàng hóa, ảnh
hưởng đến sức cầu hàng nhập khẩu và xuất khẩu. Khi người cư trú có thu
nhập cao, nhu cầu chi tiêu cho hàng hóa tăng và do đó, nhu cầu đối với hàng
hóa nói chung và cả hàng nhập khẩu cũng tăng, dẫn đến nhu cầu ngoại tệ cao
hơn. Với thị hiếu người tiêu dùng cũng như vậy, khi người tiêu dùng trong
nước ưa thích hàng hóa nước ngoài thì nhập khẩu sẽ tăng, còn khi hàng hóa
xuất ra nước ngoài được ưa thích thì xuất khẩu của nước đó sẽ tăng mạnh,
đem lại nguồn thu dồi dào cho dự trữ quốc gia. Những biến đổi trong nhu cầu
của người tiêu dùng đối với hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều có tác động
mạnh mẽ và trực tiếp tới cân bằng thương mại và cán cân thương mại của một
quốc gia.
Đối với yếu tố lạm phát, về cơ bản, với các nhân tố khác không đổi, tỷ lệ
lạm phát của một nước cao hơn so với nước ngoài sẽ khiến cho đồng tiền
nước đó giảm giá trị, hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt tương đối, do đó hạn chế
tiêu dùng hàng xuất khẩu và khối lượng hàng xuất khẩu giảm. Như vậy, lạm
phát tăng khiến giá hàng hóa tăng, nhưng khối lượng hàng hóa giảm do vậy

không thể chắc chắn giá trị hàng hóa xuất khẩu là tăng hay giảm. Tóm lại, ảnh
hưởng của nhân tố lạm phát lên giá trị xuất khẩu là không rõ ràng.
Chính sách của chính phủ đối với thương mại như chính sách khuyến
khích xuất khẩu, hay hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan, hạn ngạch và các
công cụ khác có thể ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị xuất nhập khẩu. Đây là
một yếu tố có tác động mạnh đến cán cân thương mại và có tác động tức thời,
tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc áp dụng những chính
sách này có thể gây ra những thiệt hại do sự trừng phạt của các quốc gia bạn
hàng.
5
Cán cân thương mại sẽ được cải thiện khi mà các tác động ròng của các
yếu tố tác động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu là dương, và trở nên xấu đi
khi tác động ròng của các nhân tố lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu là âm.
2.1.2. Cán cân dịch vụ
Cán cân dịch vụ bao gồm các khoản thu chi từ các hoạt động dịch vụ về
vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thong, hàng không, ngân hàng,
thông tin, xây dựng và từ các hoạt động dịch vụ khác giữa người cư trú với
người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu dịch
vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi vào bên có và có dấu (+); nhập
khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ và có dấu ().
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như
các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, do dịch vụ có thể
được coi như loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa vô hình.
1.1.3. Cán cân thu nhập
Cán cân thu nhập bao gồm thu nhập của người lao động và thu nhập từ
đầu tư.
Thu nhập của người lao động là các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền
thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú
trả cho người cư trú và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của
người lao động bao gồm số lượng và chất lượng, tức mức lương của những

người lao động ở nước ngoài.
Thu nhập về đầu tư là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ
đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay
giữa người cư trú và người không cư trú.
Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm tăng
ngoại tệ nên được ghi vào bên có và có dấu (+), còn các khoản thu nhập trả
cho người không cư trú làm phát sinh cầu về ngoại tệ nên được ghi vào bên
6
nơ, với dấu (-). Những nhân tố chính làm ảnh hưởng đến giá trị thu nhập về
đầu tư là số lượng đầu tư và tỷ lệ sinh lời của các dự án đã đầu tư trước đây.
2.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
Cán cân chuyển giao vốn một chiều bao gồm các khoản viện trợ không
hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao bằng tiền, hiện vật cho
mục đích tiêu dùng của người không cư trú chuyển cho người cư trú và ngược
lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu
nhập giữa người cư trú và người không cư trú. Các khoản phát sinh làm tăng
cung ngoại tệ được ghi vào bên có, mang dấu (+) và các khoản chuyển giao
làm phát sinh cầu ngoại tệ được ghi vào bên nợ, mang dấu (-). Nhân tố chính
ảnh hưởng lên cán cân chuyển giao vãng lai một chiều là mối quan hệ giữa
người cư trú và người không cư trú.
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển
giao vãng lai một chiều không thể quan sát bằng mắt thường, nên được gọi là
cán cân vô hình. Với cán cân thương mại, như đã nói trên được gọi là cán cân
hữu hình, cán cân vãng lai có thể được biểu diễn:
Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình + cán cân vô hình.
2.2. Cán cân vốn
Cán cân vốn phản ánh di chuyển vốn vào và ra đối với một quốc gia.
Trong đó, nguồn vốn chảy vào phản ánh làm giảm tài sản có hoặc tăng tài sản
nợ của người cư trú với người không cư trú. Những luồng vốn chảy vào làm
phát sinh cung ngoại tệ trên thị trường, do đó được phản ánh ghi có và mang

dấu (+). Bên cạnh đó, luồng vốn chảy ra phản ánh làm tăng tài sản có hoặc
làm giảm tài sản nợ của người cư trú đối với người không cư trú. Các luồng
vốn chảy ra làm tăng nhu cầu về ngoại tệ, do đó được phản ánh ghi nợ và
mang dấu (-). Có thể coi việc luân chuyển vốn như là việc người cư trú nhập
khẩu hoặc xuất khẩu các khoản đầu tư này.
7
Cán cân vốn bao gồm cán cân vốn dài hạn, cán cân vốn ngắn hạn và
hạng mục chuyển giao vốn một chiều.
Đối với vốn dài hạn, có thể chia thành vốn đầu tư của khu vực tư nhân
và khu vực nhà nước, hay chia thành vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp và các
luồng vốn dài hạn khác. Tiêu chí để phân chia luồng vốn dài hạn vào danh
mục đầu tư trực tiếp hay gián tiếp là mức độ kiểm soát của công ty nước
ngoài. Về mặt lý thuyết, hiện nay nếu mức độ kiểm soát của công ty nước
ngoài đối với nguồn vốn là 51% trở lên thì được coi là đầu tư trực tiếp. Tuy
nhiên, trong thực tế hầu hết các quốc gia coi các khoản đầu tư nước ngoài
chiếm 30% vốn cổ phần trở lên là đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp bao gồm
các khoản đầu tư mua trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ và đầu tư cổ
phiếu nhưng chưa đạt đến mức độ để kiểm soát công ty.
Cán cân vốn ngắn hạn có thể được phân chia theo nhiều hạng mục phong
phú và chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, mua bán
các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, kinh
doanh ngoại hối…Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, các nguồn vốn có
thể tự do tru chuyển trong thời gian ngắn và chi phí thấp. Điều này khiến cho
cán cân vốn ngắn hạn trở nên có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán
nói chung của một quốc gia. Một nguyên nhân chính khiến cho các luồng vốn
ngắn hạn tăng lên nhanh chóng là xu hướng thả nổi tỷ giá sau năm 1973, cũng
như chính sách kinh tế tài chính thị trường tự do cùng xu thế toàn cầu hóa
hiện nay.
Chuyển giao vốn một chiều là hạng mục bao gồm các khoản viện trợ
không hoàn lại cho các mục đích đầu tư và các khoản nợ được xóa.

2.3. Lỗi và sai sót
Như đã trình bày, do áp dụng nguyên tắc hạch toán kép nên cán cân
thanh toán luôn được cân bằng. Số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính
8
là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán
cân vốn.
Hạng mục nhầm lẫn và sai sót thống kế bao gồm các giao dịch kinh tế
thực tế đã xảy ra nhưng không được ghi chép hoặc ghi chép có nhầm lẫn,
không được chính xác.
2.4. Cán cân tổng thể
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối, thì cán cân tổng thể
bằng tổng cán cân vãng lai và cán cân vốn. Tuy nhiên, trong thực tế có rất
nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu thập số liệu và lập cán
cân thanh toán, do đó thường phát sinh nhầm lẫn và sai sót.
Do đó, cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng
lai, cán cân vốn và hạng mục nhầm lẫn sai sót trong thống kê.
Cán cân tổng thể= Cán cân vãng lai+ cán cân vốn+ Nhầm lẫn và sai sót
2.5. Cán cân bù đắp chính thức
Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các hạng mục:
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia
- Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của
quốc gia lập cán cân.
Theo quy tắc, cán cân thanh toán được lập trên cơ sở vị thế của nền kinh
tế, tức là không tính đến những hoạt động của ngân hàng trung ương(NHTW).
Tuy nhiên, với vai trò điều tiết nền kinh tế của mình, ngân hàng trung ương
cần ra tay tác động vào cán cân nhằm đạt được một số mục tiêu nhất định như
kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá…Những can thiệp này sẽ được ghi lại trong
mục bù đắp chính thức, với vai trò của ngân hàng trung ương giống như
người không cư trú do ngân hàng trung ương không được tính là một phần

9
của nền kinh tế. Khi NHTW can thiệp bán ra ngoại tệ, làm cho dự trữ ngoại
hối giảm, đồng thời làm tăng cung ngoại hối cho nền kinh tế nên được ghi co
(+). Ngược lại, khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào, làm cho dự trữ ngoại
hối tăng, đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với nền kinh tế ta ghi nợ (-).
Khi cán cân tổng thể thặng dư, cán cân bù đắp chính thức là âm. Điều
này là vì NHTW đã tiến hành mua ngoại tệ vàom nghĩa là tăng cầu ngoại tệ
đối với nền kinh tế, đồng thời làm dự trữ ngoại hối tăng. Còn khi cán cân tổng
thể thâm hụt, cán cân bù đắp chính thức là dương do khi này, NHTW sẽ bán
ra ngoại tệ, tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế đồng thời giảm dự trữ ngoại
hối.
3. Ý nghĩa của một số cán cân chủ yếu
3.1.Cán cân thương mại
Chệnh lệch cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và
giá trị nhập khẩu về hàng hóa. Là bộ phận chính của cán cân vãng lai, nó phản
ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai, từ đó làm cơ sở cho
việc dự báo và đánh giá nền kinh tế.
Trạng thái thâm hụt hay thặng dư của cán cân thương mại có thể được
dùng để đánh giá tình hình thương mại quốc tế cũng như trình độ cạnh tranh
của hàng hóa trong nước và hàng xuất khẩu của một quốc gia. Với các nước
đang phát triển, tình trạng nhập siêu là phổ biến do tính cạnh tranh của hàng
hóa chưa cao.
3.2. Cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm cả cán cân vô hình và cán cân hữu hình, nên
nhìn tổng thể thì nó có ý nghĩa quan trọng hơn cán cân thương mại.
Nếu cán cân thặng dư, điều đó có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ
người không cư trú là lớn hơn so với khoản chi bỏ ra cho người không cư trú.
Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú
10
phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên. Ngược lại, nếu thâm hụt có

nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với
chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của giấy tờ có
giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người không cư trú giảm
xuống.
Trạng thái của cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu
trong phân tích vĩ mô đối với một nền kinh tế. Trạng thái của cán cân vãng lai
có khả năng ảnh hưởng nhanh chóng và trực tiếp đến các chỉ tiêu quan trọng
của nền kinh tế như tỷ giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Những biến động
của cán cân vãng lai phản ánh những diễn biến trong thương mại quốc tế, về
tính cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu. Trạng thái của cán cân
vãng lai phản ánh một phần lớn nguồn cung cầu ngoại tệ trong ngắn hạn và
mức độ phát triển, canh tranh của nền kinh tế. Do đó, nó có thể ảnh hưởng
nhanh chóng đến tỷ giá và các chỉ tiêu khác của nền kinh tế.
Cán cân vãng lai là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách đưa ra các
chính sách xuất nhập khẩu trong một thời gian cho nền kinh tế như chính sách
xuất nhập khẩu như thuế quan, hạn ngạch, hàng rào bảo hộ hay khuyến khích
xuất khẩu… nhằm tác động vào thương mại quốc tế để đạt được mục đích
trong từng thời kỳ.
Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái của cán cân vãng lai là
lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia. Trạng thái
cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái nợ tổng nước ngoài của
một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng cho thấy tổng nợ quốc gia là không
thay đổi. Cán cân thặng dự phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần
còn lại của thế giới được tăng lên, ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản
ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên.
11
3.3. Cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể có ý nghĩa quan trọng, bởi nó cho biết số tiền mà một
quốc gia phải trả hay có thể sử dụng trong mua bán ngoại hối dự trữ. Phần
thâm hụt của cán cân tổng thể chính là phần mà NHTW phải bù đắp bằng

cách bán ra ngoại hối, làm giảm dự trữ và ngược lại, NHTW mua vào ngoại
hối tăng dự trữ khi cán cân tổng thể thặng dư. Nếu một quốc gia có thâm hụt
cán cân tổng thể kéo dài, thì chính phủ có thể sẽ không đủ sức tài trợ cho
những mất mát và gây ra trạng thái bất ổn trong nền kinh tế.
Trạng thái của cán cân tổng thể là căn cứ quan trọng đối với các nước có
chế độ tỷ giá cố định, bởi NHTW phải dựa vào trạng thái của cán cân tổng thể
mà đánh giá cung cầu ngoại tệ, từ đó đánh giá các áp lực dẫn đến phải nâng
giá hay phá giá đồng nội tệ. Trong hệ thống tỷ giá cố định, một quốc gia có
thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để
tránh phá giá, NHTW phải bán ngoại tệ để tăng sức cầu nội tệ.
Tuy nhiên, khi phân tích cán cân tổng thể cũng cần đánh giá toàn diện
trạng thái của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Nhiều trường hợp, thâm hụt
cán cân tổng thể chưa hẳn là nguy hiểm cho nền kinh tế, nếu như chính phủ
đang thi hành chính sách tăng cường đầu tư ra nước ngoài. Như vậy, mặc dù
trong ngắn hạn, cán cân tổng thể bị thâm hụt, ngoại tệ chảy ra nước ngoài
nhưng sự thâm hụt này lại hứa hẹn những nguồn thu ổn định trong tương lai.
Hoặc khi cán cân tổng thể cân bằng hoặc có thặng dư, nhưng trong đó những
thâm hụt của cán cân thương mại hay cán cân vãng lai được bù đắp bằng
nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ngắn hạn thì phải nhận thức được nền kinh
tế có những nguy cơ tiềm tàng, sức cạnh tranh của thương mại trong nước
kém hay nguy cơ khi nguồn vốn ngắn hạn tháo chạy sẽ gây náo loạn trong
nền kinh tế…
12

×