Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phong cách thơ nguyễn duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.17 KB, 19 trang )

Phong cách thơ Nguyễn Duy
3.2.3. Phương thức trùng điệp
Với phương thức trùng điệp sử dụng tất cả các cấp độ: điệp phụ âm đầu, điệp
phần vần, điệp từ, điệp ngữ, điệp câu, Nguyễn Duy cũng tạo nên những kết hợp từ rất
độc đáo mà biểu hiện rõ nhất là ở hệ thống từ láy được sử dụng trong thơ ông. Chỉ cần
làm phép thống kê số lượng từ láy trong tập thơ Anh trăng và những tập thơ của những
nhà thơ cùng thời như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Lê Anh Xuân, ta sẽ thấy rõ ông
có khuynh hướng dùng từ láy nhiều hơn các nhà thơ khác:
Bảng 3.2: BẢNG THỐNG KÊ SO SÁNH TỈ LỆ TỪ LÁY
tt

Tên tác giả

Tên tập thơ

1

Thanh
Thảo

2

Phạm Tiến
Duật
Lê Anh
Xuân

Dấu chân
qua trảng
cỏ
Ở hai đầu


núi
Hoa dừa

T. số
bài
41

Số từ
láy
134

Tỉ lệ từ láy/
bài
3,26 từ /
bài

34

113

3,32 từ /
bài
4,52 từ /
bài

Ghi chú
Nxb Tác phẩm
mới, 1978

Nxb Tác phẩm

mới, 1981
3
36
163
Nxb Văn nghệ
giải phóng,
1975
4
Nguyễn
Anh trăng
30
163
5,43 từ /
Nxb Tác phẩm
Duy
bài
mới, 1984
Nếu quan niệm như Nguyễn Phan Cảnh: ``Từ láy là tài sản có giá trị nhất của
ngôn ngữ nghệ thuật`` [10, tr.82] thì riêng mật độ từ láy trong thơ Nguyễn Duy cũng
đã chứng tỏ được tài sử dụng ngôn ngữ của ông. Khi sử dụng từ láy, cũng như các nhà
thơ khác, Nguyễn Duy đã khai thác triệt để tính chất tượng hình và tượng thanh của
loại từ này để thể hiện thái độ, cảm xúc của mình. Nhìn vào hệ thống từ láy ông sử
dụng trong các tập thơ, ta thấy có những từ rất quen thuộc, phần nào đã bị ``mòn`` về
nghĩa như: rập rờn, rung rinh, ngỡ ngàng, thì thầm, nghiêng nghiêng...Nhưng cũng có
những từ khá mới lạ như: thập thững, nhỏng nhảnh, lênh phênh, lõng thõng, ngấp nga
ngấp ngoáng, xất bất xang bang...Nếu từ ``thập thững`` trong câu thơ: ``Quán cháo,
đồng Giao thập thững những đêm hàn`` (Đò Lèn) không chỉ diễn tả được những bước
chân run rẩy, tất bật mà còn như mô phỏng sự hụt hơi của người bà tuổi già sức yếu
phải vất vả trong cuộc mưu sinh thì từ ``nhỏng nhảnh`` trong câu thơ: ``Em nhỏng
nhảnh đi qua thời ảo ảnh (Gửi lại trường Lômônôxốp) lại như thâu tóm được tất cả sự

đỏng đảnh, nhí nhảnh, vô tư hồn nhiên của cô gái trẻ. Nếu từ ``lênh phênh`` (Chiều
mận Hậu) diễn tả thật tài tình sự bềnh bồng, mỏng manh của cầu Thăng Long trên

1


sông Hồng đang cuồn cuộn trong mùa nước lũ thì từ ``lõng thõng`` (Vợ ốm) lại ghi
được trọn vẹn cảm giác hốt hoảng đến rụng rời cả tay chân của nhà thơ khi nghe tin vợ
ốm. Nếu ``ngấp nga ngấp ngoáng`` (Gặp ma) thể hiện sự bàng hoàng không kìm được
tiếng kêu khi nhà thơ tưởng bóng mình trên tường là ma thì ``xất bất xang bang`` (Vợ
ốm) lại gợi lên rất rõ hình ảnh nhà thơ đang tất bật ngược xuôi, xơ xác, tơi tả vì phải
thay vợ gánh cả ``việc thiên việc địa việc nhà``...
Không chỉ dừng lại ở việc khéo léo tạo nên những từ láy mới lạ, Nguyễn Duy
còn sử dụng phối hợp phép trùng điệp ở nhiều cấp độ. Tiêu biểu cho đặc điểm độc đáo
này là dòng thơ: ``Muối lung linh cùng nắng lung linh trắng lấp cái nhìn`` (Muối
trắng). Cả dòng thơ gồm mười một chữ, nhưng từ láy ``lung linh`` được sử dụng hai
lần, phụ âm ``L`` được lặp lại năm lần, khi đọc lên, sự trùng điệp ấy như lần lượt hắt
lên cái lấp lánh của muối dưới ánh mặt trời, giúp người đọc chợt nhận ra nét duyên
thầm của muối. Hoặc trong hai dòng thơ sau chỉ gồm mười bốn chữ, nhưng cũng sử
dụng đến ba từ láy: ``ngượng ngùng``, ``ngơ ngẩn``, ``hây hây``, ngoài ra phụ âm
``ng``, ``h`` được lặp lại ba lần và nguyên âm ``o``, ``a`` có thể xếp cùng vào một
khuôn vần: ``Vở che ngực nhú ngượng ngùng / Ta ngơ ngẩn ngó má hồng hây hây``
(Ao trắng má hồng). Tất cả những sự trùng điệp đó biến câu thơ thành một dòng âm
thanh kết dính nhau không chỉ phá vỡ nhịp điệu hài hoà vốn có của thể thơ lục bát mà
như còn lưu giữ nguyên vẹn sự ngượng ngập nhưng cũng đầy háo hức, rạo rực của
chàng trai mới lớn khi phát hiện ra bí mật của bạn gái mình.
Nếu những tổ hợp từ trùng điệp như ``lửa lựu lập loè``, ``lóng lánh ánh trăng
loe`` thật hiếm hoi trong thơ Nguyễn Du, Nguyến Khuyến và rất nhiều nhà thơ khác
thì chúng lại xuất hiện với tần số khá cao trong thơ Nguyễn Duy. Ngoài hai hiện tượng
tiêu biểu trên, có thể tìm thấy trong thơ ông rất nhiều những kết hợp độc đáo như vậy:

``Ngắn ngun ngủn ngày người / Gió chi mà gió thế`` (Trở gió), ``Cái thời loang lổ
đang trôi / Thôi thì thong thả tới thời trắng tinh`` (Thời gian), ``Mềm mại mánh mung
mưu mẹo mập mờ / con bài bịp tàng hình nuôi dưỡng mơ mộng`` (Mirage)...Khi bắt
gặp những câu thơ ấy của ông, người đọc vừa có cảm giác như Nguyễn Duy đang hồn
nhiên chơi trò ghép chữ, lại vừa nhận thấy đây là sự thể nghiệm công phu của nhà thơ,
cứ như ông đang xáo tung cả kho ngôn ngữ lên, sắp xếp lại theo ngẫu hứng của mình
để ``tạo nên những tiếng vang bên trong chữ`` (Tố Hữu) [39, tr.411]. Sự sử dụng trùng
phức những phép điệp này còn đem đến cho thơ Nguyễn Duy một nhạc điệu thật lạ,
các âm các từ như dính vào nhau, ngân theo một âm hưởng chủ đạo, nếu âm, từ được
láy lại có âm điệu nhẹ nhàng thanh thoát, thì câu thơ có nhạc điệu du dương, mềm
mại: ``Gió chiều náo động trong tôi / long lanh ánh lá lặng rồi lại lay`` (Người đang
yêu). Nhưng nếu những âm, từ ấy có âm điệu gồ ghề trúc trắc, thì Nguyễn Duy đã thực
sự tạo nên một đợt sóng ngôn từ dao động hình sin - một thứ ``âm nhạc hiện đại`` với
``những trái khoáy ngang phè, những nghịch phách tương phản`` (Vương Trí Nhàn)

2


[61, tr.261] khiến người đọc yếu bóng vía choáng váng: ``Véo véo từ trường nhiễu
sinh học / khoan nhặt vô thường ríu rít tít mù loảng xoảng / Cha cha cha tuyt tănggô
vanxơ tơlơmơ / khớp ngựa ô sàn nhảy lên giường xuống đường ra chợ / Lamba đa đời
thường em nhảy kiểu vắt cẳng lên cổ / rụng gối rối ruột tuột linh hồn`` (Khiêu vũ). Với
cách sử dụng những phép trùng điệp cực kỳ khéo léo như vậy, Nguyễn Duy đã chạm
đến sự vi diệu của thơ vì mỗi tiếng, mỗi chữ trong thơ ông ``ngoài công dụng gợi lên
sự vật, bỗng tự phá bung mở rộng ra, gọi đến chung quanh những cảm xúc, những
hình ảnh không ngờ, toả ra chung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy`` (Nguyễn
Đình Thi) [4, tr.24]. Trong thơ Việt Nam hiện đại, nhà thơ Tố Hữu được coi là người
``sử dụng trùng điệp tài tình và đặc sắc`` (Trần Đình Sử) [77, tr.326]. Nhưng với nhà
thơ đã tạo ra ``một giọng thơ quyền uy duy nhất hấp dẫn`` [77, tr.65] trong thơ ca
Cách mạng ấy, ``luyến láy thanh vận chỉ đóng vai trò bổ sung như một thứ bồi âm làm

cho thơ đậm đà ý vị. Những chỗ nào yếu tố luyến láy phát triển thì ở đó cái giọng điệu
riêng của nhà thơ liền bị hoà tan`` [77, tr.333]. Trong thơ Nguyễn Duy, ngược lại,
những chỗ ``luyến láy`` ấy lại thể hiện rất rõ giọng điệu riêng độc đáo của ông.
3.2.4. Phương thức ``thơ hoá`` ngôn ngữ đời thường
Nhưng có lẽ phương thức tái tạo từ đặc sắc nhất ở Nguyễn Duy là phương thức
``thơ hoá`` ngôn ngữ đời thường. Khi nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy trong
khoảng mười năm trở lại đây, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã rất chú ý đến sự cập
nhật loại ngôn ngữ có tính chất ``cơm bụi``, ``vỉa hè`` trong thơ ông và cho rằng đây là
một đột biến mới lạ, thể hiện khuynh hướng ``cơm bụi hoá`` thơ. Thực ra đây không
phải là sự chuyển biến bất ngờ, mà chỉ là sự nối dài khuynh hướng đưa ngôn ngữ thơ
trở về gần với ngôn ngữ đời thường vốn đã xuất hiện trong thơ ông từ những giai đoạn
đầu của hành trình sáng tạo. Chỉ có điều, trước đây, các yếu tố của ngôn ngữ đời
thường xuất hiện trong thơ ông thường là những thán từ : ơ hay, ơ kìa, chao...; những
từ hô gọi: ai ơi, em ơi, tre ơi, lúa ơi, người ơi...; những từ đưa đẩy: cho dù, là thế đấy,
đã đành ...; phương ngữ của nhiều miền đất: siêng, ước chi, hà tiện, không răng, xả
láng...hoặc sự vận dụng rất nhuần nhuyễn thành ngữ, ca dao: ``Năm qua đi, tháng qua
đi / Tre già măng mọc có gì lạ đâu`` (Tre Việt Nam), và có nhiều khi là nguyên vẹn
những đối thoại đời thường: ``- Răng mà khóc, con ơi`` (Bà mẹ Triệu Phong), ``- Nhà
mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ`` (Hơi ấm ổ rơm)...
Những năm sau này, ông lại tiếp tục đưa thơ về gần với cuộc sống đời thường
hơn nữa bằng việc cập nhật rất nhiều những từ ngữ mang tính chất ``bụi bặm``, ``vỉa
hè`` như động cỡn: ``vu vơ động cỡn tâm thần tâm linh`` (Bao cấp thơ) , siêu: ``yêu
siêu cỡ đó trước sau mấy người`` (Kính thưa Thị Màu), vô tư: ``vô tư thế chấp đời
người`` (Vô tư) , ngoẻo: ``loài Thánh ngoẻo lâu rồi`` (Thắp nhang và khấn) , cắm: ``Ta
nhớ ta còn cắm những món nợ lớn`` (Nhớ nhà), đếch: ``Đếch tiên nga đâu đếch
Thượng đế đâu`` (Mirage) , ngứa nghề: ``ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi`` (Xẩm

3



ngọng) , cực kỳ, cực nhớ, cực thèm, cực ngon, cực nhẹ (Cơm bụi ca), miếng ăn chùa
(Ngọt ngào)...Và có nhiều câu thơ của ông như là sự lắp ghép ngôn ngữ đời thường
bởi như còn giữ nguyên sự thô tháp, sống sít, chua ngoa, sỗ sàng của thứ ngôn ngữ nơi
vỉa hè, chợ búa:
Giường bụi vãng lai chợ đài thọ Chí Phèo yêu Thị Nở
Phản hàng thịt tênh hênh nhằng nhịt vết dao nhờn nhợn mỡ.
(Liền anh đi chợ)
Với loại ngôn ngữ trên, thơ Nguyễn Duy không chỉ nằm trong khuynh hướng
chung ``đưa ngôn ngữ thơ trở về gần với ngôn ngữ đời sống`` (Trần Đăng Suyền) [76,
tr.116], ``gần với tiếng nói hàng ngày tự nhiên, bình dị, sinh động`` (Nguyễn Văn
Long) [52, tr.83] của thơ Việt Nam hiện đại mà ông còn đưa thơ về gần hơn nữa với
một lớp người vốn chiếm số lượng không nhỏ trong thời buổi hiện nay đang lấm trong
trong cuộc mưu sinh bên lề công cuộc đô thị hoá, công nghiệp hoá. Họ là những nông
dân ở vùng quê nghèo khó lên thành phố thử vận may, những cư dân ở đô thị nhưng
không chen chân vào ngạch công chức, trong đó có không ít những cử nhân, tú tài thất
cơ lỡ vận. Ngôn ngữ của họ không hoàn toàn thuần nhất mà mang tính hỗn hợp : vừa
quê mùa vừa phố thị, vừa hài hước, ngang tàng ngổ ngáo vừa uyên thâm. Nếu Lê Đạt
khổ công săn tìm ``bóng chữ``, ``vân chữ`` [26, tr.8] thì Nguyễn Duy đã nhặt nhạnh
chính thứ ngôn ngữ đời thường ấy để viết nên những trang thơ.
Với Nguyễn Duy, đây không phải là trò chơi ngôn ngữ mà xuất phát từ tâm
niệm: ``Với tôi, làm thơ là sự góp nhặt ngôn ngữ đời thường bởi vì một trong những
tiêu chuẩn của ngôn ngữ văn học là phải tự nhiên`` [98, tr.82]. Đây cũng là một hướng
thử nghiệm kiên trì, bền bỉ: ``Tôi nhặt nhạnh li ti bụi chữ / đốt lò tâm linh chơi trò chơi
luyện thơ`` (Rơi và nhặt) và ``Em ạ người thơ chịu án khổ sai thơ / nhạc hư ảo khiêu
vũ từ ngữ`` (Khiêu vũ). Sự ``góp nhặt``, trò chơi ``luyện thơ``, cuộc ``khiêu vũ với từ
ngữ`` ấy thực chất chính là sự thơ hoá ngôn ngữ đời thường. Đây là loại ngôn ngữ
``cứ tưởng như luôn thừa mứa ở quanh ta nhưng lại là cả một thử thách đối với người
viết khi đưa lên mặt giấy`` (Anh Ngọc) [62, tr.362], vì nó rất sinh động nhưng được sử
dụng trong diện rộng nên dễ ``đóng băng``, sớm trở nên công thức, đơn điệu, và nếu
nhà thơ không khéo léo trong việc dụng chữ, lời thơ sẽ trở nên nôm na, dễ dãi, thậm

chí còn trở thành trò đùa suồng sã khó lòng được chấp nhận. Nhiều câu thơ của Bùi
Chí Vinh đã từng bị phê phán chính vì đã không vượt qua thử thách này. Nhưng
Nguyễn Duy đã vượt qua rào cản ấy bằng cách tái tạo lại, cấp cho những từ ngữ đời
thường ấy những nghĩa mới. Những từ đưa đẩy vốn chỉ có chức năng tạo nét dư trong
giao tiếp khi đi vào thơ Nguyễn Duy bỗng trở nên nặng trĩu cảm xúc, suy tư. Chẳng
hạn với những từ ``thế thôi``, ``gọi là`` được sử dụng liên tiếp trong câu thơ: ``Quà
đồng chỉ có thể thôi, gọi là...`` (Bát nước ngô của mẹ Việt ở Cam Lộ), nhà thơ đã diễn
tả được sự áy náy không yên, sự nghẹn ngào yêu thương của một bà mẹ nghèo Quảng

4


Trị chỉ có mấy bắp ngô dành cho những đứa con chiến sĩ ``giữa buổi nắng nôi`` nghỉ
chân tại nhà mình. Hoặc trong khổ thơ sau: ``Này em buồn mà làm gì / thời trong leo
lẻo lỡ đi qua rồi / cái thời loang lổ đang trôi / thôi thì thong thả tới thời trắng tinh``
(Thời gian). Nếu không có những từ ``này em``, ``thôi thì``, làm sao Nguyễn Duy có
thể tạo ra một giọng điệu tâm tình vừa điềm đạm vừa pha chút đắng cay tiếc nuối khi
ông chiêm nghiệm về thời gian. Đối với những ngôn ngữ có tính chất ``bụi bặm``,
``vỉa hè``, Nguyễn Duy lại tiếp tục làm người đọc ngỡ ngàng vì nhà thơ đã thổi vào
tính ``cực bụi`` những cảm xúc ``cực nghiêm`` nhưng cũng thật mãnh liệt, chân thành.
Đó là sự giật mình sực tỉnh giữa cuộc vui: ``Mải ham hố chén u mê / hư vô chặn mất
lối về như chơi`` (Chút thu vàng), là những đau đớn dằn vặt vì sự bất lực của bản thân
mình: ``Sọ dừa gặp vấn đề trì trệ / tri thức nhồi vào tri thức cứ phòi ra`` ( Kim Mộc
Thuỷ Hoả Thổ), là thái độ gay gắt phơi bày mặt trái của xã hội nước ta thời kỳ quá độ:
``miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít / mất vệ sinh bội thực tự hào / Sự thật hôn mê ngộ độc ca ngợi / bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại / biết thế nhưng mà biết làm thế
nào`` (Nhìn từ xa...Tổ quốc)...
Nếu quan niệm rằng: ``Đặc thù của ngôn từ thơ ca là tính gợi truyền cảm
xúc`` (Rozdextvenxki) [69, tr.88] và: ``Đặc điểm quan trọng nhất của ký hiệu thẩm mỹ
là cơ cấu cảm xúc của nó`` (Khrapchenkô) [44, tr.123], thì Nguyễn Duy thực sự đã
``thơ hoá`` được ngôn ngữ ``cơm bụi``. Và nhiều khi, ngôn ngữ ấy trở nên ``đắc địa``

đến mức dường như không thể dùng từ ngữ nào khác để thay thế nó. Chẳng hạn như
từ ``quá trời`` trong câu: ``mùa đông đi để lại rùng mình / em để lại tôi quá trời sương
muối`` (Vết thời gian), nếu thay từ ``quá trời`` bằng các từ khác như: quá nhiều, một
trời, cả trời...thì làm sao diễn tả được tiếng kêu bàng hoàng, thảng thốt, đau đớn của
người đàn ông thất tình. Hoặc trong câu: ``đòn du côn toé máu tâm hồn`` (Vợ ơi...),
thật khó có thể thay thế các từ ``du côn``, ``toé máu`` bằng các từ khác mà vẫn diễn tả
được sự phẫn uất lẫn cảm giác choáng váng, đau đớn, tơi tả, kiệt sức của nhà thơ khi
phải nếm một ``đòn`` quá nặng của cuộc đời...
Với việc ``thơ hoá`` ngôn ngữ ``cơm bụi`` ấy, Nguyễn Duy đã tận dụng được
những ưu thế sau: thứ nhất, tạo nên một sự ``lạ hoá`` ngay ở những ngôn từ rất đỗi đời
thường, đem đến cho người đọc những bất ngờ thú vị; thứ hai: rút ngắn hơn nữa
khoảng cách giữa thơ ca và cuộc đời, bởi vì đó là thứ ngôn ngữ của số đông, nên đã
thực sự đặt vị trí của người sử dụng nó ``chìm nổi giữa đám đông`` (Bao cấp thơ).
Phương thức tái tạo từ này của Nguyễn Duy đã khiến thơ bớt đi sự óng ả nuột nà
nhưng lại đậm đà hơi thở chúng sinh. Trong thời buổi nhiều nhà thơ mải miết với
những cơn thử nghiệm ngôn ngữ ở tầng sâu vô thức để cho ra đời những câu thơ ``tắc
tị`` hoặc ``vọt trào`` thì với những câu thơ trên, Nguyễn Duy thực sự đã đem đến cho
người đọc cảm giác ``đang được hưởng thứ gió tươi trên đồng đất, chứ không phải thứ
gió lọc qua máy điều hoà, được chén thứ thực phẩm tươi sống trên sông hồ, chứ không

5


phải bảo quản trong tủ lạnh`` (Chu Văn Sơn) [74, tr.50]. Có lẽ tất cả tài năng điều
khiển ngôn ngữ của Nguyễn Duy đều kết tụ ở phương thức tái tạo ngôn ngữ độc đáo
này. Ở đây, vừa có sự mộc mạc giản dị lại vừa có sự khéo léo, tinh tế nhạy cảm, vừa
có sự tự nhiên ngẫu hứng lại vừa có sự chắt lọc công phu. Đúng là Nguyễn Duy vừa
``luyện thơ`` từ ``bụi chữ`` bằng ``lò tâm linh`` (Rơi và nhặt), lại vừa ``khiêu vũ từ
ngữ`` (Khiêu vũ), trong đó từ ``khiêu vũ`` được hiểu với nghĩa chỉ sự khéo léo ``dìu``
thơ đi giữa ranh giới mong manh của các đối cực: mộc mạc và tinh tế, nhẹ nhàng và

sâu cay, bỡn cợt và nghiêm túc, nếu ``hớ hênh nghiêng chút bên này`` thì trở thành sỗ
sàng, phản cảm, ``hớ hênh nghiêng chút bên kia`` thì sáo mòn, công thức.
Nhưng không phải lúc nào Nguyễn Duy cũng thành công trong vai trò của
nhà ``luyện thơ`` giàu kinh nghiệm và một vũ công tài hoa, bởi vì đã có lúc thơ ông trở
nên nôm na dễ dãi. Cũng có khi, vì bỏ qua mối quan hệ với ngữ cảnh, nên cách nói
năng đời thường ấy lại tạo nên một sự phản cảm đáng tiếc: ``Rơm rạ ơi ta trở về đây /
ráng chiều cháy cái màu rơm rạ cháy / đồng hí hoáy cố nhân đi cấy / mông nứt đôi
nhẫn nại chổng lên trời`` (Về đồng). Với những câu thơ này, Nguyễn Duy đã khiến
cho không ít người lo ngại rằng ông đang ``làm mờ ranh giới thể loại`` (Vũ Văn Sỹ)
[80, tr.73] giữa thơ và văn xuôi, giữa thơ trữ tình và thơ trào phúng. Và những năm
gần đây, trong thơ ông bắt đầu xuất hiện dấu hiệu của phương thức ``cắt dán`` - một
phương thức được xem là tiêu biểu cho trào lưu văn học hậu hiện đại. Đã có những
câu thơ của ông kiểu như: ``Ngẫu nhiên người loạng quạng ngẫu vương / ta ngẫu hứng
nhau phút tình cờ ấm ớ`` (Giọt trời) phảng phất bóng dáng của lối viết ``tự động``
(ériture automatique) bị xếp vào loại thơ ``tắc tị`` ``khiến bạn đọc chẳng hiểu mô tê
gì`` (Chu Thị Thơm) [87, tr.9]. Phải chăng Nguyễn Duy lại bắt đầu một sự thử nghiệm
mới bởi vì: ``Nhà văn cần phải thường xuyên kiếm tìm phong cách mới cho mình``
(Vladimiro Nabokov) [59, tr.11]. Nhưng cho đến thời điểm này, việc nhặt nhạnh ``bụi
chữ`` của chúng sinh để luyện thành thơ và sự ``khiêu vũ`` diệu nghệ với từ ngữ của
Nguyễn Duy vẫn là một hướng đi riêng của ông, tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ mới
mẻ, độc đáo, không lẫn vào ai được.
3.3. GIỌNG ĐIỆU THƠ NGUYỄN DUY
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nói đến giọng điệu văn chương là nói đến
``Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được
miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình
cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm`` [33, tr.112], hay nói cách khác, giọng điệu văn chương là sự ``biểu thị thái độ,
cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua lời văn nghệ thuật`` (Nguyễn Đăng Điệp)
[28, tr.34]. Cũng như thể loại và ngôn ngữ, giọng điệu được xem là bình diện quan
trọng khi nghiên cứu phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Nhưng nếu xem phong cách

là một hệ thống phức tạp, thì giọng điệu là yếu tố trước hết phải chú ý tới, vì: ``Đề tài,

6


tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định,
trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với
những mặt khác nhau của nó`` (Khrapchenkô) [45, tr.294]. Từ điển thuật ngữ văn học
cũng khẳng định: ``Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu
của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn`` [33, tr.113].
Phương Lựu phát biểu mạnh mẽ, gay gắt hơn: ``Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không
tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng thì đó là một sự tự sát trong văn học``
[54, tr.236]. Trong công trình nghiên cứu Giọng điệu thơ trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp
cũng cho rằng: giọng điệu là ``thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong
cách độc đáo của người nghệ sĩ`` [28, tr.11]. Và gần đây nhất, Louise Gluck - nữ giáo
sư trường Đại học Williams, nữ thi sĩ vừa được bình chọn là ``Thi khôi Hoa Kỳ`` lần
thứ 12 (2004) - nhấn mạnh: ``Bài thơ, bất kể nội dung nó nói gì, sống sót không nhờ
nội dung mà nhờ giọng nói. Nói giọng là tôi muốn chỉ cái phong cách của tư tưởng``
[7, tr.20]. Chính vì vậy, nghiên cứu giọng điệu cũng là hướng đi rất quan trọng để
khám phá phong cách thơ Nguyễn Duy.
Cũng như các nhà thơ khác, giọng điệu thơ Nguyễn Duy không phải là hiện
tượng thuần nhất mà được tạo nên bởi nhiều giọng khác nhau, trong đó nổi bật hai
giọng điệu chính: kể lể tâm tình và ngang tàng tếu táo.
3.3.1 Giọng kể lể tâm tình
Là một nhà thơ ngay từ khi mới cầm bút đã khao khát muốn giãi bày những
``cảm xúc và suy nghĩ trước những chuyện lớn chuyện nhỏ quanh mình``, trước những
điều ``người khác có thể cho là chuyện thoáng qua thì ở anh nó lắng sâu và dường như
dừng lại`` (Hoài Thanh) [83, tr.230], và luôn tâm niệm thơ mình phải như tiếng đàn
bầu lẩy lên ``những tâm tình ở đằng sau tâm tình`` (Đàn bầu), nên việc hình thành
trong thơ Nguyễn Duy giọng điệu kể lể tâm tình là điều đương nhiên. Để thể hiện

``điệu hồn`` ấy, không kể truyện thơ Trở lại khúc hát ru có đầy đủ mọi yếu tố của một
tác phẩm tự sự, nhiều bài thơ của Nguyễn Duy được triển khai từ một sự việc gồm
nhiều chi tiết, sự kiện diễn biến trong một không gian, thời gian nhất định. Có thể coi
đó là những cốt truyện nho nhỏ khá hấp dẫn rất dễ chuyển từ ngôn ngữ trữ tình của thơ
sang ngôn ngữ tự sự của văn xuôi. Chẳng hạn Tre Việt Nam là câu chuyện về đời tre
trải dài từ ``ngày xưa`` đến ``mai sau``; Bầu trời vuông kể về phút nghỉ ngơi dưới mái
tăng của người lính sau trận đánh; Hơi ấm ổ rơm kể chuyện một đêm lỡ đường; cuộc
đời của người bà, người bố là cốt truyện của Đò Lèn, Cầu Bố; Am ảnh cát ghi lại
quãng cuối đời của bà mẹ liệt sĩ...Có những bài thơ của ông chỉ gồm hai câu như:
``Ngấp nga ngấp ngoáng kêu ma / hoá ra lại gặp bóng ta trên tường`` (Gặp ma) nhưng
ta vẫn có thể dựng thành truyện cười hoặc truyện ngụ ngôn thú vị. Khi kể lại những
câu chuyện này, Nguyễn Duy rất ít khi ``thác lời`` mà thường đóng vai người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất: ``Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm`` (Hơi ấm ổ rơm);

7


``Võng chành như chiếc thuyền câu / ru tôi trôi giữa nông sâu tiếng đàn`` (Đàn bầu);
``Đằng ấy lúc lắc tớ lúc lắc`` (Nằm võng đi ra bể); ``Ta dù lếch thếch lôi thôi / mong
thơ sinh hạ cho đôi ba dòng`` (Bao cấp thơ); ``Anh vặt trăng sao rịt lành vết thương /
thấm giọng giọt sương nước mắt em long lanh mảnh vỡ`` (Nấp vào bóng
mình)...Những đại từ nhân xưng ``tôi``, ``ta``, ``anh``, ``tớ`` thường xuyên đi về trong
những trang thơ ấy đã tạo nên sự chân tình gần gũi, rút ngắn khoảng cách giữa nhà thơ
và người đọc, tạo không khí thích hợp để kể lể tâm tình.
Cũng như Nguyễn Bính, Nguyễn Duy đã kế thừa trọn vẹn giọng kể của ca
dao dân ca, nhưng nếu sự kể lể của Nguyễn Bính thường ``bộc lộ một cái tật: dông
dài``, gắn liền với những ``than vãn`` não nuột (Chu Văn Sơn) [75, tr.168-169] thì
cách kể của Nguyễn Duy thường rất ngắn gọn và là phương tiện để bộc lộ tâm tình nhẹ
nhàng đằm thắm. Chính vì vậy nếu thơ Nguyễn Bính dày đặc những từ cảm thán, phép
cường điệu và lối chì chiết đay đả, thì Nguyễn Duy lại sử dụng nhiều từ hô gọi có âm

điệu thiết tha (Xem 3.2, tr.60) và rất nhiều những từ đệm với mục đích diễn giải và tạo
không khí thân tình nhẹ nhàng, ấm áp: ``Nhà tôi đó, không cổng và không cửa / ai ghé
qua cứ việc hút thuốc lào`` (Cầu bố), ``Hậu hoa hậu còn gập ghềnh lắm / thua cũng
thương mà được cũng thương`` (Hoa hậu vườn nhà ta)...Và ngay cả khi viết về những
câu chuyện có tính chất bi thương, nhà thơ đã từng tự nhủ ``và thơ ơi đừng sướt mướt
làm gì`` (Bài ca cho người ly hôn) ấy vẫn thường dùng từ ngữ có sắc thái điềm đạm ôn
hoà. Ông đã dùng cụm từ ``bạn tôi qua đời rồi`` để nói đến sự ra đi của đồng đội vì
``Sốt cơn ác tính cháy da`` (Người đang yêu). Để thể hiện nỗi đau của một người lính
khi trở về vợ đã sinh con với người khác, ông viết: ``Ôi, nếu không vì tám năm cách
trở / làm gì nên nỗi nào`` (Trở lại khúc hát ru). Và đây là những lời thơ ông viết về nỗi
đau hôn nhân tan vỡ: ``Sự dối lừa xúc phạm tình yêu / đành chấp nhận bước lỡ làng
định mệnh``
(Tình ca cho người ly hôn). Dường như mọi cảm xúc của nhà thơ
đều được dồn nén, ẩn đằng sau câu chữ. Cũng đau đáu hồn đất đai quê kiểng như
nhau, nhưng nếu nước mắt Nguyễn Bính ướt đẫm từng trang thơ thì những đắng cay
đau xót của Nguyễn Duy lại lặn vào bên trong để ông luôn đem đến cho người đọc
những lời tâm tình chân thành, điềm đạm, ấm áp, vực họ bước qua những nỗi đau
tưởng chừng không thể nào qua được. Đây chính là sự đồng vọng của thái độ sống:
``Đừng than phận khó ai ơi / Còn da lông mọc còn chồi nảy cây`` (Ca dao) của cha
ông thuở nào.
So với các nhà thơ thuộc thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ,
không phải chỉ Nguyễn Duy có giọng thơ kể lể. Khi tác động của hoàn cảnh lịch sử
khiến thơ ca mở rộng biên độ phản ánh ``đưa chất sống thực tế vào thơ`` (Mã Giang
Lân) [94, tr.304] thì kể lể cũng trở thành một giọng điệu chung của thơ chống Mỹ.
Nhưng sự kể lể của mỗi nhà thơ đều gắn liền với những sắc thái biểu cảm khác nhau.
Phạm Tiến Duật kể về Tiểu đội xe không kính, về cuộc gặp gỡ cô gái thanh niên xung

8



phong, về chuyện ``Cái vết thương xoàng mà đưa viện``... thể hiện chất ``trẻ trung,
hóm hỉnh, tinh nghịch`` (Trần Đăng Suyền) [76, tr.135]. Nguyễn Khoa Điềm kể về
Đất ngoại ô quê mình, kể về những ngày tuổi trẻ miền Nam xuống đường đấu tranh
chống Mỹ...bộc lộ chất ``giàu suy tưởng, cảm xúc`` (Tôn Phương Lan) [94, tr.493].
Thanh Thảo kể về Bài ca ống cóng, Tổ ba người, Dấu chân qua trảng cỏ...bằng
``giọng thơ trầm, giàu nghĩ ngợi với những liên tưởng độc đáo, bất ngờ mang ý nghĩa
khái quát sâu xa`` (Bích Thu) [94, tr.427]. Hữu Thỉnh kể về Chuyến đò đêm giáp
ranh , Giấc ngủ trên đường ra trận, Sau trận đánh... bộc lộ sự ``đằm thắm hồn hậu
nghiêng về phía rợp mát``, ``lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục`` (Lưu Khánh
Thơ) [94, tr.421]. Bùi Minh Quốc ``diễn giải`` về Kỷ niệm ở sông Trà, Đôi mắt Việt
Nam... để ``thiên về ngợi ca, hướng về vẻ đẹp lãng mạn`` (Vũ Tuấn Anh) [94, tr.471].
Còn Nguyễn Duy thường kể về những chuyện đời thường nhỏ nhặt với nỗi niềm tâm
tình nhẹ nhàng, chân chất, điềm đạm, đằm thắm, đậm đà chất ca dao. Chính vì vậy,
trên cái nền ``tiết tấu quân hành thời chiến`` (Văn Long) [51, tr.55], cũng như một số
những nhà thơ trẻ khác, Nguyễn Duy đã tìm được giai điệu riêng cho mình.
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, Đại hội VI của Đảng đã mở ra bầu không khí
dân chủ làm bừng tỉnh trong văn học cái tôi tự ý thức tạo nên giọng điệu chung cho
thơ thời kỳ này là ``giãi bày, bộc bạch`` (Mã Giang Lân) [46, tr.376]. Nhưng sự ``giãi
bày, bộc bạch `` ấy được bộc lộ ở rất nhiều cung bậc khác nhau. Với Đặng Đình Hưng,
đó là sự đau đớn đến tê dại cả cảm xúc trong ``cơn thể nghiệm cuối cùng`` với những
thèm muốn dữ dội: ``Thèm ngửi, nếm, sờ mó, nhai nuốt, có khi nuốt chửng một mùi
hương tóc, một vết chân người, một cái hôn bất tận`` (Hoàng Cầm) [72, tr.27]. Với
Bằng Việt, đó là những ``hy vọng, lo âu, phập phồng sáng tạo`` (Vũ Quần Phương)
[72, tr.345] khi Ném câu thơ vào gió. Với Hoàng Hưng, là hành trình gian nan ``đi tìm
mặt mình``. Với Phùng Khắc Bắc, là ``sự thụ cảm trí tuệ về người lính và số phận con
người sau chiến tranh`` (Vũ Văn Sỹ) [49, tr.504]...Giữa những giọng thơ tiêu biểu đó,
Nguyễn Duy vẫn kiên trì giữ nguyên giọng kể lể tâm tình đôn hậu, ấm áp, điềm đạm,
tỉnh táo. Bài thơ tiêu biểu nhất cho giọng điệu này của ông là bài Nấp vào bóng mình :
``Anh vô danh đứng lên bằng đôi chân hy vọng của mình / cây vô danh đứng lên bằng
chính rễ của nó / đất đai khô cằn chưa bao giờ bình yên / Không hiểu nổi tại sao anh

và cây bị chém bị đốn / không lẩn trốn và không thể trốn / anh nấp vào bóng anh...``.
Với những câu thơ dài nhưng nhịp thơ lại chậm rãi đều đặn được láy đi lại lại bởi
những điệp từ ``vô danh``, ``không``, ``anh``, ``cây``, và đặc biệt với những từ ngữ:
``bình thản``, ``lại đứng lên``, ``anh chờ em``, ``nấp vào bóng anh``, bài thơ có giọng
tâm tình trầm lắng, điềm đạm, nhưng là cái trầm lặng điềm đạm khiến tâm hồn người
đọc nổi sóng bởi vừa yêu thương da diết vừa cảm phục sự vững vàng của nhà thơ
trước cuộc đời. Những bài thơ khác của ông như Ta chờ mùa hạ sang, Giã từ A-RêKhô-Vơ, Rau muối, Chiều mận Hậu, Kính gửi tuổi học trò, Hạ thuỷ... đều có chung
giọng điệu này. Đặc biệt ở những bài thơ ông viết dành riêng tặng vợ như Dịu và nhẹ,

9


Mời vợ uống rượu... giọng kể lể tâm tình lại càng da diết, đằm thắm: ``Nhẹ nhàng
tiếng bóng liêu xiêu / em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng / Má hồng về xứ hồng
hoang / tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi / Dịu dàng vang tiếng mắt cười / bỏ qua sấm
chớp một thời xa xăm (Dịu và nhẹ). Không biết trên đời này, có nhà thơ nào viết về
mái tóc hoa râm, gò má nhạt màu thanh xuân và ánh mắt cười của vợ tha thiết như
Nguyễn Duy ? Không một từ cám ơn, không một lời ca ngợi, tự giọng điệu bài thơ đã
diễn tả sâu lắng đến ngàn lần nỗi niềm ấy của nhà thơ.
Kiên trì giữ vững giọng tâm tình ấm áp trong thời kỳ thơ Việt Nam đang bứt
phá tìm những hướng đi mới, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục khẳng định tiếng nói riêng của
hồn thơ mình. Nhưng có một thực tế rằng giọng kể lể tâm tình ấy của Nguyễn Duy
trong giai đoạn sáng tác này không hoàn toàn thuần nhất như trước nữa mà có sự xuất
hiện song song hoặc đan xen của một giọng điệu khác cũng là giọng điệu chính trong
thơ ông: Giọng tếu táo, ngang tàng.
3.3.2. Giọng tếu táo, ngang tàng
Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân cho rằng: ``Thơ Nguyễn Duy gần đây
thường có thêm sắc giọng thủng thẳng, hơi nganh ngạnh và ương bướng nữa, nếu
cần`` [91, tr.205]. Thực ra, cái ``ngang ngạnh`` này đã xuất hiện từ trước đó, ngay từ
khi giọng thơ chủ đạo của thời đại chống Mỹ là ``hào hùng, sảng khoái, lạc quan``

(Nguyễn Đăng Điệp) [28, tr.193], là ``khúc ca chiến thắng, chất thơ quyện hoà cùng
chất thép, niềm lạc quan cách mạng vượt lên những tổn thất đau thương`` (Bùi Văn
Nguyên) [60, tr.119] thì Nguyễn Duy đã day dứt viết về ``cái thời con gái đi qua cánh
rừng`` (Người con gái) của các cô gái thanh niên xung phong, mái đầu ``mộng du
trắng xoá`` của những người cha ``nửa đời Việt Bắc nửa đời Trường Sơn`` (Người
cha). ``Thời sung sức nhất`` khoác áo lính với ông không phải là để viết lên bài hát
``thô sơ và hực sáng`` (Thanh Thảo) của thế hệ mình mà đơn giản chỉ là hành trình
``đi tìm thân nhân`` ``suốt những năm giông bão`` (Tìm thân nhân). Khi đuổi theo
thàng lính nguỵ vừa ``bắn sượt thái dương`` mình, ông không có ý định nổ súng mà
chỉ tâm niệm ``cứu hắn sống đời người mới khó`` (Đứng lại)...Sự ``lệch chuẩn`` chệch
ra khỏi những chuẩn mực bất thành văn của thời đại ấy chẳng phải là biểu hiện của sự
``ngang ngạnh``, ``ương bướng`` hay sao ?
Nhưng phải công nhận rằng, từ những năm tám mươi, do sự xúc tác của hoàn
cảnh thời ``quá độ`` ``ào ạt sóng gió`` (Mười năm bấm đốt ngón tay), không khí dân
chủ của thời ``mở cửa``, sự thay đổi môi trường sống từ Thanh Hoá chiêm trũng vào
Sài Gòn ồn ào náo nhiệt nhiều nắng, nhiều gió, nhiều bụi đã khiến giọng điệu ấy bỗng
nổi lên thành giọng điệu chính trong thơ Nguyễn Duy. Sự táo bạo đụng đến những vấn
đề ``kinh mạch``, ``huyệt đạo`` của xã hội, sự ``rũ gan ruột mình ra`` (Chữ dùng của
Nguyễn Duy) [95, tr.9] bằng thứ ngôn ngữ ``cơm bụi`` được ``thơ hoá`` (Xem 3.2,
tr.61) đã tạo nên trong thơ Nguyễn Duy giọng thơ tếu táo ngang tàng: ``Chích một giọt

10


máu thường xét nghiệm / tí trí thức - tí thợ cày - tí điếm / tí con buôn - tí cán bộ - tí
thằng hề / phật và ma...mỗi thứ tí ti`` (Nhìn từ xa ...Tổ quốc)...
Và khi những ngôn ngữ ``cơm bụi`` được sự hỗ trợ đắc lực và diệu nghệ của
những phép trùng điệp thì cái giọng tếu táo ngang tàng ấy càng trở nên táo bạo, quyết
liệt: ``Ao ạt xuống đường các tập đoàn con buôn / buôn hàng lậu - buôn quan- buôn
thánh thần - buôn tuốt.../ quyền lực bày ra đấu giá trước công đường`` (Nhìn từ xa...Tổ

quốc). Đây thật sự là hành động ``áp tải sự thật / đến những bến cuối cùng`` (Trần
Nhuận Minh) [64, tr.302]. Với giọng điệu tếu táo ngang tàng ấy, Nguyễn Duy đã phơi
bày và lên án gay gắt những bất ổn của xã hội đương thời, nhưng đó không phải là
``một nét cực đoan`` thật ``đáng tiếc đáng buồn`` vì đã ``hàm ý phủ nhận cả quá khứ,
hiện tại, tương lai của dân tộc`` như Bùi Công Hùng đã phê phán [38, tr.293-294]. Một
nhà thơ luôn tâm niệm: ``Dù có sao / đừng thở dài / còn da lông mọc còn chồi nảy
cây`` (Nhìn từ xa...Tổ quốc) như Nguyễn Duy không thể thiếu niềm tin vào cuộc sống.
Và đằng sau sự tếu táo ngang tàng ấy là những tâm tình sâu lắng, thiết tha. Đó là bi
kịch cô đơn của người nghệ sĩ trong nỗ lực sáng tạo hết mình:
Vũ trường giấy trắng cô đơn anh khiêu vũ những giấc mơ
không bắt đầu từ đâu không kết thúc nơi nào
(Khiêu vũ)
Đó là cảm giác bơ vơ lạc lõng trước cuộc sống xô bồ, ngột ngạt: ``Giờ đây ta
ngài ngại ra đường / dù chả để làm gì ta muốn ngồi một mình / Vu vơ một mình trống
rỗng một mình`` (Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ). Nhưng phần đau đáu nhất, xa xót trong cái
giọng tếu táo ngang tàng ấy là những tâm tình hướng về đất nước, nhân dân:
Đừng lớn lối khi dân lành ốm đói
Vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
(Nhìn từ xa...Tổ quốc)
Trong nhiều bài thơ khác như Trắng... và trắng..., Trở gió, Rơi và nhặt,
Thương nhớ thơ ngây, Ngọt ngào...ta đều bắt gặp sự đan xen này. Như vậy, trong thơ
Nguyễn Duy, lắng sâu sau những tếu táo ngang tàng khiến người đọc đôi khi ``cười bò
ra, cười chảy nước mắt`` (Nguyễn Thuỵ Kha) [41, tr. 205] là những khoảng lặng rưng
rưng hướng về nhân tình thế thái, về thân phận bé nhỏ của con người. Nguyễn Duy
không phải là người sáng tạo ra giọng điệu độc đáo này, thực ra ông chỉ là người đánh
thức rất thông minh và khéo léo ``những câu hát phản kháng`` trong ca dao, tiếng khóc
``dẫu cười không thể dấu`` của Nguyễn Khuyến, nụ cười ``như mảnh vỡ thuỷ tinh``
(Chế Lan Viên) của Trần Tế Xương và cả cách giễu cợt thâm trầm thâm thuý của ``cây
cổ thụ bóng che rợp hai thế kỷ`` Nguyễn Bỉnh Khiêm nữa - những nhà thơ cổ điển nổi
tiếng vốn được lịch sử chứng nhận là thuộc về đông đảo quần chúng nhân dân. Nhưng

ta cũng nhận ra rằng cái tỉnh bơ, ngang ngang, thủng thẳng của ông kiểu như: ``Có
người thách ta đánh nhau / ta bảo ta yếu rồi lại không có võ / Có kẻ thách ta chửi
nhau / ta bảo ta vừa bị mất trộm cả sọt từ ngữ `` (Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ) lại thấp

11


thoáng chất giễu nhại tài hoa của Xecvantex ! Trong lúc thơ Việt Nam hiện đại ``hãy
còn quá ít tiếng cười, quá ít chất giọng giễu nhại. Sự giễu nhại thực ra là một hình thức
tạo nên ``cái nhìn của kẻ khác`` và thơ ca vì thế thật hơn, đời hơn`` (Nguyễn Đăng
Điệp) [29, tr.339] thì phải chăng giọng tếu táo ngang tàng này của Nguyễn Duy thực
sự là tài sản quí hiếm của thơ ca đương đại ?
Lắng sâu trong giọng thơ tếu táo ngang tàng của Nguyễn Duy không chỉ là
những tâm tình thiết tha của một hồn thơ luôn trăn trở trước thân phận con người,
trước vận mệnh đất nước mà còn có sự sâu sắc thâm trầm của những triết lý nhân sinh.
Nguyễn Duy đã từng phê phán mình: ``Ta quàu quạu học đòi triết gia táo bón / những
câu thơ nhăn nhó nhọc nhằn / quên rằng sự sống rất hồn nhiên`` (Cô bé nhà bên) và
tuyên bố: ``Em ạ triết gia xa cách anh / triết lý đồng hành với chuyên nghiệp lưỡi`` (Dị
ứng), nhưng rồi ông vẫn tiếp tục viết những câu thơ đậm đà ý vị triết học: ``Xin em
đừng vội vã già / hiểu cho nhau sống đã là phiêu lưu`` (Bài ca phiêu lưu), ``Yêu trả
góp cả kiếp người em ạ / ngẫu sống rồi ngẫu chết ngẫu hư không`` (Giọt trời)...Và ông
còn trực tiếp khẳng định: ``Cái lõi của văn chương là triết. Từ cả những chuyện đùa
cợt, tầm phào nhất cũng có thể phả triết học vào, có thế mới dội lại được với đời`` [95,
tr.9]. Phải chăng Nguyễn Duy đang tự mâu thuẫn chính mình ? Làm sao ông có thể
phủ nhận mối quan hệ giữa thơ và triết một khi ngay từ thời cổ đại, Arixtôt đã khẳng
định: ``Thơ ca có ý vị triết học`` [1, tr.58]. Thực ra cái thứ triết lý mà ông thẳng thừng
phủ nhận ấy là sự nhai lại máy móc, công thức, xa rời cuộc sống. Còn chất triết mà
ông đưa vào thơ mình là những triết lý đời thường được chắt lọc qua trải nghiệm của
chính bản thân ông, trần trụi, thiết thực nhưng không kém phần thâm trầm sâu sắc.
Như vậy, nếu chất ngang tàng tếu táo tạo nên sự mạnh mẽ quyết liệt, chất tâm tình tha

thiết tạo nên sự đằm thắm hồn hậu thì chất triết lý lại tạo nên chiều sâu suy nghĩ trong
giọng điệu thơ Nguyễn Duy.
Sự song song và đan xen giữa các giọng điệu trong thơ Nguyễn Duy không chỉ
thể hiện được sự độc đáo hiếm có mà còn chứng tỏ rằng: ``Giọng điệu nhà văn, nhà
thơ không phải là một hiện tượng tĩnh tại, bất biến mà vận động biến hoá`` (Nguyễn
Đăng Điệp) [28, tr.342]. Tuy nhiên, Nguyễn Đăng Điệp cũng chỉ ra rằng: ``Mỗi một
nghệ sĩ lớn thường là một nghệ sĩ tạo ra một dải phổ giọng điệu rộng lớn, phong phú
mà thống nhất. Đó là sự thống nhất của cái đa dạng`` [28, tr.342]. Nguyễn Duy có phải
là một nghệ sĩ lớn hay không, điều đó còn chờ sự đánh giá của bậc thầy Thời gian,
nhưng thực tế trước sau Nguyễn Duy vẫn là một nhà thơ trữ tình, sự tếu táo ngang tàng
kia không đưa ông sang địa hạt của thơ trào phúng, mà chỉ là một phương tiện độc đáo
để ông bộc lộ tâm tình mà thôi. Hay nói cách khác, giọng điệu chủ đạo trong thơ
Nguyễn Duy vẫn là giọng trữ tình tha thiết. Giọng tếu táo ngang tàng có sự lắng sâu
của những tâm tình và sự đậm đà của ý vị triết học thực ra cũng chỉ là sự chuyển hoá
của giọng điệu chủ đạo này để thơ ông càng giàu chất nhân văn, nhân bản. Đó là giọng
điệu được tích hợp từ ca dao dân ca, từ văn học truyền thống. Dù giọng điệu ấy có

12


biến hoá đến thế nào, vừa ngân lên, người ta đã nhận ra chất dân dã của thơ ông bởi
giọng điệu ấy luôn hướng về số đông người dân lao động, thể hiện sự nhìn nhận, đánh
giá, ước mơ, khao khát của ``cõi chúng sinh thời hiện tại`` (Chu Văn Sơn) [74, tr.45]
và luôn đau đáu một sự quan tâm sâu sắc đến thân phận con người. Đây phải chăng là
cái ``dải phổ giọng điệu rộng lớn`` mà nguyễn Đăng Điệp đã xem là tiêu chuẩn thiết
yếu để nâng một nhà thơ lên hàng ngũ một ``nghệ sĩ lớn`` ?
PHẦN KẾT LUẬN
1. Trong hành trình sáng tạo gần bốn mươi năm được kết tinh trong mười tập
thơ gồm hơn ba trăm bài thơ, Nguyễn Duy đã thật sự khẳng định tiếng nói riêng của
mình với những đặc điểm nổi bật sau:

Trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Duy, triết lý nhân sinh: ``Ta là dân vậy thì ta tồn tại`` (Nhìn từ xa...Tổ quốc) có ý nghĩa như một ``mẫu gốc``. Quan niệm
đó của ông không chỉ thể hiện tư tưởng trọng dân, tình cảm gắn bó máu thịt với nhân
dân lao động mà còn thể hiện hướng đi trong sáng tạo nghệ thuật: hoà mình vào nhân
dân, cất lên tiếng nói của chính họ trong cuộc đời - đấy chính là yếu tố quyết định sự
tồn tại của đời thơ. Triết lý nhân sinh này đã được chuyển hoá nhuần nhuyễn vào quan
niệm thẩm mỹ và quan niệm sáng tác của Nguyễn Duy. Với ông, hành trình đi tìm cái
đẹp là hành trình ``tìm ánh vàng trong muối mặn mồ hôi`` (Đãi cát tìm vàng), và ông
làm thơ là để chưng cất cảm xúc ‘’thương mến đến tận cùng chân thật / những miền
quê gương mặt bạn bè`` (Tuổi thơ) của mình thành ``rượu của chúng sinh`` (Bao cấp
thơ). Nguyễn Duy đã hiện thực hoá quan niệm nghệ thuật ấy của mình qua hành trình
sáng tạo. Đó là hành trình đầy ắp chất sống đời thường, kiên trì bền bỉ vượt lên mọi
hoàn cảnh để làm thơ và vận động theo hướng trở về gần hơn nữa với cuộc sống đời
thường, với quê hương, nhân dân, đất nước. Triết lý nhân sinh ``Ta là dân - vậy thì ta
tồn tại`` của Nguyễn Duy không chỉ được chuyển hoá nhuần nhuyễn vào quan niệm
thẩm mỹ, quan niệm sáng tác và được hiện thực hoá trong hành trình sáng tạo mà còn
chi phối mạnh mẽ đến cách chiếm lĩnh đề tài, hình tượng nghệ thuật, thể loại, ngôn
ngữ và giọng điệu trong thơ ông.
Cũng tập trung viết về chiến tranh và quê hương như những nhà thơ khác,
nhưng ngòi bút của ông không chú trọng thể hiện những vẻ đẹp hoành tráng mang tính
sử thi mà thường nghiêng về khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ,
bình dị, lắng sâu những mất mát hy sinh, da diết với cuộc sống vất vả lam lũ của người
nông dân. Bước sang thời kỳ ``đổi mới``, thơ Nguyễn Duy càng mạnh mẽ, táo bạo,
tỉnh táo phơi bày những bất cập của xã hội đương thời. Chính vì vậy, thơ ông càng
giàu giá trị nhân văn, nhân bản.
Hình tượng trung tâm trong các sáng tác của Nguyễn Duy là hình tượng cái tôi
trữ tình với bản nguyên ``mang dấu ruộng dấu vườn`` được thể hiện ở hai bản thể: cái

13



tôi mang đậm ``hồn quê`` và cái tôi hài hoà ``hồn phố``. Hình tượng Đất và Gió trong
thơ ông có thể coi là hai bản sao của cái tôi trữ tình, trong đó Đất là phần bình ổn, mộc
mạc, giản dị, Gió là phần ngang tàng, phóng túng, lãng mạn, đa tình. Đó thực sự là hai
hình tượng vừa đối lập vừa thống nhất, tạo nên nét riêng độc đáo của thế giới hình
tượng nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy
Thể loại sở trường của Nguyễn Duy là lục bát. Nguyễn Duy đã sáng tác lục bát
với hai khuynh hướng: vừa trở về nguồn cội vừa cách tân để đưa lục bát trở về gần
hơn nữa với cuộc sống đời thường. Nguyễn Duy đã cải hoá sự hài hoà, mềm mại, óng
ả vốn có của lục bát bằng cách sử dụng nhiều thanh trắc, tăng cường nhịp lẻ, phép
trùng điệp ở mọi cấp độ, cập nhật ngôn ngữ ``cơm bụi``, ``vỉa hè`` và gia tăng chất thế
sự, đời tư. Như vậy, lục bát Nguyễn Duy vừa khuôn theo thi luật truyền thống vừa phá
vỡ những thi luật ấy ở mọi chiều kích, tạo thành một thứ lục bát mang hơi thở, nhịp
sống của cuộc sống thời hiện tại.
Để vượt lên những lối mòn ngôn ngữ, Nguyễn Duy đã sử dụng kết hợp nhiều
phương thức tái tạo từ: nhân hoá, ẩn dụ, trùng điệp, ``thơ hoá`` ngôn ngữ đời thường.
Với vai trò của người kiên trì ``luyện thơ`` từ ``bụi chữ`` (Rơi và nhặt) đồng thời cũng
là một vũ công tài hoa ``khiêu vũ từ ngữ`` (Khiêu vũ), Nguyễn Duy đã giữ được ngôn
ngữ thơ ở giới hạn cheo leo giữa các đối cực: mộc mạc và tinh tế, bỡn cợt và nghiêm
túc, nhẹ nhàng và sâu cay...
Thơ Nguyễn Duy có hai giọng điệu chính: kể lể tâm tình và tếu táo ngang tàng.
Nếu yếu tố tự sự trong mỗi bài thơ, những từ hô gọi có âm điệu tha thiết, sự xuất hiện
trực tiếp của cái tôi trữ tình, sự kìm chế, dồn nén cảm xúc trước những đau thương mất
mát...đã tạo nên giọng điệu kể lể tâm tình ấm áp điềm đạm, thì giọng thơ tếu táo ngang
tàng được hình thành từ sự táo bạo chạm đến những vấn đề bức thiết của hiện thực xã
hội của nhà thơ. Hai giọng điệu này vừa song song tồn tại vừa đan xen với nhau, và
riêng trong giọng điệu tếu táo ngang tàng không chỉ lắng sâu những tình cảm thiết tha,
những suy tư trăn trở về thân phận con người mà còn đậm đà chất triết lý được chắt
lọc từ chính cuộc sống bộn bề những lo toan thường nhật. Dù thời gian sau này giọng
tếu táo ngang tàng nổi lên như một chủ âm, nhưng giọng điệu chủ đạo trong suốt hành
trình sáng tạo gần bốn mươi năm qua của ông vẫn là giọng trữ tình thiết tha, sâu lắng.

2. Với những đặc điểm nổi bật trên, nếu quan niệm rằng: ‘’Chỉ khi nào nhà
văn, nhà thơ đạt đến trình độ cao trong nghệ thuật, mở được một cách nhìn mới, cách
cảm thụ mới, cách viết mới, cách thể hiện mới được mọi người thừa nhận, thì người đó
mới thực sự có phong cách, được chấp nhận là có phong cách`` (Bùi Công Hùng) [37,
tr.113] thì Nguyễn Duy đã thực sự là một nhà thơ có phong cách. Phong cách ấy được
hình thành do sự tác động của hoàn cảnh xã hội, in đậm dấu ấn của văn hoá dân gian
của miền đất Thanh Hoá - quê hương ông , nhưng quan trọng hơn cả là sự tích hợp từ
tài năng thực sự cùng những trải nghiệm và những nỗ lực vượt lên mọi hoàn cảnh,

14


vượt lên chính mình để sáng tạo của nhà thơ.
Trịnh Công Sơn đã nhận xét về Nguyễn Duy: ``Hình hài Nguyễn Duy như
giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quí mọc trên đám đất hoang
đó`` [68, tr.82]. Theo chúng tôi, ẩn dụ ‘’đám đất hoang’’ không chỉ nghiêng về chỉ
diện mạo bên ngoài, mà quan trọng hơn, còn phản ánh bản tính nguyên thuỷ, nguyên
sơ của người nông dân Việt Nam khắc ghi đậm nét trong tâm hồn Nguyễn Duy: sự hồn
nhiên, mộc mạc, giản dị, bản tính ``thương người như thể thương thân``.... Như vậy,
với Nguyễn Duy, thơ là người, phong cách sống của ông được chuyển hoá trọn vẹn
vào phong cách thơ, và phong cách thơ chính là sự lưu lại phong cách sống ấy.
3. Thơ Nguyễn Duy đậm đà ``hồn quê`` nhưng không phải là thứ hồn quê cổ
điển, thuần tuý. ``Hồn quê`` trong thơ ông đã có sự pha trộn của ``hồn phố`` - một
``hồn phố`` không phải mang nặng nỗi ``sầu đô thị`` như Nguyễn Bính, cũng không
phải nghiêng về phía thanh lịch, cổ kính mà mang sắc thái táo bạo, mạnh mẽ, nhiều
trăn trở, ưu tư. Như vậy, phong cách thơ Nguyễn Duy là sự thống nhất của nhiều yếu
tố đối lập: mộc mạc, dân dã mà tinh tế sâu sắc, ngang tàng tếu táo mà thiết tha sâu lắng
nhân tình, tự nhiên ngẫu hứng mà trau chuốt công phu. Nhưng bắt nguồn từ quan niệm
``Ta là dân - vậy thì ta tồn tại`` nên mọi cách tân trong thơ ông đều xoay quanh cái
trục dân dã. Nếu coi phong cách thơ Nguyễn Duy là một chỉnh thể, thì ‘’dân dã’’ là

yếu tố chi phối mạnh mẽ tất cả các yếu tố khác, khoác cho chất ‘’bác học’’ trong thơ
ông chiếc áo mộc mạc, giản dị, khiến sự ngang tàng tếu táo trong thơ ông không phải
là biểu hiện của cái tôi cá thể ngông nghênh mà nặng trĩu nỗi đau nhân thế, khiến chất
hiện đại trong thơ ông mang hơi thở của cuộc sống đời thường. Nếu coi sáng tác của
Nguyễn Duy là những cánh diều bay bổng, thì ‘’dân dã’’ chính là cái ‘’neo trần gian’’,
gắn kết thơ ông với cuộc đời hiện tại. Vì vậy, thơ ông luôn thuộc về số đông ``chúng
sinh`` thời hiện tại, thực sự là ``rượu của chúng sinh`` (Bao cấp thơ).
Với phong cách độc đáo ấy, Nguyễn Duy đã trở thành một trong những gương
mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và thuộc
hàng ngũ các nhà thơ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới, góp phần quan trọng
``làm thay đổi thi pháp của thơ, tạo nên gạch nối giữa thơ hậu chiến và thơ hiện đại``
và là ``lực hấp dẫn`` thúc đẩy ý thức cách tân ngày càng mạnh mẽ hơn của thơ trẻ
chúng ta hôm nay (Nguyễn Trọng Tạo) [4, tr.4].
4. Bên cạnh một khối lượng lớn thơ trữ tình, Nguyễn Duy còn làm báo, viết
tiểu thuyết, phóng sự, sáng tác lịch thơ, tranh thơ, tổ chức những cuộc triển lãm thơ
``độc nhất vô nhị`` tạo nên những hiện tượng văn hoá độc đáo. Đây cũng là một phần
quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy cần được tiếp tục nghiên cứu để
có cái nhìn toàn diện hơn về những đóng góp và vị thế của ông trong nền thơ Việt
Nam hiện đại.

15


ĐÒ LÈN
Thơ: Nguyễn Duy
Phổ nhạc,hoà âm,làm clíp,thể hiện: HẢI ANH
bài thơ Ánh Trăng do ̀thầy Thích Chân Quang phổ nhạc
tin12h.net › Văn hóa
17-09-2014 - Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ
rơm”, .... Tuổi thơ của chúng ta dể có mấy ai được cai cơ may như nhà thơ? ..... Khúc hát

ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích.

Bạn thân phổ thơ Bùi Chí Vinh thành ca
khúc
Nhà thơ Bùi Chí Vinh và nhạc sĩ Nguyễn Hiệp, Nguyễn Lâm vừa có buổi ra mắt tập sách
thơ nhạc mang tên 'Thiếu nữ' (NXB Trẻ). Trong cuốn sách, các tứ thơ chắt lọc qua 10
sáng tác của thi sĩ họ Bùi được hai người bạn thân phổ nhạc.
> Bùi Chí Vinh ra mắt truyện khoa học viễn tưởng/ Bùi Chí Vinh: 'Tôi chỉ là cọng rác
thơ...'
Trần Hoàng Nhân Đây là lần đầu tiên, nhà thơ giang hồ Bùi Chí Vinh có nhiều thơ được phổ nhạc cùng lúc
như thế. Ngoài 10 bản nhạc phổ thơ Bùi Chí Vinh, Thiếu nữ còn in nguyên bản gốc 10
bài thơ và kèm đĩa CD các bài hát này qua sự thể hiện của các giọng ca Huy Bảo, Thanh
Lan, Nguyễn Hiệp, Diệu Hiền và Nguyễn Lâm. Nhà thơ Bùi Chí Vinh còn trình diễn
giọng đọc thơ sang sảng, lôi cuốn của anh trước khi các bản nhạc bắt đầu.
Đây cũng là lần đầu tiên, bộ phim chân dung Bùi Chí Vinh do đạo diễn Lê Văn Duy thực
hiện được phát hành rộng rãi dưới dạng DVD kèm với tập sách và CD Thiếu nữ. Bạn bè
văn nghệ nói đùa, sắp hết năm 2011, nhà thơ Bùi Chí Vinh ôm trọn niềm vui khi cùng lúc
được phim và nhạc "lăng xê" đến đông đảo công chúng.
Một tình bạn hơn 30 năm
Nhà thơ Bùi Chí Vinh và các tác phẩm của anh thường in đậm đời sống văn nghệ vỉa hè
Sài Gòn. Còn nhạc sĩ Nguyễn Lâm, Nguyễn Hiệp lại là hai cái tên khá xa lạ trong đời
sống âm nhạc hiện nay. Khi Bùi Chí Vinh khoe ấn phẩm Thiếu nữ, nhiều người cứ nghĩ
Nguyễn Lâm, Nguyễn Hiệp "ăn theo" danh tiếng nhà thơ.
Hỏi ra mới biết, nhạc sĩ Nguyễn Hiệp quê quán ở Lâm Đồng, Nguyễn Lâm sống tại Sài
Gòn và họ là bạn thân của Bùi Chí Vinh. Riêng Nguyễn Lâm còn có biệt danh là "Lâm
Cầu Kiệu", vì anh sinh ra và lớn lên tại khu vực Cầu Kiệu - Sài Gòn hơn 50 năm nay. Cái

16



tên Lâm Cầu Kiệu lần đầu được báo chí nhắc đến khi anh mua lại bản quyền phim của
đạo diễn Lê Văn Duy làm về chân dung nhà thơ Bùi Chí Vinh. Lâm Cầu Kiệu mua phim
tài liệu của đạo diễn Lê Văn Duy đơn giản vì Lâm là bạn rất thân của Bùi Chí Vinh.
Bùi Chí Vinh cho biết: “Tôi và Lâm Cầu Kiệu là hai thằng bạn “giang hồ” sau năm 1975
cùng công tác tại Thành Đoàn TP HCM, thân nhau lắm nên Lâm mới mua phim của Lê
Văn Duy làm về tôi. Tôi và Nguyễn Hiệp từng biểu diễn chung với nhau một đêm thơ
nhạc rất thơ mộng đầu thập niên 1980 ở Trung tâm văn hóa Bảo Lộc - Lâm Đồng. Từ
những kỷ niệm đẹp đó, tôi biết "tài nghệ" Nguyễn Hiệp. Tôi biết anh vừa kiêu hãnh vừa
mặc cảm trước thời thế và chỉ mở quán “hát với nhau” sống qua ngày”.
Cơ duyên để có bộ sách đĩa thơ nhạc Thiếu nữ, Bùi Chí Vinh tiết lộ: “Lâm Cầu Kiệu
rất yêu mến thơ tôi và chính Lâm đã khích lệ Nguyễn Hiệp, gần như "dồn ép" để Hiệp nỗ
lực sáng tác 9 bài nhạc phổ thơ tôi trong một thời gian kỷ lục. 9 bài nhạc phổ thơ ấy hoàn
toàn khác xa giai điệu mà các nhạc sĩ từng phổ thơ tôi. Tôi chỉ biết nói rằng nó phảng
phất một chút gì để nhớ để thương của Sài Gòn ngày xưa và cũng rất lành mạnh với mặt
bằng xã hội phức tạp hiện nay, vừa trẻ trung vừa già dặn”.
Vốn đang sống ở Mỹ, Nguyễn Lâm cho hay: "Tại Mỹ, nhiều buổi sinh hoạt văn nghệ
trong bà con kiều bào, thơ Bùi Chí Vinh được rất nhiều người đọc. Tôi nghĩ, mình là bạn
rất thân của Vinh từ thời trẻ, từng ấp ủ phổ thơ của bạn, nhưng do lo đời sống cơm áo nên
chưa thực hiện được. Bây giờ tuổi cũng đã lớn, đời sống đã tạm ổn, sao mình không phổ
thơ Vinh thành ca khúc hát chơi và giới thiệu với nhiều người. Do khả năng của tôi có
hạn, tôi đã rủ nhạc sĩ Nguyễn Hiệp cùng thực hiện ý định này”.

17


Bìa sách thơ nhạc "Thiếu nữ".
Không chỉ dừng lại ở 10 ca khúc phổ thơ Bùi Chí Vinh, Nguyễn Lâm cho biết thêm:
“Những bài tôi và Nguyễn Hiệp phổ thơ Vinh đều gắn với kỷ niệm của tình bạn một thời.
Trong thời gian tới, dự kiến Nguyễn Hiệp và tôi sẽ phổ thơ Vinh thành 50 bài nhạc. Tôi
và nhạc sĩ Nguyễn Hiệp chơi thân với nhau qua trung gian là nhà thơ Bùi Chí Vinh vì

Vinh là bạn từ xưa của anh Hiệp. Giờ cùng hợp sức phổ thơ Bùi Chí Vinh xem như lưu
lại một dấu ấn đẹp trong đời sống này”.
Nguyễn Lâm, Nguyễn Hiệp phổ khá nhiều bài quen thuộc của Bùi Chí Vinh. Chẳng hạn,
bài Thiếu nữ, được dùng đặt tên cho cả tập sách đã được phổ biến trên nhiều sách, báo và
được Bùi Chí Vinh “xuất bản miệng” khắp nơi: “Cô gái ơi, anh nhớ em/ Như con nít nhớ

18


cà rem vậy mà/ Như con dế trống đi xa/ Một hôm nhớ đến quê nhà gáy chơi/ Con dế thì
gáy một hơi/ Riêng anh gáy suốt một thời con trai/ Tiếng gáy bò lên lỗ tai/ Làm em nhột
suốt một ngày một đêm…”.
Thơ Bùi Chí Vinh từng được rất nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, như: Lã Văn Cường với các bài
thơ Phản tống biệt hành, Ngón út... Thảo Linh tức Thao Giang với bài thơ Hậu chùa
Hương, nhạc sĩ hải ngoại Huy Đức với bài thơ Thiếu nữ, nhạc sĩ Quỳnh Hợp với bài thơ
Phản tống biệt hành… Vậy Bùi Chí Vinh cảm nhận gì về 10 bài hát của Nguyễn Hiệp,
Nguyễn Lâm so với các nhạc sĩ khác? "Nói chung là khá nhiều nhạc sĩ “liều mạng” phổ
thơ tôi và họ thường chọn những bài thơ dễ phổ nhạc nên hay bị trùng nhau ở tựa bài. Bởi
đơn giản là tôi làm thơ không phải để phổ nhạc. Tôi làm thơ để đọc trước đám đông.
Không cần âm nhạc thì thơ Bùi Chí Vinh vẫn là thơ Bùi Chí Vinh. Nhưng như đã nói,
Thiếu nữ là dấu ấn của tình bạn mà tôi trân trọng", Bùi thi sĩ bộc bạch.
Nguyễn Lâm cho biết, Thiếu nữ sẽ phát hành theo hệ thống các nhà sách tại Việt Nam và
đặc biệt tại California (Mỹ) - nơi có khoảng một triệu kiều bào. Thiếu nữ in lần đầu 2.000
bộ nhân dịp Xuân Nhâm Thìn 2012.

19




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×