Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Trình bày Định nghĩa, đối tượng và mục tiêu của Giáo dục so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.11 KB, 7 trang )

VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
LỚP CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH
QUẢN LÝ GIÁO DỤC KHOÁ 2008 – 2011
____________________________

BÀI KIỂM TRA
Môn: Giáo dục so sánh
Họ và tên học viên: Hoàng Thu Hồng
Câu hỏi:
Trình bày Định nghĩa, đối tượng và mục tiêu của Giáo dục so sánh. Cho ví
dụ minh hoạ.
Bài làm:
Giáo dục so sánh là bộ môn của khoa học giáo dục, thuộc phần lí luận khoa
học giáo dục.
Có những vấn đề và sự kiện chung với lịch sử giáo dục, triết học giáo dục và
sư phạm học đại cương.
Là bộ phận hữu cơ của mọi lĩnh vực nghiên cứu giáo dục cơ bản
Chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh của nghiên cứu khoa học
Định nghĩa về Giáo dục so sánh: Giáo dục so sánh là bộ môn nghiên cứu cơ
bản của Khoa học giáo dục. Giáo dục so sánh nghiên cứu những đặc điểm chung
nhất của lí luận và hiện thực giáo dục trên thế giới, xác định những xu thế quốc tế
trong sự phát triển giáo dục thông qua đánh giá, so sánh các nhóm nước, các cộng
đồng quốc gia và các tổ chức giáo dục quốc tế, phân tích kinh nghiệm phát triển
giáo dục của thế giới để phát triển và chia sẻ những giá trị trong quá trình phát triển
quốc gia.
Phạm vi nghiên cứu của Giáo dục so sánh rất rộng lớn, gắn với hội nhập
quốc tế trong giáo dục.
Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu của Giáo dục so sánh hiện đại:
Đối tượng: Lí luận và hiện thực giáo dục của thời đại, chủ yếu của thế giới
đương đại và các tổ chức quốc tế.
1




Mục tiêu: Những xu thế chung, những nét tương đồng và những nét khác biệt
trong sự phát triển giáo dục và khoa học giáo dục của các cộng đồng quốc gia, các
khu vực, các nước và các nền giáo dục khác nhau.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích
và nghĩa vụ, quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội đồng thời có
tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của quốc gia do đó vấn đề quản lý giáo
dục luôn luôn là vấn đề được các nước quan tâm cho dù là nước lớn hay nước nhỏ,
nước giàu hay nước nghèo, nước phát triển hay đang phát triển. Những vấn đề về
thực hiện chính sách giáo dục quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục…
cho đến vấn đề thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục…
đều liên quan đến công tác quản lý giáo dục từ bình diện quốc gia (vĩ mô) đến các
cấp quản lý giáo dục ở các địa phương, các cơ sở giáo dục – đào tạo. Do đó việc
nghiên cứu kinh nghiệm quản lý giáo dục ở các nước trên thế giới và vận dụng phù
hợp với điều kiện nước ta là một yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa rất to lớn.
So sánh mô hình quản lý giáo dục ở Hoa Kỳ và Việt Nam:
1/ Mô hình quản lý giáo dục ở Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ là một quốc gia điển hình theo cơ chế phi tập trung hoá, phân cấp,
phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương các bang và các quận giáo dục (một
đơn vị về quản lý giáo dục) về các mặt trong quản lý giáo dục và có tính hướng thị
trường rất mạnh trong đào tạo. Bộ Giáo dục liên bang là cơ quan hành pháp về giáo
dục ở cấp liên bang mới được thành lập năm 1979 trong khi nước Mỹ thành lập
cách đây đã hơn 200 năm (1789). Bộ Giáo dục liên bang chỉ tập trung thực hiện
một số chức năng chính sau:
- Xây dựng và triển khai thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển giáo
dục quốc gia và được thể chế hoá bằng Luật giáo dục Mỹ năm 2000.
- Quản lý và điều phối các chương trình trợ giúp của liên bang dành cho
công tác giáo dục mà trước đây thuộc chức năng của Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi.
Quản lý và giám sát các khoản tài trợ cho tiểu học, trung học và đại học.

2


Như vậy, Bộ Giáo dục Hoa Kỳ không thực hiện nhiều chức năng quản lý nhà
nước trực tiếp và toàn diện các mặt giáo dục đối với toàn bộ hệ thống giáo dục Hoa
Kỳ. Các chính quyền các bang, các quận giáo dục và nhà trường đặc biệt là các
trường đại học có tính tự chủ rất cao trong quản lý mọi mặt hoạt động của nhà
trường trong khuôn khổ pháp luật, Luật liên bang và các hoạt động của từng bang.
Trách nhiệm quản lý giáo dục chủ yếu thuộc về chính quyền các bang và các
quận giáo dục – là các đơn vị lãnh thổ về giáo dục với 90% kinh phí cho giáo dục
là từ nguồn kinh phí của các bang và các quận giáo dục. Chi phí của liên bang chỉ
là một phần nhỏ (10%) tổng chi phí cho giáo dục và chủ yếu được dành để phục vụ
các đối tượng khó khăn. Các đạo luật và điều lệ liên bang kiểm tra và giám sát các
bang và các địa phương chi phí các khoản tiền này ở đâu và cho đối tượng nào. Các
đạo luật và điều lệ của bang và địa phương kiểm tra giám sát nội dung và phương
pháp giảng dạy cho tất cả học sinh. Các cơ quan quản lý giáo dục của bang có trách
nhiệm và quyền hạn rất lớn trong quản lý giáo dục trong phạm vi của bang, từ xây
dựng kế hoạch chiến lược phát triển giáo dục của bang cho đến công tác phân bổ
nguồn tài chính, quản lý giáo viên…đến nội dung, chương trình đào tạo của các
loại hình giáo dục trên cơ sở luật pháp liên bang và luật pháp của từng bang.
Trong quản lý giáo dục của Hoa Kỳ, vai trò của các cộng đồng, các cơ quan
lập pháp địa phương với đại diện của nhiều tầng lớp xã hội, giới doanh nghiệp có
vai trò và vị trí rất quan trọng. Các hội đồng bang đứng đầu là thống đốc bang có
quyền lực thực sự trong việc quyết định những vấn đề phân bổ và sử dụng ngân
sách giáo dục của địa phương, xem xét và thông qua các luật, quy định có liên quan
đến giáo dục ở bang mình, quản lý tổ chức nhân sự của cơ quan giáo dục của bang
như bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm người đứng đầu cơ quan quản lý giáo dục. Tương
tự như vậy, cơ quan quản lý giáo dục quận và hiệu trưởng các trường có trách
nhiệm và quyền hạn rất lớn trong điều hành, quản lý hoạt động của mình trong
khuôn khổ pháp luật của bang và các chuẩn mực về giáo dục như hệ thống chuẩn

kiến thức - kỹ năng cho các nội dung học tập ở các trường phổ thông và hệ thống
các test kiểm tra trình độ ở các lớp cuối cấp.
3


2/ Các mô hình quản lý giáo dục ở Việt Nam:
2.1/ Mô hình quản lý tập trung và kế hoạch hoá cao:
- Giáo dục là phúc lợi xã hội, nhà nước bao cấp toàn bộ
- Tất cả mọi công việc về giáo dục muốn được thực hiện phải được kế hoạch hoá từ
trung ương đến địa phương và tới từng cơ sở
- Mọi hoạt động giáo dục đều do Nhà nước trung ương thực hiện từ khâu tuyển sinh
đến phấn phối và sử dụng
Với kiểu mô hình quản lý như thế này thì Giáo dục sẽ kém linh hoạt, năng
động, sáng tạo và kém thích ứng nhanh với nhu cầu đòi hỏi của xã hội.
2.2/ Mô hình quản lý phi tập trung và định hướng thị trường:
- Phân cấp quản lý mạnh cho địa phương và cơ sở
- Bộ Giáo dục giữ vai trò hoạch định và tổ chức thực hiện mục tiêu, chiến lược giáo
dục, hỗ trợ tài chính, quản lý các chương trình phát triển giáo dục quốc gia, xây
dựng và ban hành các chuẩn mực quốc gia về giáo dục.
- Nhà trường có quyền tự chủ cao về mọi mặt trong khuôn khổ pháp luật
- Nhân lực nhân tài cũng là một loại hàng hoá, hàng hoá đặc biệt trong thị trường
2.3/ Mô hình quản lý nhà nước về giáo dục theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa:
- Quản lý nhà nước về giáo dục theo mục tiêu: Giáo dục của dân, do dân và vì dân
- Xây dựng xã hội học tập suốt đời
- Nâng cao trách nhiệm chặt chẽ trong QLNN với các Bộ, Ban, Nghành trung ương
- Thực hiện tốt nguyên tắc: “tập trung dân chủ” trong quản lý
- Phân cấp quản lý toàn diện và triệt để cho địa phương và cơ sở giáo dục, đảm bảo
đầy đủ tính tự chủ và tụ chịu trách nhiệm cho nhà trường
- Ban hành đồng bộ các văn bản dưới luật, có kế hoạch trình Chính phủ và Quốc

hội điều chỉnh Luật giáo dục 1998 và xây dựng các bộ luật khác trong giáo dục
- Tăng cường, mở rộng hệ thống thông tin, dự báo giáo dục trong toàn ngành
- Hiện đại hoá hệ thống tổ chức và quản lý
- Sắp xếp, bố trí sử dụng cán bộ, công chức đúng người, đúng việc
4


- Xây dựng hệ thống kiểm định, kiểm tra và thanh tra giáo dục.
Để góp phần thực hiện được nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX: “Đưa nước
tar a khỏi tình trạng kém phát triển…tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng
lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh
được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”, riêng về
quản lý nhà nước về giáo dục cần tiếp tục xây dựng một mô hình quản lý thích hợp
– Mô hình quản lý nhà nước về giáo dục theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Với kiểu mô hình quản lý tập trung và kế hoạch hoá cao sẽ có những bất cập
trong quản lý giáo dục như sau:
- Quản lý nhà nước còn ôm đồm, cứng nhắc
- Giao quyền còn mang tính ban phát, nhỏ giọt
- Chưa tạo động lực và cơ chế để các trường tự thích ứng được với yêu cầu của địa
phương, thị trường
- Chưa phân định được giữa QLNN và QL nhà trường
- Chưa có lộ trình trong giao quyền tự chủ
- Thiếu chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc nhà trường thực hiện quyền tự chủ
Bởi vậy việc phân cấp quản lý giáo dục trong thời đại hiện nay là vô cùng
cần thiết và quan trọng. Phân cấp được hiểu như là sự chuyển đổi quyền ra quyết
định, trách nhiệm và nhiệm vụ từ cấp cao xuống cấp thấp hơn hoặc giữa các tổ
chức.

Nội dung phân cấp quản lý giáo dục:
1/ Quan điểm và nguyên tắc phân cấp quản lý:
- Đảm bảo quyền hành pháp và sự quản lý thông suốt giữa các cấp và các cơ quan
quản lý khác nhau
- Đảm bảo tính hiệu quả, đúng chức năng, đúng nhiệm vụ
- Phân cấp phải phù hợp với mô hình phát triển kinh tế - xã hội
5


- Phù hợp với tiến trình phát triển KT – XH & KH – CN
- Đảm bảo tính thực quyền và điều kiện thực hiện quyền cho cơ sở được phân
quyền
- Phân cấp phải mang tính đồng bộ
2/ Định hướng phân cấp QLGD:
- Đổi mới tổ chức, quản lý để đáp ứng người học, đáp ứng phát triển KT – XH và
thị trường lao động
- Xây dựng nền giáo dục truyền thống, hiện đại, chất lượng và hội nhập
- Nhà trường không chỉ cung cấp thông tin, mà còn là nơi vận dụng tri thức vào
cuộc sống có hiệu quả
- Chống chủ nghĩa bình quân trong giáo dục
- Từng thành viên trong trường phát huy hết năng lực, sở trường, sáng tạo trong dạy
và học
- Chuyển QLGD từ QLHC sang QL chất lượng
- Cạnh tranh lành mạnh, xây dựng thương hiệu trường
3/ Mục tiêu phân cấp QLGD:
- Tăng quyền tự chủ, tính năng động, sáng tạo, linh hoạt, quyền hạn và trách nhiệm
XH cho nhà trường
- Đảm bảo cho mọi hoạt động giáo dục liên thông từ trung ương đến nhà trường và
không bị QLGD gây ách tắc
- Từng nhà trường có điều kiện thực hiện tốt và đầy đủ chức năng và nhiệm vụ của

mình với thực quyền.
Như vậy, Quyền tự chủ và trách nhiệm của nhà trường là động lực chủ yếu
và là đòn bẩy để phát triển nhà trường Việt Nam truyền thống, tiên tiến và hiện đại.
Là giải pháp cơ bản để xoá bỏ cơ chế “xin – cho” hiện vẫn đang còn tồn tại trong
QLGD ở nước ta. Giao quyền tự chủ và trách nhiệm đầy đủ cho nhà trường sẽ là
“khoán 10” đối với phát triển nhà trường. Đây là con đường ngắn nhất, hiệu quả
nhất để nhà trường Việt Nam có chất lượng và sớm hội nhập được với các nền GD
tiên tiến, hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
6


7



×