Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Lịch sử các tư tưởng giáo dục tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.56 KB, 12 trang )

Bạn đã thu hoạch được những gì sau khi học chuyên đề “Lịch sử các tư
tưởng giáo dục Việt Nam”?
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước CN) tại một số trung tâm văn
hoá cổ đại của nhân loại như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại
với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu
sống; song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có
thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút
ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ;
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã
nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,
thành lý luận và triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu
của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao
hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư
cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động
của chỉnh thể của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người
trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới
dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới.
Triết học nghiên cứu thế giới dưới dạng một chỉnh thể, trên bình diện rộng (cả tự
nhiên, xã hội và tư duy), trong mối quan hệ nhiều chiều. Tìm những quy luật



chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó. Triết học là phương pháp
luận chung của nhận thức khoa học.
Triết học giáo dục là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu và vận dụng các
phương pháp triết học để giải quyết các vấn đề về giáo dục như: Các phương
pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm (Quan sát, Thí nghiệm); Các phương pháp
xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học (Phân tích và tổng hợp, Quy nạp và
diễn dịch, Lịch sử và logic, Từ trừu tượng đến cụ thể). Triết học giáo dục là
những quan điểm, những nguyên tắc chủ yếu và chung nhất có tính chất phương
pháp luận làm chơ sở cho việc nghiên cứu khoa học và cải tạo thực tiễn giáo
dục.
Triết học giáo dục là một bộ phận của triết học, triết học giáo dục phải
bảo đảm một số tính chất sau đây khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục :
- Tính bản chất: nó phải tìm tòi, phát hiện những vấn đề bản chất của đối
tượng nghĩa là những nội dung bên trong quan trọng nhất, những cái gốc gác,
cội nguồn như cấu trúc, quy luật, những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của đối
tượng.
- Tính phổ quát: nghĩa là phải nghiên cứu đối tượng dưới một dạng tổng thể
với một phạm vi và quy mô rộng lớn, trong mối quan hệ nhiều chiều.
- Tính nhất quán: bảo đảm tính hệ thống và chặt chẽ về mặt logic trong tất
cả các khâu của quá trình lập luận.
- Tính quy luật: đảm bảo nghiên cứu đối tượng trong dạng luôn luôn vận
động và biến đổi…
- Trình bày vấn đề dưới một dạng lí luận có hệ thống, cô đọng và duy lý.
Mục đích của triết học giáo dục là xác định được những quan điểm chủ
yếu và lý giải được các vấn đề giáo dục một cách đúng đắn, rõ ràng, nhất quán
và hệ thống nhằm nâng cao chất lượng lí luận giáo dục, góp phần cải tạo thực
tiễn giáo dục.
Để làm được điều đó, các nhà triết học giáo dục thường phải đi theo hai
con đường:



- Phân tích luận điểm của các nhà triết học lớn trong quá khứ, vì vậy có
nhiều phần trùng với lịch sử giáo dục. Việc nghiên cứu lịch sử triết học, tìm
kiếm những mâu thuẫn giữa logic và lịch sử trên cơ sở đối chiếu với hiện đại để
rút ra những bài học kinh nghiệm sẽ làm cho các vấn đề lí luận hiện đại có độ tin
cậy cao hơn.
- Khảo sát thực tiễn, làm rõ mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, quan
tâm đặc biệt tới việc tìm kiếm các con đường ứng dụng lí luận vào thực tiễn, sao
cho các quan điểm triết học giáo dục đi vào quần chúng, được những người bình
thường như các bà nội trợ, người công nhân, người nông dân chấp nhận và vận
dụng việc dạy dỗ con cái họ trong cuộc sống hàng ngày.
Nếu như triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình
khác với mọi khoa học cụ thể. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm
cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực
hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản
thân tư tưởng triết học. Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là
nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người,
mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế
giới xung quanh.
Còn đối tượng của triết học giáo dục Việt Nam là hệ thống những tư
tưởng quan điểm cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lí luận và thực tiễn giáo
dục trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành nhân cách và hệ thống giáo dục
quốc dân trong dạng chỉnh thể.
Để làm được điều đó cần phải tiến hành những việc cụ thể sau:
- Nghiên cứu lịch sử triết học giáo dục thế giới
+ Lịch sử giáo dục cổ đại Trung Hoa, châu Á và châu Âu
+ Lịch sử giáo dục châu Âu thời kì phục hưng và Triết học Ánh sang (thế
kỷ XVI – XVIII…)
+ Lịch sử giáo dục CNXH



- Lịch sử tư tưởng giáo dục Việt Nam thời phong kiến
- Triết học giáo dục Việt Nam hiện đại (từ Cách mạng tháng tám đến nay)
+ Nghiên cứu các quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh
+ Nghiên cứu các thành tựu mới của khoa học giáo dục thế giới và kết quả
vận dụng vào Việt Nam.
Ngoài ra, còn cần tìm hiểu văn hoá và con người Việt Nam truyền thống
và hiện đại, vì không hiểu văn hoá và con người Việt Nam thì cũng không hiểu
được các vấn đề cội nguồn của giáo dục.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, ngoài triết học người ta thường hay dùng thuật
ngữ triết lí. Vậy triết lí là gì? Theo từ điển tiếng Việt, triết lí là: Quan điểm
chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo từ điển Hán
Việt, triết lí là: lí luận về triết học. Từ đó, chúng ta có thể hiểu: Triết lí là những
quan điểm được khái quát từ cuộc sống, nhằm chỉ đạo sự suy nghĩ và hành động
của con người.
Triết lí giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề của giáo dục
thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và hành
động của con người về các vấn đề giáo dục.
Như vậy, triết lí và triết học có sự tương đồng nhau, nhưng triết lí thường
đề cập tới một vấn đề cụ thể, còn triết học là một khoa học, được xây dựng từ
một hệ thống tư tưởng, quan điểm với các khái niệm, phạm trù, đối tượng và
phương pháp riêng…
Trong thực tiễn, để điều hành, lãnh đạo một sự nghiệp hay một lĩnh vực
nào đó không phải chỉ bằng những triết lí cụ thể mà phải bằng hệ thống những
định hướng tư tưởng và định hướng khoa học mang tầm triết học. Do vậy, vai
trò của triết lí và triết học giáo dục có tầm quan trọng trong sự nghiệp phát triển
giáo dục, vì nó là những tư tưởng cốt lõi tạo nên bản sắc cho sự phát triển bền
vững của nền giáo dục; là công cụ định hướng cho nhận thức và hành động; là
phương tiện, cách thức để tiến hành các hoạt động giáo dục của con người.



Trong triết học giáo dục, thường gặp một số khái niệm và phạm trù cơ
bản:
- Vật chất, ý thức, vận động, phát triển, mâu thuẫn, động lực…;
- Phương pháp luận, hệ thống, cấu trúc, mô hình, di truyền, lịch sử…;
- Số lượng, chất lượng, khách quan, chủ quan, nguyên nhân, kết quả…;
- Nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nhân tố xã hội,
nhân tố sinh học…;
- Lí tưởng, niềm tin, giá trị, định hướng giá trị, hệ thống giá trị xã hội…;
- Thầy giáo, học sinh, nhà trường, sách giáo khoa, thiết bị dạy học…;
- Giáo dục, giáo dưỡng, dạy học, quá trình giáo dục, quá trình dạy học,
hoạt động, giao lưu, sư phạm, năng lực sư phạm, đào tạo…;
- Mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, kết quả…;
- Đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục…;
- Hệ thống giáo dục quốc dân, công bằng và dân chủ trong giáo dục,
nguyên lí giáo dục, phổ cập giáo dục, xã hội hoá giáo dục, môi trường giáo
dục…;
- Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học…;
- Giáo dục thường xuyên, giáo dục chính quy, không chính quy, quốc lập,
tư thục…;
Đó là một số khái niệm và phạm trù chung nhất phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của các vấn đề
giáo dục nói chung.
Trong số các khái niệm và phạm trù trên đây cần lưu ý đến một số khái
niệm và phạm trù đặc biệt quan trọng như: nhân cách, quá trình hình thành và
phát triển nhân cách, quá trình giáo dục, quá trình dạy học, hệ thống giáo dục
quốc dân.
Trong lịch sử phát triển của loài người, các tư tưởng giáo dục khác nhau

được nảy sinh không chỉ trên những điều kiện kinh tế xã hội tương đồng, phản


ánh trình độ phát triển khác nhau của xã hội, mà còn được nảy sinh trên những
quan điểm triết học, thế giới quan nhất định. Do vậy, để giúp chúng ta hiểu biết
sâu sắc và toàn diện hơn các tư tưởng giáo dục trong lịch sử, ta sẽ nghiên cứu
triết học giáo dục ở từng giai đoạn và khu vực cụ thể:
1. Triết học giáo dục phương Đông:
Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại đã là hai nền văn minh lớn trên thế giới với
sự phát triển rực rỡ của triết học, trong đó có triết học giáo dục.
Người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy
tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của
con người.
Ở Ấn Độ thuật ngữ triết học có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm
ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với
lẽ phải.
Từ thời Cổ đại, phương Đông đã đóng góp cho loài người nhiều nhà triết
học kiệt xuất như: Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Hàn Phi Tử,
Phật Thích ca Mâu Ni…
Ở đây, ta chỉ giới hạn việc tìm hiểu những tư tưởng triết học giáo dục của
Khổng Tử, nhằm góp phần tìm kiếm con đường xây dựng tư tưởng triết học giáo
dục Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.
Khổng Tử (551 – 479 trước CN)
Là nhà giáo dục lớn của phương Đông và của cả loài người được coi là
“Vạn thế sư biểu” nghĩa là người thầy của muôn đời.
Mục đích dạy học của Khổng Tử: xây dựng một xã hội ổn định và hoà
mục. Muốn thế, một người làm quan cai trị dân, người quân tử phải có phẩm
chất đẹp là: Nhân và Lễ, phải luôn rèn luyện mình.
Trang bị phẩm chất này ở mỗi con người là điều vô cùng quan trọng trong
mọi xã hội. Con người không có những phẩm chất này không thể xây dựng một

xã hội hoà mục. Như vậy, có thể thấy rằng, mô hình nhân cách người quân tử
chỉ dừng lại trong mối quan hệ người - người, điều này có nghĩa mới chỉ xét đến


mặt phẩm chất của nhân cách. Quan hệ giữa con người và công việc, con người
và tự nhiên, nghĩa là mặt năng lực hầu như chưa được xét đến.
Đối tượng dạy học: Học thuyết nho giáo chỉ dành cho một số ít người gọi
là quân tử.
Nguyên lí tu thân: nguyên lý xuyên suốt tư tưởng của Khổng học, tạo nên
tính nhất quán, tức tính triết học của Khổng Tử là ở chữ Thứ. Thứ là điều gì
mình muốn cho mình thì làm điều ấy cho người khác, điều gì mình không muốn
cho mình thì đừng làm cho người khác.
Đây là chân lý quán triệt toàn bộ học thuyết của Khổng Tử.
Phương pháp tiếp cận nhận thức và cải tạo thế giới: được trình bày thành
một quá trình nhất quán và xuất phát từ chính mình..
Nội dung giáo dục: nội dung trong các sách mà Khổng Tử biên soạn để
dạy học đều có từ trước, là học vấn chung của Trung Hoa cổ đại. Các đời sau tập
hợp lại, bổ sung, phụ hoạ them, nay còn lại 5 kinh là: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh
Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.
Kinh Thư là bộ sách ghi chép những lời vua tôi dạy bảo, khuyên răn nhau
từ thời vua Nghiêu đến thời Đông Chu. Kinh Thư có cả thảy 59 thiên.
Kinh Thi là bộ sách chép những bài ca, bài đồng giao từ thời thượng cổ
đến nhà Chu. Ba trăm bài trong Kinh Thi thì lấy một lời mà nói trùm cả là:
Không nghĩ bậy.
Kinh Lễ là bộ sách ghi chép những quy tắc, lễ nghi để nuôi dưỡng những
tình cảm tốt của con người, để giữ cho trật tự xã hội được phân minh và hạn chế
cái dục vọng bất chính.
Kinh Nhạc là bộ sách nhạc cổ do Khổng Tử biên soạn lại, bao gồm cả
nhạc cụ, nhạc khí, múa hát và xướng hoạ, thơ ca. Nhạc và lòng người cảm hoá
lẫn nhau, nhạc có thể truyền cảm, ảnh hưởng đến tính chất con người, làm cho

con người trở thành thiện hay ác.
Kinh Xuân Thu là bộ sách do Khổng Tử sang tạo theo lối văn làm sử.
Nhưng thực chất đây là một cuốn sách triết học thể hiện các quan điểm chính trị
của Khổng Tử.


Ngoài ra còn có sách Luận ngữ, dạy người ta cái đạo làm quân tử một
cách thực tế.
Phương pháp sư phạm: là một nhà sư phạm kiệt xuất, nhạy cảm đối với
năng lực và cảnh ngộ học trò, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xử lý tình huống sư
phạm một cách uyển chuyển, dễ hiểu và cảm hoá con người, làm cho học trò hết
sức tin yêu, kính phục.
Phương pháp giáo dục: Khổng Tử coi trọng việc:
- Tự học, tự luyện, tu nhân...
- Phát huy mặt tích cực sáng tạo, phát huy năng lực nội sinh ;
- Dạy sát đối tượng, cá biệt hoá đối tượng
- Kết hợp học và hành, lý thuyết với thực tiễn
- Phát triển hứng thú, động cơ, ý chí của người học.
Đây vẫn là những bài học lớn cho nhà nhà trường hiện đại.
2. Triết học giáo dục phương Tây :
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ
tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học nghĩa là yêu mến sự thông thái.
Với người Hy Lạp, triết học vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát
vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Qua các thời kỳ lịch sử, các nền văn hoá khác nhau, các tư tưởng quan
điểm giáo dục đã xuất hiện rất phong phú và đa dạng. Những vấn đề được các
nhà triết học lớn của các thời đại quan tâm là : bản chất nhận thức, bản chất của
tư duy, chân lí, đạo đức, tính thiện, cái đẹp, mục đích cuộc sống...Đó là những
vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định bản chất quá trình giáo dục,
chức năng, nhiệm vụ, quy luật, động lực, mục đích, nội dung, phương pháp, hình

thức tổ chức giáo dục...
Đại biểu tiêu biểu cho nền triết học giáo dục phương Tây là Komensky
Komensky (1592 – 1670) là nhà giáo Tiệp Khắc yêu nước, nhà sư phạm
lỗi lạc của thế giới, được người đời thừa nhận là « Ông tổ của nền giáo dục cận


đại ». Không những là một nhà lí luận, ông còn tích cực lao mình vào những
hoạt động thực tiễn, viết sách giáo khoa, cải tạo nhà trường vì mục đích cao cả.
Quan điểm giáo dục của Komensky có những điểm đáng chú ý sau :
- Chịu ảnh hưởng lớn quan điểm triết học của Bêcơn (nhà duy vật Anh thế kỷ
XVII), thừa nhận Thuyết duy cảm cho rằng, cảm giác là nguồn gốc của kiến
thức. Từ luận điểm này, ông đã đưa ra nhiều nguyên tắc dạy học, trong đó có
« nguyên tắc trực quan » được ông gọi là « nguyên tắc vàng ngọc ». Đó là một
tư tưởng tiến bộ đương thời và còn là bài học cho các nhà giáo hiện nay.
- Komensky cho rằng, con người là một thực thể của tự nhiên, vì vậy việc giáo
dục con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên. Các nguyên tắc dạy học và
giáo dục mà ông nêu lên luôn luôn được rút ra từ những quy luật chung của tạo
hoá.
1. Mục đích dạy học : đào tạo con người phát triển toàn diện theo quy luật tự
nhiên
2. Nội dung dạy học :
Những nội dung trong tác phẩm chính là thành tố của quá trình dạy học
như mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học, kết quả
dạy học và mối quan hệ của chúng. Komensky đã lựa chọn những kiến thức, kỹ
năng, thái độ quan trọng nhất làm nền tảng cho sự phát triển lâu dài của hệ thống
tri thức, kỹ năng, thái độ. Về mặt cấu trúc Komensky đã sắp xếp từ cái chung
đến cái riêng, cái tổng quát đến cái chi tiết.
3. Phương pháp: Komensky đã dùng phương pháp trực quan và thực nghiệm
4. Hình thức dạy học:
Komensky là người có cống hiến lớn nhất khi đã đề cập đến hình thức lớp

– bài. Đây chính là tổ chức cơ sở bảo đảm các hoạt động của nhà trường và hình
thức này hiện nay vẫn đúng cho nhà trường hiện đại.
5. Những nguyên tắc mà Komensky đã nêu ra mặc dù cách đây đã gần 400 năm
nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị bởi vì nó là nội dung tổng kết từ thực tiễn
giáo dục và dạy học. Ở góc độ dạy học kỹ thuật thì một số lớn nguyên tắc,
nguyên lý mà ông đã nêu ra lại càng phù hợp với thực tiễn dạy học kỹ thuật hiện


nay. Ví dụ: Nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với thực tiễn, nhà
trường gắn liền với xã hội; tư tưởng quy trình công nghệ xuyên suốt trong quá
trình hình thành kỹ năng nghề nghiệp của học sinh, nguyên tắc học thông thạo
hay đào tạo theo năng lực thực hiện cũng là những vấn đề mà đến hiện nay cũng
còn là những vấn đề khá mới mẻ. Trong đào tạo kỹ năng nghề cần phải có nội
dung lý thuyết cơ sở để người học có thể học được kỹ năng nhưng đồng thời
hoạt động làm mẫu của giáo viên phải thật chuẩn xác, rõ ràng để học sinh có thể
quan sát bắt chước, làm lại hoặc ứng dụng vào các trường hợp tương tự. Trong
dạy học kỹ thuật, phương pháp trực quan là không thể thiếu được, sự chuẩn bị
đầy đủ phương tiện, đồ dùng dạy học góp phần quan trọng cho việc giảng dạy
thực hành kỹ thuật; trong dạy học kỹ thuật cũng đề cập đến tác dụng nhớ lâu (trí
nhớ) khi người học được tiếp nhận thông qua càng nhiều giác quan càng tốt.
6. Những hạn chế của Komensky:
6.1 Những nguyên tắc dạy học do Komensky đề xuất là rất có giá trị, nhưng cần
điều chỉnh lại một số vấn đề như mối quan hệ giữa trực quan và trừu tượng.
Trực quan chỉ cho phép nhận thức được những biểu hiện bề ngoài của sự vật.
Phải phối hợp trực quan và trừu tượng mới cho phép tìm hiểu được bản chất của
các sự vật và quá trình. Nhất là trong điều kiện hiện đại, khi đi sâu vào tìm hiểu
thế giới vi mô, siêu vĩ mô và những quá trình trừu tượng thì việc tuyệt đối hoá ý
nghĩa của trực quan là không thích hợp vì tư duy trừu tượng giữ vai trò vô cùng
quan trọng.
6.2 Komensky cho rằng con người là một thực thể tự nhiên, việc giáo dục con

người phải phù hợp với quy luật tự nhiên. Tư tưởng này đã xuyên suốt toàn bộ
tác phẩm “Lý luận dạy học” của ông. Tuy nhiên ông không thấy được con người
còn là một thực thể xã hội và mối quan hệ giữa con người với xã hội, sự phát
triển của một con người vừa có quá trình xã hội hoá và cá nhân hoá.
6.3 Komensky cho rằng sự phát triển của học sinh là theo một tiến trình tương
ứng với các thời điểm nhất định mà không thấy sự nhảy vọt của sự phát triển
con người cũng như các sự vật hiện tượng khác.


6.4 Komensky cho rằng nội dung và chương trình giáo dục chủ yếu là do nhà
trường, tuỳ thuộc vào giáo viên nhưng thực chất nguồn nội dung giáo dục không
còn giới hạn bởi nhà trường và thầy giáo nữa mà nội dung hiện nay học sinh còn
được tiếp nhận từ các nguồn khác.
14/ Triết lí giáo dục: lặp lại phần đầu
Trong ngôn ngữ Việt Nam, ngoài triết học người ta thường hay dùng thuật
ngữ triết lí. Theo từ điển tiếng Việt, triết lí là: Quan điểm chung của con người
về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo từ điển Hán Việt, triết lí là: lí luận về
triết học. Vậy, triết lí là nhũng quan điểm được khái quát từ cuộc sống, nhằm chỉ
đạo sự suy nghĩ và hành động của con người.
Triết lí giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề của giáo dục
thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và hành
động của con người về các vấn đề giáo dục.
Như vậy, triết lí và triết học có sự tương đồng với nhau, nhưng triết lí
thường đề cập tới một vấn đề cụ thể, còn triết học là một khoa học, được xây
dựng từ một hệ thống tư tưởng, quan điểm với các khái niệm, phạm trù, đối
tượng và phương pháp riêng…
Trong thực tiễn, để điều hành, lãnh đạo một sự nghiệp hay một lĩnh vực
nào đó không phải chỉ bằng những triết lí cụ thể mà phải bằng hệ thống những
định hướng tư tưởng và định hướng khoa học mang tầm triết học. Do vậy, vai
trò của triết lí và triết học giáo dục có tầm quan trọng trong sự nghiệp phát triển

giáo dục, vì nó là những tư tưởng cốt lõi tạo nên bản sắc cho sự phát triển bền
vững của nền giáo dục; là công cụ định hướng cho nhận thức và hành động; là
phương tiện, cách thức để tiến hành các hoạt động giáo dục của con người.




×