Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tổng quan về Triết học trong đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.82 KB, 16 trang )

I/ Khái lược về triết học:
1/ Khái niệm triết học:
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước CN) tại một số trung tâm văn
hoá cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Người Trung Quốc
hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Ở Ấn Độ thuật ngữ triết học có nghĩa là chime ngưỡng, nhưng mang hàm
ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với
lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ
tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học nghĩa là yêu mến sự thông thái.
Với người Hy Lạp, triết học vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát
vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học
đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người,
nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao
hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư
cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động
của chỉnh thể của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người
trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới
dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu
sống; song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có
thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút
ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.



Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã
nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,
thành lý luận và triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu
của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
2/ Triết học giáo dục là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu và vận dụng các
phương pháp triết học để giải quyết các vấn đề về giáo dục, là những quan điểm,
những nguyên tắc chủ yếu và chung nhất có tính chất phương pháp luận làm cơ
sở cho việc nghiên cứu khoa học và cải tạo thực tiễn giáo dục.
Triết học giáo dục là một bộ phận của triết học, triết học giáo dục phải
bảo đảm một số tính chất sau đây khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục:
- Tính bản chất: nó phải tìm tòi, phát hiện những vấn đề bản chất của đối
tượng nghĩa là những nội dung bên trong quan trọng nhất, những cái gốc gác,
cội nguồn như cấu trúc, quy luật, những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của đối
tượng.
- Tính phổ quát: nghĩa là phải nghiên cứu đối tượng dưới một dạng tổng thể
với một phạm vi và quy mô rộng lớn, trong mối quan hệ nhiều chiều.
- Tính nhất quán: bảo đảm tính hệ thống và chặt chẽ về mặt logic trong tất
cả các khâu của quá trình lập luận.
- Tính quy luật: đảm bảo nghiên cứu đối tượng trong dạng luôn luôn vận
động và biến đổi…
- Trình bày vấn đề dưới một dạng lí luận có hệ thống, cô đọng và duy lý.
Mục đích của triết học giáo dục là xác định được những quan điểm chủ
yếu và lý giải được các vấn đề giáo dục một cách đúng đắn, rõ ràng, nhất quán
và hệ thống nhằm nâng cao chất lượng lí luận giáo dục, góp phần cải tạo thực
tiễn giáo dục.
Để làm được điều đó, các nhà triết học giáo dục thường phải đi theo hai
con đường:
- Phân tích luận điểm của các nhà triết học lớn trong quá khứ, vì vậy có

nhiều phần trùng với lịch sử giáo dục. Việc nghiên cứu lịch sử triết học, tìm


kiếm những mâu thuẫn giữa logic và lịch sử trên cơ sở đối chiếu với hiện đại để
rút ra những bài học kinh nghiệm sẽ làm cho các vấn đề lí luận hiện đại có độ tin
cậy cao hơn.
- Khảo sát thực tiễn, làm rõ mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, quan
tâm đặc biệt tới việc tìm kiếm các con đường ứng dụng lí luận vào thực tiễn, sao
cho các quan điểm triết học giáo dục đi vào quần chúng, được những người bình
thường như các bà nội trợ, người công nhân, người nông dân chấp nhận và vận
dụng việc dạy dỗ con cái họ trong cuộc sống hàng ngày.
3/ Đối tượng của triết học:
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri
thức, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng.
Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa
học của mọi khoa học, đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại. Thời
kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in
đậm đới với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần học. Nền triết học tự
nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. Triết học lúc này phát triển một cách
chậm chạp trong môi trường chật hẹp của đêm trường trung cổ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo một cơ
sở vững chắc cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc
biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất
là các khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập.
Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã
phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo

và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII ở Anh,
Pháp, Hà Lan với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ (Anh),
Điđrô, Henvêtiuyt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…Tư duy triết học cũng được phát


triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại
biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và đầu
thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan
niệm “khoa học của các khoa học”, triết học mác xít xác định đối tượng nghiên
cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập
trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với
mọi khoa học cụ thể. Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra
một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được
bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân tư tưởng
triết học. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Chính vì tính đặc thù
như vậy của đối tượng triết học mà vấn đề tư cách khoa học của triết học và đối
tượng của nó đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. Nhiều
học thuyết triết học hiện đại ở phương Tây muốn từ bỏ quan niệm truyền thống
về triết học, xác định đối tượng nghiên cứu riêng cho mình như mô tả những
hiện tượng tinh thần, phân tích ngữ nghĩa, chú giải văn bản…
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những
vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của
con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
4/ Đối tượng của triết học giáo dục:
Triết học giáo dục nghiên cứu gì?
Qua nghiên cứu lịch sử, phân tích thực trạng và yêu cầu xây dựng đối với
giáo dục, có thể xác định đối tượng của triết học giáo dục Việt Nam là hệ thống

những tư tưởng quan điểm cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lí luận và thực
tiễn giáo dục trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành nhân cách và hệ thống
giáo dục quốc dân trong dạng chỉnh thể.
Để làm được điều đó cần phải tiến hành những việc cụ thể sau:
- Nghiên cứu lịch sử triết học giáo dục thế giới


+ Lịch sử giáo dục cổ đại Trung Hoa, châu Á và châu Âu
+ Lịch sử giáo dục châu Âu thời kì phục hưng và Triết học Ánh sang (thế kỷ
XVI – XVIII…)
+ Lịch sử giáo dục CNXH
- Lịch sử tư tưởng giáo dục Việt Nam thời phong kiến
- Triết học giáo dục Việt Nam hiện đại (từ Cách mạng tháng tám đến nay)
+ Nghiên cứu các quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh
+ Nghiên cứu các thành tựu mới của khoa học giáo dục thế giới và kết quả vận
dụng vào Việt Nam.
Ngoài ra, còn cần tìm hiểu văn hoá và con người Việt Nam truyền thống
và hiện đại, vì không hiểu văn hoá và con người Việt Nam thì cũng không hiểu
được các vấn đề cội nguồn của giáo dục.
5/ Triết lí giáo dục:
Trong ngôn ngữ Việt Nam, ngoài triết học người ta thường hay dùng thuật
ngữ triết lí. Vậy triết lí là gì? Theo từ điển tiếng Việt, triết lí là: Quan điểm
chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo từ điển Hán
Việt, triết lí là: lí luận về triết học. Từ đó, chúng ta có thể hiểu: Triết lí là những
quan điểm được khái quát từ cuộc sống, nhằm chỉ đạo sự suy nghĩ và hành động
của con người.
Triết lí giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề của giáo dục
thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và hành
động của con người về các vấn đề giáo dục.

Như vậy, triết lí và triết học có sự tương đồng nhau, nhưng triết lí thường
đề cập tới một vấn đề cụ thể, còn triết học là một khoa học, được xây dựng từ
một hệ thống tư tưởng, quan điểm với các khái niệm, phạm trù, đối tượng và
phương pháp riêng…
Trong thực tiễn, để điều hành, lãnh đạo một sự nghiệp hay một lĩnh vực
nào đó không phải chỉ bằng những triết lí cụ thể mà phải bằng hệ thống những
định hướng tư tưởng và định hướng khoa học mang tầm triết học. Do vậy, vai


trò của triết lí và triết học giáo dục có tầm quan trọng trong sự nghiệp phát triển
giáo dục, vì nó là những tư tưởng cốt lõi tạo nên bản sắc cho sự phát triển bền
vững của nền giáo dục; là công cụ định hướng cho nhận thức và hành động; là
phương tiện, cách thức để tiến hành các hoạt động giáo dục của con người.
6/ Các khái niệm và phạm trù cơ bản:
Khái niệm là hình thức của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính
cơ bản của một lớp những sự vật hiện tượng nhất định của hiện thực khách quan.
Khái niệm rộng nhất thì được gọi là phạm trù.
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc
một lĩnh vực nhất định.
6 cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
- Cái riêng và cái chung: cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được
lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Nguyên nhân và kết quả: nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi
nhất định nào đó. Còn kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác
động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây
ra.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên: ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ
bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân
tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có
thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể
xuất hiện khác đi.
- Nội dung và hình thức: Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt,
những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Còn hình thức là phạm trù chỉ
phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.


- Bản chất và hiện tượng: bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận
động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra “bên
ngoài” của bản chất.
- Khả năng và hiện thực: Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên
thực tế. Khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế,
nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng.
7/ Một số khái niệm và phạm trù cơ bản của triết học giáo dục thường gặp:
- Vật chất, ý thức, vận động, phát triển, mâu thuẫn, động lực…;
- Phương pháp luận, hệ thống, cấu trúc, mô hình, di truyền, lịch sử…;
- Số lượng, chất lượng, khách quan, chủ quan, nguyên nhân, kết quả…;
- Nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nhân tố xã hội, nhân
tố sinh học…;
- Lí tưởng, niềm tin, giá trị, định hướng giá trị, hệ thống giá trị xã hội…;
- Thầy giáo, học sinh, nhà trường, sách giáo khoa, thiết bị dạy học…;
- Giáo dục, giáo dưỡng, dạy học, quá trình giáo dục, quá trình dạy học, hoạt
động, giao lưu, sư phạm, năng lực sư phạm, đào tạo…;
- Mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, kết quả…;
- Đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục…;

- Hệ thống giáo dục quốc dân, công bằng và dân chủ trong giáo dục, nguyên lí
giáo dục, phổ cập giáo dục, xã hội hoá giáo dục, môi trường giáo dục…;
- Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học…;
- Giáo dục thường xuyên, giáo dục chính quy, không chính quy, quốc lập, tư
thục…;
Đó là một số khái niệm và phạm trù chung nhất phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của các vấn đề
giáo dục nói chung.
Trong số các khái niệm và phạm trù trên đây cần lưu ý đến một số khái
niệm và phạm trù đặc biệt quan trọng như: nhân cách, quá trình hình thành và


phát triển nhân cách, quá trình giáo dục, quá trình dạy học, hệ thống giáo dục
quóc dân.
8/ Phương pháp nghiên cứu của triết học:
Phương pháp theo nghĩa thông thường là những cách thức, con đường thủ
đoạn được chủ thể sử dụng để đạt được mục đích nào đó.
Theo nghĩa khoa học thì phương pháp là hệ thống những nguyên tắc mà
chủ thể phải thực hiện nhất quán trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn để nhằm đạt được mục đích đề ra.
Một số phương pháp nhận thức khoa học:
a/ Các phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm
- Quan sát
- Thí nghiệm
b/ Các phương pháp xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học
- Phân tích và tổng hợp
- Quy nạp và diễn dịch
- Lịch sử và logic
- Từ trừu tượng đến cụ thể

9/ Phương pháp nghiên cứu của triết học giáo dục:
Triết học giáo dục nghiên cứu, các vấn đề giáo dục trong một dạng chỉnh
thể và đưa ra một hệ thống các quan điểm, các giải pháp về chỉnh thể đó.
Trong quá trình nghiên cứu, triết học giáo dục luôn luôn quan tâm tới các
mối liên hệ giữa các yếu tố của quá trình giáo dục, của hệ thống giáo dục quốc
dân, sự tác dụng tương hỗ và nhiều nhiều giữa chúng, và giữa chúng với môi
trường kinh tế - xã hội. Đồng thời, triết học giáo dục luôn luôn xem xét đối
tượng trong dạng vận động và biến đổi, và giải thích các vấn đề giáo dục chủ
yếu bằng lí luận.
10/ Triết học phương Đông:
a/ Đặc điểm triết học Ấn Độ cổ - Trung đại:
- Triết học Ấn Độ chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo


- Các tư tưởng triết học giai đoạn trước thường được giai đoạn sau kế thừa và
phát triển
- Khi bàn về bản thể luận, một số học pưasi đem đối lập “không” và “có”, quy
cái “có” về cái “không”. Điều đó thể hiện trình độ tư duy trừu tượng khá cao.
b/ Đặc điểm triết học Trung hoa cổ - Trung đại:
- Coi trọng triết học nhân sinh, đạo đức, chính trị, lịch sử, ít coi trọng triết học tự
nhiên
+ Nho gia và Pháp gia là hai trường phái tiêu biểu coi hoạt động thực tiễn chính
trị, đạo đức là mục tiêu trực tiếp (với học thuyết nhân trị và pháp trị)
+ Mặc gia thời Xuân Thu cũng coi trọng hàng đầu vấn đề thực tiễn chính trị, đạo
đức (qua học thuyết kiêm ái, ghi công, thượng đồng) những giai đoạn Hậu Mặc
lại có xu hướng đi vào các vấn đề nhận thức luận
+ Đạo gia coi mục tiêu chính là xuất thế, đạt tới lý thuyết về sự hoà hợp giữa
con người và giới tự nhiên, nhưng giai đoạn Xuân Thu cũng đề cập Vô vi trị
(đạo đức kinh).
+ Âm dương Ngũ hành gia, xét theo nội dung vốn có của nó là bàn về bản thể

luận và biến dịch luận, nhưng trong quá trình phát triển đã trở thành vũ trụ quan
của Nho gia và có ảnh hưởng quan trọng tới Đạo gia.
11/ Triết học giáo dục phương Đông:
Từ thời Cổ đại, phương Đông đã đóng góp cho loài người nhiều nhà triết
học kiệt xuất như: Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Hàn Phi Tử,
Phật Thích ca Mâu Ni…
Ở đây, ta chỉ giới hạn việc tìm hiểu những tư tưởng triết học giáo dục của
Khổng Tử, nhằm góp phần tìm kiếm con đường xây dựng tư tưởng triết học giáo
dục Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.
Khổng Tử (551 – 479 trước CN)
Là nhà giáo dục lớn của phương Đông và của cả loài người được coi là
“Vạn thế sư biểu” nghĩa là người thầy của muôn đời.


Mục đích dạy học của Khổng Tử: xây dựng một xã hội ổn định và hoà
mục. Muốn thế, một người làm quan cai trị dân, người quân tử phải có phẩm
chất đẹp là: Nhân và Lễ, phải luôn rèn luyện mình.
Trang bị phẩm chất này ở mỗi con người là điều vô cùng quan trọng trong
mọi xã hội. Con người không có những phẩm chất này không thể xây dựng một
xã hội hoà mục. Như vậy, có thể thấy rằng, mô hình nhân cách người quân tử
chỉ dừng lại trong mối quan hệ người - người, điều này có nghĩa mới chỉ xét đến
mặt phẩm chất của nhân cách. Quan hệ giữa con người và công việc, con người
và tự nhiên, nghĩa là mặt năng lực hầu như chưa được xét đến.
Đối tượng dạy học: Học thuyết nho giáo chỉ dành cho một số ít người gọi
là quân tử.
Nguyên lí tu thân: nguyên lý xuyên suốt tư tưởng của Khổng học, tạo nên
tính nhất quán, tức tính triết học của Khổng Tử là ở chữ Thứ. Thứ là điều gì
mình muốn cho mình thì làm điều ấy cho người khác, điều gì mình không muốn
cho mình thì đừng làm cho người khác.
Đây là chân lý quán triệt toàn bộ học thuyết của Khổng Tử.

Phương pháp tiếp cận nhận thức và cải tạo thế giới: được trình bày thành
một quá trình nhất quán và xuất phát từ chính mình..
Nội dung giáo dục: nội dung trong các sách mà Khổng Tử biên soạn để
dạy học đều có từ trước, là học vấn chung của Trung Hoa cổ đại. Các đời sau tập
hợp lại, bổ sung, phụ hoạ them, nay còn lại 5 kinh là: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh
Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.
Kinh Thư là bộ sách ghi chép những lời vua tôi dạy bảo, khuyên răn nhau
từ thời vua Nghiêu đến thời Đông Chu. Kinh Thư có cả thảy 59 thiên.
Kinh Thi là bộ sách chép những bài ca, bài đồng giao từ thời thượng cổ
đến nhà Chu. Ba trăm bài trong Kinh Thi thì lấy một lời mà nói trùm cả là:
Không nghĩ bậy.
Kinh Lễ là bộ sách ghi chép những quy tắc, lễ nghi để nuôi dưỡng những
tình cảm tốt của con người, để giữ cho trật tự xã hội được phân minh và hạn chế
cái dục vọng bất chính.


Kinh Nhạc là bộ sách nhạc cổ do Khổng Tử biên soạn lại, bao gồm cả
nhạc cụ, nhạc khí, múa hát và xướng hoạ, thơ ca. Nhạc và lòng người cảm hoá
lẫn nhau, nhạc có thể truyền cảm, ảnh hưởng đến tính chất con người, làm cho
con người trở thành thiện hay ác.
Kinh Xuân Thu là bộ sách do Khổng Tử sang tạo theo lối văn làm sử.
Nhưng thực chất đây là một cuốn sách triết học thể hiện các quan điểm chính trị
của Khổng Tử.
Ngoài ra còn có sách Luận ngữ, dạy người ta cái đạo làm quân tử một
cách thực tế.
Phương pháp sư phạm: là một nhà sư phạm kiệt xuất, nhạy cảm đối với
năng lực và cảnh ngộ học trò, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xử lý tình huống sư
phạm một cách uyển chuyển, dễ hiểu và cảm hoá con người, làm cho học trò hết
sức tin yêu, kính phục.
Phương pháp giáo dục: Khổng Tử coi trọng việc:

- Tự học, tự luyện, tu nhân...
- Phát huy mặt tích cực sáng tạo, phát huy năng lực nội sinh ;
- Dạy sát đối tượng, cá biệt hoá đối tượng
- Kết hợp học và hành, lý thuyết với thực tiễn
- Phát triển hứng thú, động cơ, ý chí của người học.
Đây vẫn là những bài học lớn cho nhà nhà trường hiện đại.
12/ Triết học phương Tây :
a/ Đặc điểm Triết học Hy Lạp cổ đại:
Sự ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại có một số đặc điểm
như : gắn hữu cơ với khoa học tự nhiên, hầu hết các nhà triết học duy vật đều là
các nhà khoa học tự nhiên ; sự ra đời rất sớm chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ
và phép biện chứng tự phát ; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm biểu hiện qua cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học của Đêmôcơrít và
đường lối triết học của Platôn, đại diện cho hai tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ
nô quý tộc ; về mặt nhận thức, triết học Hy Lạp cổ đại đã theo khuynh hướng
của chủ nghĩa duy giác.


b/ Đặc điểm triết học Tây Âu thời trung cổ :
Thời kỳ Trung cổ ở phương Tây là thời kỳ mà nhà thờ là một tổ chức tập
quyền hùng mạnh, tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đặc điểm của triết học thời kỳ này là khuynh hướng phát triển của chủ
nghĩa kinh viện. Vấn đề quan hệ giữa niềm tin tôn giáo và trí tuệ lý trí, giữa cái
chung và riêng (giữa khái niệm và các sự đơn lẻ) là những vấn đề trung tâm của
triết học. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung
quanh việc giải quyết các vấn đề trung tâm của triết học là biểu hiện đặc thù của
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật ở thời kỳ này.
c/ Đặc điểm triết học thời phục hưng và cận đại :
Triết học thời phục hưng thế kỷ XV – XVI :
Thế kỷ XV – XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là

thời kỳ có sự khôi phục lại nền văn hoá cổ đại. Về mặt hình thái kinh tế - xã hội
đó là thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.
Thời kỳ này, sự phát triển của khoa học đã dần dần đoạn tuyệt với thần
học và tôn giáo thời kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Giai cấp
tư sản mới hình thành và là giai cấp tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tư
nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và sản xuất. Sự phát triển của khoa
học, về khách quan đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống thế giới quan duy tâm
tôn giáo.
Sự phát triển khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra
những kết luận có tính chất duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể.
Triết học Tây Âu thời cận đại (TK XVII – XVIII) :
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là thời kỳ của những cuộc cách
mạng tư sản bắt đầu ở Hà Lan, sau đến Anh, Pháp, Ý, Áo,... và đay cũng là thời
ký phát triển rực rỡ của triết học Tây Âu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
mới làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời và mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt là nguyên nhân kinh tế của
những cuộc cách mạng thời kỳ này. Nhưng đòn giáng mạnh nhất vào chế độ
phong kiến Tây Âu là cuộc cách mạng tư sản Anh (giữa thế kỷ XVII) và cách


mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Theo lời Mác, đó là những cuộc cách
mạng có qui mô toàn cầu Châu Âu, đánh dấu thắng lợi của trật tự tư sản mới đối
với trật tự phong kiến cũ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển mạnh của khoa
học kỹ thuật do nhu cầu của sự phát triển sản xuât ; thế kỷ XVII – XVIII cơ học
phát triển, thế kỷ XVIII – XIX, vật lý học, hoá học, sinh học, kinh tế học ra đời.
Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự phát triển triết học mới với nhiều đại biểu nổi
tiếng.
Đặc điểm triết học Tây Âu thời cận đại :
- Sự thắng thế của chủ nghĩa duy vật
- Có tính chiến đấu cao

- Siêu hình, máy móc
- Duy tâm về xã hội
13/ Triết học giáo dục phương Tây :
Qua các thời kỳ lịch sử, các nền văn hoá khác nhau, các tư tưởng quan
điểm giáo dục đã xuất hiện rất phong phú và đa dạng. Những vấn đề được các
nhà triết học lớn của các thời đại quan tâm là : bản chất nhận thức, bản chất của
tư duy, chân lí, đạo đức, tính thiện, cái đẹp, mục đích cuộc sống...Đó là những
vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định bản chất quá trình giáo dục,
chức năng, nhiệm vụ, quy luật, động lực, mục đích, nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục...
Đại biểu tiêu biểu cho nền triết học giáo dục phương Tây là Komensky
Komensky (1592 – 1670) là nhà giáo Tiệp Khắc yêu nước, nhà sư phạm
lỗi lạc của thế giới, được người đời thừa nhận là « Ông tổ của nền giáo dục cận
đại ». Không những là một nhà lí luận, ông còn tích cực lao mình vào những
hoạt động thực tiễn, viết sách giáo khoa, cải tạo nhà trường vì mục đích cao cả.
Quan điểm giáo dục của Komensky có những điểm đáng chú ý sau :
- Chịu ảnh hưởng lớn quan điểm triết học của Bêcơn (nhà duy vật Anh thế kỷ
XVII), thừa nhận Thuyết duy cảm cho rằng, cảm giác là nguồn gốc của kiến
thức. Từ luận điểm này, ông đã đưa ra nhiều nguyên tắc dạy học, trong đó có


« nguyên tắc trực quan » được ông gọi là « nguyên tắc vàng ngọc ». Đó là một
tư tưởng tiến bộ đương thời và còn là bài học cho các nhà giáo hiện nay.
- Komensky cho rằng, con người là một thực thể của tự nhiên, vì vậy việc giáo
dục con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên. Các nguyên tắc dạy học và
giáo dục mà ông nêu lên luôn luôn được rút ra từ những quy luật chung của tạo
hoá.
1. Mục đích dạy học : đào tạo con người phát triển toàn diện theo quy luật tự
nhiên
2. Nội dung dạy học :

Những nội dung trong tác phẩm chính là thành tố của quá trình dạy học
như mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học, kết quả
dạy học và mối quan hệ của chúng. Komensky đã lựa chọn những kiến thức, kỹ
năng, thái độ quan trọng nhất làm nền tảng cho sự phát triển lâu dài của hệ thống
tri thức, kỹ năng, thái độ. Về mặt cấu trúc Komensky đã sắp xếp từ cái chung
đến cái riêng, cái tổng quát đến cái chi tiết.
3. Phương pháp: Komensky đã dùng phương pháp trực quan và thực nghiệm
4. Hình thức dạy học:
Komensky là người có cống hiến lớn nhất khi đã đề cập đến hình thức lớp
– bài. Đây chính là tổ chức cơ sở bảo đảm các hoạt động của nhà trường và hình
thức này hiện nay vẫn đúng cho nhà trường hiện đại.
5. Những nguyên tắc mà Komensky đã nêu ra mặc dù cách đây đã gần 400 năm
nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị bởi vì nó là nội dung tổng kết từ thực tiễn
giáo dục và dạy học. Ở góc độ dạy học kỹ thuật thì một số lớn nguyên tắc,
nguyên lý mà ông đã nêu ra lại càng phù hợp với thực tiễn dạy học kỹ thuật hiện
nay. Ví dụ: Nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với thực tiễn, nhà
trường gắn liền với xã hội; tư tưởng quy trình công nghệ xuyên suốt trong quá
trình hình thành kỹ năng nghề nghiệp của học sinh, nguyên tắc học thông thạo
hay đào tạo theo năng lực thực hiện cũng là những vấn đề mà đến hiện nay cũng
còn là những vấn đề khá mới mẻ. Trong đào tạo kỹ năng nghề cần phải có nội
dung lý thuyết cơ sở để người học có thể học được kỹ năng nhưng đồng thời


hoạt động làm mẫu của giáo viên phải thật chuẩn xác, rõ ràng để học sinh có thể
quan sát bắt chước, làm lại hoặc ứng dụng vào các trường hợp tương tự. Trong
dạy học kỹ thuật, phương pháp trực quan là không thể thiếu được, sự chuẩn bị
đầy đủ phương tiện, đồ dùng dạy học góp phần quan trọng cho việc giảng dạy
thực hành kỹ thuật; trong dạy học kỹ thuật cũng đề cập đến tác dụng nhớ lâu (trí
nhớ) khi người học được tiếp nhận thông qua càng nhiều giác quan càng tốt.
6. Những hạn chế của Komensky:

6.1 Những nguyên tắc dạy học do Komensky đề xuất là rất có giá trị, nhưng cần
điều chỉnh lại một số vấn đề như mối quan hệ giữa trực quan và trừu tượng.
Trực quan chỉ cho phép nhận thức được những biểu hiện bề ngoài của sự vật.
Phải phối hợp trực quan và trừu tượng mới cho phép tìm hiểu được bản chất của
các sự vật và quá trình. Nhất là trong điều kiện hiện đại, khi đi sâu vào tìm hiểu
thế giới vi mô, siêu vĩ mô và những quá trình trừu tượng thì việc tuyệt đối hoá ý
nghĩa của trực quan là không thích hợp vì tư duy trừu tượng giữ vai trò vô cùng
quan trọng.
6.2 Komensky cho rằng con người là một thực thể tự nhiên, việc giáo dục con
người phải phù hợp với quy luật tự nhiên. Tư tưởng này đã xuyên suốt toàn bộ
tác phẩm “Lý luận dạy học” của ông. Tuy nhiên ông không thấy được con người
còn là một thực thể xã hội và mối quan hệ giữa con người với xã hội, sự phát
triển của một con người vừa có quá trình xã hội hoá và cá nhân hoá.
6.3 Komensky cho rằng sự phát triển của học sinh là theo một tiến trình tương
ứng với các thời điểm nhất định mà không thấy sự nhảy vọt của sự phát triển
con người cũng như các sự vật hiện tượng khác.
6.4 Komensky cho rằng nội dung và chương trình giáo dục chủ yếu là do nhà
trường, tuỳ thuộc vào giáo viên nhưng thực chất nguồn nội dung giáo dục không
còn giới hạn bởi nhà trường và thầy giáo nữa mà nội dung hiện nay học sinh còn
được tiếp nhận từ các nguồn khác.
14/ Triết lí giáo dục:
Trong ngôn ngữ Việt Nam, ngoài triết học người ta thường hay dùng thuật
ngữ triết lí. Theo từ điển tiếng Việt, triết lí là: Quan điểm chung của con người


về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo từ điển Hán Việt, triết lí là: lí luận về
triết học. Vậy, triết lí là nhũng quan điểm được khái quát từ cuộc sống, nhằm chỉ
đạo sự suy nghĩ và hành động của con người.
Triết lí giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề của giáo dục
thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và hành

động của con người về các vấn đề giáo dục.
Như vậy, triết lí và triết học có sự tương đồng với nhau, nhưng triết lí
thường đề cập tới một vấn đề cụ thể, còn triết học là một khoa học, được xây
dựng từ một hệ thống tư tưởng, quan điểm với các khái niệm, phạm trù, đối
tượng và phương pháp riêng…
Trong thực tiễn, để điều hành, lãnh đạo một sự nghiệp hay một lĩnh vực
nào đó không phải chỉ bằng những triết lí cụ thể mà phải bằng hệ thống những
định hướng tư tưởng và định hướng khoa học mang tầm triết học. Do vậy, vai
trò của triết lí và triết học giáo dục có tầm quan trọng trong sự nghiệp phát triển
giáo dục, vì nó là những tư tưởng cốt lõi tạo nên bản sắc cho sự phát triển bền
vững của nền giáo dục; là công cụ định hướng cho nhận thức và hành động; là
phương tiện, cách thức để tiến hành các hoạt động giáo dục của con người.



×