Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Phòng trừ nấm aspergillus flavus link gây hại trên lạc trước và sau thu hoạch bằng chế phẩm trichoderma spp tại nghi lộc nghệ an vụ xuân năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ MINH THU

PHÒNG TRỪNÂM Aspergillus flams Link GÂY HẠI
TRÊN LẠC TRƯỚC VÀ SAU THU HOẠCH BẰNG CHẾ PHẨM Trichoderma spp. TẠI NGHI LỘC - NGHỆ AN VỤ XUÂN NĂM 2012

CHUYÊN NGÀNH: TRỚNG TRỌT MÃ SỐ: 60.62.01

LUẬN VÃN TỐT NGHIỆP THẠC sĩ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRAN NGỌC LÂN TS. NGUYỄN THỊ THANH

NGHỆ AN, 2012
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cún trong luận văn “Phòng trù’ nấm
Aspergillus flavus Link gây hại trên lạc trước và sau thu hoạch bằng chế phẩm nấm
Trichoderma spp. tại Nghi Lộc - Nghệ An vụ Xuân năm 2012” là trung thực và chưa hề được sử
dụng đế bảo vệ một học vị, một công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đều đã được cảm ơn.
Trong luận văn tôi có sử dụng các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, các thông tin trích dẫn được
sử dụng đều được ghi rõ các nguồn gốc, xuất xứ.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Thu
Đe hoàn thành luận văn thạc sĩ này, ngoài sự nỗ lực phấn đấu của bản thân tôi còn nhận được


nhiều rất nhiều sự giúp đỡ quý báu khác.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trần Ngọc Lân, TS. Nguyễn Thị Thanh đã tận
tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.


Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Nông Lâm Ngư và ThS. Hồ Thị Nhung đã tạo
điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn
L Ờnày.
I CAM
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các tập thể, cá nhân, bạn bè và người thân đã động viên
khích lệ tôi trong thời gian học tập tại trường và thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Thu


DANH MỤC CHỮ VIÉT TẮT
Chữ viết tắt

Từ viết vắt

CT

Công thức

HLPT

Hiệu lực phòng trừ

TLB

Tỷ lệ bệnh

ICRISAT


International Crops Research Institute
for the Semi-Arid Tropics R solani
Rhizoctonia solani

S. rolfsii

Sclerotium rolfsii

F. oxysporum

Fusarium oxysporum

T. viride

Trichoderma viride

F. solani

Fusarium solani

Aniger

Aspergillus niger

GĐST
Giai đoạn sinh trưởng
MĐPB Mức độ phổ biến
DANH MỤC BẢNG BIÊU Bảng


Tên

bảng Trang
Bảng 3.1. Thành phần nấm

bệnh hại lạc tại huyện Nghi Lộc vụXuân năm

2012....................................................................................................................34
Bảng 3.2. Diễn biến bệnhnấm hại chính trên

lạc vụ Xuân năm2012 tại Nghi

Lộc - Nghệ An....................................................................................................40
Bảng 3.3. Diễn biến số lượng mầm bệnh A llavus trong đất ở thí nghiệm trộn chế
phẩm Trichoderma spp. với phân hữu cơ bón lót qua các kỳ điều tra
.........................................................................................................................42
Bảng 3.4. Hiệu lực phòng trừ của chế phẩm Trichoderma spp. đối với nấm bệnh
Aspergillus flavus hại lạc vụ Xuân khi trộn với phân hữu cơ bón lót....45 Bảng 3.5.
Diễn biến số lượng mầm bệnh A flavus trong đất ở thí nghiệm xử


Bảng 3.11. Năng suất khô của lạc vụ Xuân 2012 tại Nghi Lộc - Nghệ An khi sử
dụng chế phấm nấm đối kháng Trichoderma spp. phòng trừ bệnh nấm


DANH MỤC HÌNH Hình

Tên hình

Trang

Hình 3.1. Diễn biến bệnh

nấm

hại chính trênlạc vụ Xuân năm 2012

tại Nghi

Hình 3.13. Hiệu lực phòng trừ của chế phấm Trichoderma spp. đối với A.


MỤC L ỤC



MỞ ĐẤU ỉ. Lý
do chọn đề tài nghiên cứu
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày cho dầu chủ yếu,
với diện tích trồng khoảng 256.000 ha và sản lượng đạt 533.800 tấn, hàng năm lạc
cung cấp dầu ăn chất lượng cao (36 đến 54% hàm lượng chất khô) và dễ dàng chiết
xuất protein (12 đến 36%) trong hạt lạc. Sản xuất lạc của cả nước đã khắng định sự
thích nghi của cây lạc với điều kiện thố nhưỡng của nước ta, tập quán canh tác của
nông dân, dễ trồng và chăm sóc, thời gian sinh trưởng ngắn, thu hoạch cho năng suất
cao, đồng thời còn có khả năng cố định đạm do rễ lạc có sự cộng sinh với vi khuẩn
Rhizobium vigna có khả năng cố định nitơ từ khí quyến thành đạm cung cấp cho cây
và đế lại trong đất từ 40 - 60 kg N/ha có tác dụng cải tạo đất rất tốt. Đặc biệt ở vùng
Bắc Trung Bộ, nhất là ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, cây lạc là một trong ba cây
công nghiệp hàng năm chủ lực (lạc, mía và vừng), sản lượng lạc hàng năm mang lại
cho người nông dân sản xuất tương đương 9 vạn tấn thóc.
Nghệ An là tỉnh có diện tích trồng lạc lớn nhất cả nước. Tính đến năm 2009,

diện tích trồng lạc ở Nghệ An là 23.757 ha với sản lượng 53.078 tấn. Không những
chỉ ở trong tỉnh Nghệ An, mà các giống lạc Sen và lạc Sen lai (như LI4) ngày càng
được mở rộng gieo trồng ở nhiều địa phương khác nhau ở các tỉnh Thanh Hóa, Hà
Tĩnh. Lạc là nông sản chủ lực của Nghệ An và có thương hiệu. Theo kế hoạch, nhũng
năm tới sẽ gieo trồng 28.000 - 30.000 ha, sản lượng 80.000 - 90.000 tấn lạc vỏ. Năm
2010, Nghệ An có 10 doanh nghiệp tham gia xuất khấu với số lượng 3.151 tấn lạc
nhân, đạt kim ngạch 3,8 triệu USD. Nhu cầu tiêu thụ lạc trên thế giới lớn và có xu
hướng tăng, không dưới 1,5 triệu tấn/năm, tập trung ở châu A, EU.
Tuy nhiên, vấn đề sản xuất, thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ lạc hiện vẫn còn
nhiều bất cập. Diện tích trồng hạn chế, năng suất thấp, công tác thu hoạch và chế biến
sau thu hoạch ít được quan tâm đầu tư, hệ thống kho tàng, công nghệ chế biến, bảo
quản lạc hậu trong khi yêu cầu đối với lạc xuất khấu là rất cao, đặc biệt là về chất
lượng.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm nên
thuận lợi cho việc gieo trồng nhiều loại cây trồng khác nhau, đặc biệt là các loại cây
trồng cạn. Điều kiện thời tiết khí hậu của nước ta cũng rất thuận lợi cho các loài vi
sinh vật xâm nhiễm gây hại đối với cây trồng. Trong đó các loài nấm gây bệnh, nhóm


tác nhân chính gây bệnh trên hầu hết các loại cây trồng, đặc biệt là nhóm nấm đất (A.
flavus, Penicilium spp. , Fusarium sp., Pythiumsp. v.v...). Một trong những loài
nấm đất điển hình hại vùng rễ cây trồng cạn là nấm Aspergillus flavus gây bệnh mốc
vàng. Nguồn bệnh của nấm tồn tại chủ yếu trong đất, trong tàn dư thực vật, cây ký
chủ và trong các vật liệu giống nhiễm bệnh dưới dạng sợi nấm, hạch nấm. Hạch nấm
tồn tại từ năm này qua năm khác ở tầng đất bề mặt và là nguồn gây bệnh phố biến cho
các cây trồng vụ sau, năm sau. Nấm bệnh gây hại trên một số loại cây trồng như lạc,
đậu, ngô,..., đặc biệt gây hại nặng đối với các hạt nông sản sau thu hoạch được cất giữ
trong kho. Sau khi nấm xâm nhiễm vào hạt nông sản thì chúng sản sinh ra loại độc tố
có tên là aflatoxin, độc tố này có khả năng gây hại cho con người, động vật và gây ô
nhiễm môi trường.

Vùng Bắc Trung Bộ, nơi có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, là 1 trong 2 vùng
chính sản xuất cây có dầu (lạc, vùng) ở Việt Nam. Đây cũng là vùng mà sự phát triển
của nấm mốc Aspergillus flavus và sự sản sinh độc tố aflatoxin của nấm mốc ở mức
nghiêm trọng. Có thế nói aílatoxin là nguyên nhân gây nên tổn thất nặng nề về kinh tế
cho nông nghiệp, đời sống người nông dân và sức khỏe con người, vật nuôi. Sự nhiễm
aflatoxin không chỉ làm ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng lạc, mà còn là rào cản
cho quá trình tiêu thụ, xuất khẩu lạc.
Từ những năm 1970 trên thế giới đã có các công trình nghiên cún liên quan đến
việc làm giảm thiểu độc to aflatoxin do Aspergillus flavus và Aspergillus
parasiticus sinh ra. Các nhà khoa học đã có những nồ lực trong việc áp dụng kỹ thuật
di truyền để cải tiến tính kháng cho giống lạc nhằm giảm thiếu độc to aflatoxin
(Ưpadhyaya et al., 1995, 2001) [23], sử dụng các loại thuốc thảo mộc, biện pháp canh
tác, bảo quản sau thu hoạch và thậm chí là cả nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh
học làm thay đối con đường tống hợp aflatoxin hoặc sử dụng các dạng enzyme thủy
phân (chitinases và glucanases) đế bảo vệ sự xâm nhập của nấm Aspergillus,... Tuy
nhiên, những nỗ lực nghiên cứu đó cũng chưa mang lại kết quả như mong đợi.
Trên thế giới, nghiên círu ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma đế kiếm soát
Aspergillus flavus bằng “cạnh tranh sinh học” hiện nay là hướng nghiên cứu ứng
dụng đang được quan tâm.
Nấm Trichoderma có mặt gần như trong tất cả các loại đất và trong một số môi
trường sống khác. Nấm Trichoderma tấn công, ký sinh và lấy chất dinh dưỡng từ các


loài nấm khác, phát triến tốt nhất là vùng nhiều rễ cây khỏe, vì Trichoderma có
nhiều cơ chế chống nấm gây bệnh cũng như cơ chế kích thích sự sinh trưởng và phát
triến của cây trồng.
Nấm Trichoderma là một tác nhân quan trọng trong kiếm soát sinh học vi sinh
vật gây hại sau thu hoạch và đang được nghiên cứu triến khai trên toàn thế giới. Nấm
Trichoderma harzianum đã được thử nghiệm kiểm soát một số bệnh hại trên lạc và
kết quả nghiên cứu đã cho thấy khả năng kiếm soát của chúng là rất tốt (Rama Bhadra

Raju et al., 2000) [28].
Nghệ An là địa phương sản xuất lạc chuyên canh, ngoài sự phá hại của các loài
bệnh hại thì đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng về nguồn lợi nấm đối kháng
Trichoderma, vì sự khắc nghiệt của tự nhiên đã chọn tạo nên nhiều loài sinh vật đặc
thù.
Hướng nghiên cún ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma trong kiếm soát sinh
học nấm mốc Aspergillus ilavus là rất cần thiết, không chỉ có ý nghĩa khoa học mà
còn có giá trị thực tiễn to lớn, đặc biệt là đối với quá trình bảo quản sau thu hoạch
nhằm tăng giá trị phẩm chất cho lạc xuất khẩu của tỉnh nhà. Xuất phát tù' nhu cầu
thực tiễn, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Phòng trừ nấm Aspergillus flavus
Link gây hại trên lạc trước và sau thu hoạch bằng chế phẩm Trỉchoderma spp. tại
Nghi Lộc - Nghệ An vụ Xuân năm 2012”.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
(1) Xác định thành phần và mức độ nhiễm bệnh trên lạc vụ Xuân 2012 trong đất trồng lạc

tại vùng Nghi Lộc - Nghệ An.
(2) Đánh giá hiệu quả phòng trừ của Trichoderma spp. đối với A. flavus hại lạc trên đồng

ruộng ở huyện Nghi Lộc - Nghệ An.
(3) Khảo sát hiệu quả phòng trừ của Trichoderma spp. đối với A flavus hại lạc trong kho

bảo quản sau thu hoạch.
2.2. Yêu cầu của đề tài
-

Điều tra tình hình bệnh hại trên lạc ở các xã Nghi Trường, Nghi Thịnh - huyện Nghi
Lộc vụ Xuân 2012.

-


Điều tra thành phần các mầm bệnh, đánh giá diễn biến lượng mầm bệnh A. ílavus
trong đất trồng lạc huyện Nghi Lộc.


-

Tìm hiếu khả năng phòng trừ A. flavus bằng biện pháp sinh học sử dụng Trichoderma
spp. trên lạc trước và sau thu hoạch.

3. Ỷ nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Y nghĩa khoa học

Đe tài cung cấp những số liệu khoa học về tình hình nhiễm nấm A. Aavus trên
cây lạc và lạc trong kho bảo quản tại Nghi Lộc và một số huyện phụ cận vụ Xuân
2012.
3.2. Ỷ nghĩa thực tiễn
Đánh giá được hiệu quả của hướng kiểm soát A. Aavus trên
hạt lạc bằng biện pháp sinh học sử dụng nấm đối kháng
Trichoderma spp., làm cơ sở khoa học cho việc giảm thiếu
lượng nấm A tlavus sinh độc tố aílatoxin trên hạt lạc giống,
lạc thương phẩm, bảo vệ sức khỏe con người và bảo vệ môi
trường.

CHƯƠNG I. TỎNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học

ỈA. ỉ. Một số bệnh nấm gây hại trên cây lạc
Trong các nguyên nhân làm giảm năng suất của lạc thì bệnh hại là một trong
những nguyên nhân chính. Bộnh hại lạc là do một lượng lớn các loại nấm, vi khuẩn,

Phytoplasma, hơn 20 loại virút và khoảng 100 loài tuyến trùng, bị nhiễm bệnh do các
nhóm nấm và vi khuấn gây hại đáng kế nhất.
Theo Lesster, W.Burgess và cs (2001) [28] cho rằng “Nấm là một trong những
nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh hại trên nhiều loại cây trồng, có khoảng 100
nghìn loài nấm đã được miêu tả trong đó có trên 8 nghìn loài là nguồn gây bệnh hại
cây trồng vì thế còn rất nhiều loài chưa được quan tâm và nghiên cứu. Nguồn nấm tồn
tại trên các tàn dư cây trồng, trong đất, trong không khí, trong nước, trên quả, hạt hay
trong các dụng cụ bảo quản bởi chúng sống không phụ thuộc vào ánh sáng, chúng có
thế tồn tại và phát triến trong bóng tối giống như ngoài ánh sáng”.
1. Bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani Kuhn)

Là loại bệnh phố biến xuất hiện ở khắp các vùng trồng trọt trên thế giới. Loài
nấm này có phạm vi ký chủ rộng, hại trên 32 họ cây trồng khác nhau và 20 loài cỏ dại
thuộc 11 họ. Chỉ tính riêng ở Mỹ đã có khoảng 550 loài cây khác nhau thuộc phạm vi
ký chủ của nấm R solani.
Nấm R solanỉ Kuhn là một trong những loại nấm có nguồn gốc trong đất điến


hỉnh. Nấm được mô tả đầu tiên bởi Kuhn vào năm 1858 [5].
Nấm R solanỉ thuộc bộ nấm trơ Mycelia sterilia, lóp nấm bất toàn Fungi
imperfecti. Sợi nấm R solani được sinh ra tạo thành các nhánh bên và hợp với sợi
chính tạo thành một góc xiên. Sợi nhánh thắt lại một đoạn ngắn ở phần gốc, thường có
1 vách ngăn ở gần gốc sợi nhánh. Nấm R solanỉ cũng sinh sợi đặc biệt, các tế bào kết
lại với nhau thành thể thống nhất được gọi là tế bào
Monilioid. Những tế bào Monilioid hòa lẫn với nhau tạo ra cấu trúc dày đặc được gọi
là hạch nấm để chống lại điều kiện môi trường bất thuận, đảm bảo nấm sống sót trong
điều kiện bất lợi.
Triệu chứng gây bệnh của nấm thường thấy sau khi cây con mọc nấm bắt đầu
xâm nhiễm gây hại. Tại gốc cây sát mặt đất chỗ bị bệnh có vết màu thâm đen hoặc
màu nâu nhạt bao quanh làm cho mô tế bào cây bị hủy hoại mềm nhũn, giai đoạn cây

con thường bị gãy gục và chết [43].
Bệnh có thể xuất hiện ngay trên thân sau khi mầm nhú lên khỏi mặt đất, làm chết
cây con, làm giảm mật độ trồng, nấm gây bệnh còn có thế phát triển trên các vết nứt
gây hiện tượng thối thân ở cây con, vết bệnh có màu nâu đen hoặc đỏ nhạt, bệnh phát
triến bao quanh thân và làm cho cây bị chết, sự phát triển của bệnh phụ thuộc vào
điều kiện đất đai và sự phá huỷ của độc tố nấm vào mô cây, nấm bệnh còn gây ra hiện
tượng làm cho bó mạch trong thân bị tắc hoặc chỗ vết bệnh trên thân lở loét, cuối
cùng làm cho cây đổ và chết. Nấm R solanỉ gây hại ở tất cả các vụ trong năm, những
cây bị nhiễm bệnh mà còn sống sót trên đồng ruộng thì cho năng suất rất thấp.
R solani sản sinh ra một lượng lớn enzyme cellulilitic, pectinolitic và các độc tố
thực vật. Đây chính là nguyên nhân gây ra bệnh thối hạt làm chết cây con, thối lá
mầm, thối rễ, thối tia củ và gây cháy lá lạc khi nấm này xâm nhập vào cây.
Nấm R solani cùng với Fusarium sp. gây ra bệnh chết vàng lạc, làm cho cây
con héo vàng từ từ, ở phần gốc thân biến mầu nâu và có thế làm cho lóp vỏ thân cây
hơi bị nứt.
2. Bệnh héo gốc mốc trắng (Sclerotium rolfsii Saccardo)

Nam S. rolfsii gây bệnh héo gốc mốc trắng trên 500 loài nhiều loại cây trồng
thuộc nhiều họ thực vật ở khắp các vùng sinh thái nông nghiệp trên thế giới, được
Peter Henry Rolfsii phát hiện và nghiên cứu đầu tiên vào năm


1892. Bệnh phố biến ở Nam Mỹ, Argentina, Brazil, Canada. Bệnh được phát
hiện nhiều ở vùng có khí hậu ấm áp và đặc biệt là trên những cây trồng thuộc họ cà,
bầu bí, đậu đỗ và một số cây trồng luân canh với cây họ đậu.
Nam S. rolfsii thuộc bộ nấm trơ Myceliales. Sợi nấm đa bào trong suốt phân
nhánh rất mảnh và phát triển thành sợi nấm màu trắng, từ sợi nấm hình thành hạch
nấm có dạng hình cầu, đường kính từ 1-2 mm, lúc đầu hạch màu trắng sau chuyến
thành màu nâu (Purseglove J.W.1968) [5]. Hạch nấm có thế tồn tại lâu dài trong đất
từ năm này sang năm khác ở tầng đất mặt, tầng đất canh tác. Hạch nấm và sợi nấm

có thế tồn tại lâu dài trong đất và trong tàn dư cây bệnh. Nam s. rolfsii gây bệnh có
thể sử dụng các chất hữu cơ làm nguồn dinh dưỡng, nấm sản sinh ra axit oxalic và
men phân hủy mô tế bào ký chủ. Nam S. rolfsii thuộc loại vi sinh vật hảo khí, thích
họp phát triển trong điều kiện có nhiệt độ và ấm độ cao.
Giai đoạn cây con, nấm s. rolfsii thường xâm nhập vào bộ phận cồ rễ, gốc thân
sát mặt đất tạo thành vết bệnh màu nâu đen, trên vết bệnh mọc ra lớp nấm trắng xốp
như bông bao quanh gốc làm mô cây thối mục, cây khô chết.
Nam S. rolfsii phát triến trong điều kiện nóng ấm, nhiệt độ thích hợp từ 25 30°c, ở điều kiện nhiệt độ 40°c nấm ngừng sinh trưởng [42]. Nấm s. roltsii là một
nấm đa thực, có phố ký chủ rất rộng, chúng có khả năng lây nhiễm trên 500 cây ký
chủ thuộc nhóm cây một lá mầm và hai lá mầm, đặc biệt trên những cây thuộc họ
đậu đỗ, bầu bí và một số rau trồng luân canh với cây họ đậu. Chúng có khả năng xâm
nhiễm trực tiếp qua biếu bì hoặc qua vết thương cơ giới.
3. Bệnh thối thân (Fusarium solanỉ (Mart) Appel & Wollned)

Nam F. soỉanỉ gây hại nhiều loại cây trồng khác nhau, chúng gây hại từ khi cây
con có 1 lá thật đến khi thu hoạch. Bệnh trên hạt thường có màu trắng đến màu kem,
sợi nấm mảnh và xốp, khi có mặt của giọt nước thì nó chứa đầy các bào tử phân sinh
trên các nhánh dài của cành bào tử phân sinh, giọt nước mang bào tử không màu,
trong suốt không có hình dạng nhất định. Có 17 loài nấm Fusarium đã được phân lập


tù’ đất trồng lạc, nhung trong số 17 loại nấm đó chỉ có 6 loài gây bệnh cho cây lạc
[7].
Cây con bị bệnh sẽ bị ức chế sinh trưởng, chóp rễ bị hoá nâu, dẫn đến bị thối
khô do F. solani.Trên thân lạc, nấm Fusarium sp. xâm nhiễm làm cho cây non, rễ và
trụ dưới lá mầm bị biến mầu xám, mọng nước. Khi cây đã trưởng thành F.
oxysporum gây hiện tượng thối rễ làm cho cây héo từ từ hoặc héo rũ, lá cây chuyến
sang màu vàng hoặc xanh xám, đôi khi lá bị rụng trước khi chết, bó mạch và rễ bị
thâm nâu (Kokalis et al, 1997) [27].
Nấm F. oxysporum có sợi đa bào, màu sắc tản nấm màu trắng phớt hồng, sinh

sản vô tính tạo ra hai loại bào tử lớn và bào tử nhỏ. Bào tử lớn cong nhẹ một đầu
thon nhọn, một đầu thon gẫy khúc dạng hình bàn chân nhỏ, thường có 3 ngăn ngang.
Bào tử nhỏ đơn bào hình trứng, bầu dục dài hoặc hình quả thận được hình thành
trong bọc giả trên cành bào tử không phân nhánh, trong khi đó bào tử lớn hình thành
tù’ cành bào tử phân nhánh nhiều, xếp thành tầng. Nấm còn sinh ra bào tử hậu hình
cầu, màng dày màu nâu nhạt, kích thước bào tử lớn 35 - 50 X 3,5 - 5,5 nm và bào tử
hậu từ 9 - 10 |im. [14].
Nấm phát triển thích hợp ở nhiệt độ 25 - 30°c. Bệnh phá hại nặng trong điều
kiện ấm và ẩm.
Nguồn bệnh của nấm ở trong đất là dạng bào tử hậu, sợi nấm và bào tử lớn phân
bố tập trung ở tầng canh tác.
Nấm F. oxysporum có sẵn trong đất và rễ cây. Trong môi trường nuôi cấy
PDA, nấm F. oxysporum phát trien nhiều dạng khuấn lạc. Nhìn chung, sợi nấm khi
sinh ban đầu có màu trắng, sau đó thay đối trạng thái màu sắc khác nhau từ màu tím
đến màu tía hoặc có màu cá hồi và xanh nhạt có sắc đỏ, hay màu cá hồi đến màu da
cam, tuỳ thuộc vào chủng hay dạng đặc biệt của nấm F. oxysporum.
4. Bệnh héo gốc mốc đen (Aspergillus niger van Tieghem)

Nấm A. niger thuộc họ Moniliaceae, bộ Hyphales, lớp Hyphomycetes. Các loài


thuộc giống Aspergillus có đặc điếm cành không phân nhánh, không màu, đỉnh cành
phình to, mang các cụm bào tử phân sinh hình cầu.
Khi nuôi cấy A. niger trên môi trường Czapek's agar bào tử phân sinh có đặc
điếm màu đen. Cụm bào tử phân sinh có dạng hình cầu, kích thước từ 500
-

600 jam. Cành bào tử phân sinh không màu, đỉnh cành phình to mang các cụm bào tử
phân sinh dày đặc và đâm tia, kích thước đầu cành bào tử phân sinh khoảng 75 |am.
Hầu hết các loài Aspergillus spp. là những loài nấm hoại sinh nhưng lại ảnh

hưởng rất lớn, đóng vai trò tác nhân gây bệnh cơ hội (lá chết hoặc thối phôi mầm
hạt) làm mất sức nảy mầm của hạt. Chúng hợp thành nhóm nấm hoại sinh quan trọng
đối với các nước nhiệt đới và cây trồng chịu nhiệt.
Trên cây lạc nấm A. niger gây triệu chứng thối đen cố rễ, nấm thường xuyên
hại phần rễ và phần thân dưới hai lá mầm và giai đoạn hạt giống nảy mầm ở điều
kiện nhiệt độ trên 30°c, gây hiện tượng thối xung quanh vùng rễ. Ngoài ra nấm còn
gây thối hạt và chết mầm, bệnh thường xuất hiện rất nhanh sau khi hạt nảy mầm và
triệu chứng quan sát được thường thấy ở vùng cố rễ, trên vết bệnh có các sợi nấm và
cành bào tử phân sinh trên đó có các bào tử phân sinh đính thành chuỗi màu đen
[46].
Nấm Aspegillus niger gây ra hiện tượng thối hạt, lạc chết mầm và chết héo cây
con trong vòng 30 ngày sau trồng. Trên vết bệnh, sợi nấm và cành bào tử phân sinh
thường được quan sát thấy ở vùng cố rễ và xuất hiện nhanh sau khi hạt nấy mầm.
Aspegillus niger tồn tại trong đất, trên hạt giống với tỷ lệ hạt bị nhiễm bệnh lên tới
90%. Nấm bệnh truyền qua đất và có khả năng phát triển mạnh trong điều kiện biến
động lớn về độ ấm đất, chất lượng hạt giống.
Bệnh thối gốc mốc đen do nấm A. niger đến nay vẫn là một bệnh quan trọng
được công nhận ở hầu hết các vùng trồng lạc chính trên thế giới. Thiệt hại về năng
suất và sản lượng do bệnh héo rũ gốc mốc đen thay đối và khó đánh giá, thiệt hại về
sản lượng cá biệt lên tới 50% nhưng thường dao động ở mức trên dưới 1 %.


5. Bệnh mốc vàng (Aspergillus Aavus Link)
Chi Aspergillus phân bố rất rộng trong tự nhiên. Chúng có thế tạo khuẩn lạc và
gây nhiễm vào hạt trước khi thu hoạch và trong quá trinh bảo quản. Cây chủ rất dễ bị
gây nhiễm bởi Aspergillus sau phơi nhiễm kéo dài trong môi trường có độ ẩm cao
hoặc bị tổn thương các điều kiện xấu như hạn hán.
Các môi trường sống bản địa của AspergiHus là trong đất, thực vật mục nát và
ngũ cốc đang bị giảm sức đề kháng vi sinh vật và nó xâm nhập tất cả các loại chất
hữu cơ mỗi khi có điều kiện được thuận lợi cho sự phát triến của nó. Điều kiện thuận

lợi bao gồm độ ấm cao (ít nhất là 7%) và nhiệt độ cao.
Nấm Aspergillus Aavus gây hại chủ yếu trên hạt ở giai đoạn bảo quản gây hiện
tượng thối hạt. Trong quá trình bảo quản, điều kiện bảo quản không tốt bệnh dễ phát
sinh và lan sang các hạt khác làm giảm chất lượng hạt, đặc biệt nấm có khả năng sinh
độc tố gây bệnh ung thư cho người và động vật. Đây là loài nấm bán hoại sinh, phát
triến rất nhanh và có thế phát hiện một cách dễ dàng bằng phương pháp đặt ấm. Tuy
nhiên, nếu bảo quản hạt giống tốt, đảm bảo độ ẩm hạt dưới 13% và nhiệt độ dưới
20°c thì tỷ lệ hạt nhiễm nấm A. Havus giảm đáng kế.
Nấm A. ílavus thường bảo tồn dưới dạng sợi nấm hoặc bào tử phân sinh tồn tại
trên vỏ hạt hoặc trong phôi hạt ngoài ra chúng còn tồn tại rất phố biến trong đất, rác
thực vật hoặc tàn dư cây trồng và dễ dàng lan truyền gây bệnh hại cho cây vụ sau.
Hạt bị nhiễm nấm A. flavus bị bao phủ bởi lớp nấm mầu vàng đến nâu vàng
xen lẫn là các đốm trắng đó là những thể bình còn non, bào tử dạng hình cầu đến gần
cầu thường gồ ghề có màu xanh nhạt. Cành bào tử phân sinh mọc thành cụm, đỉnh
cành phình to. Cuống cấp 1 có sự hiện diện nhỏ, cuống cấp 2 nhỏ hình ống tiêm.
Nấm có khả năng sinh độc tố trên hạt như: Aflatoxin Bl và B2, axit Aspergillic, axit nitripropionic...
1.1.2.

Tác hại của nấm Aspergillus flavits đối với lạc Lạc và sản phẩm từ lạc

chắc chắn là nơi phát triển ưu thích nhất của A. ílavus. Không phải chỉ có mình loại


này, có nhiều loài nấm khác thường đi kèm với loài nấm này một số lớn loài cũng có
tính độc đối với súc vật.
Không phải tất cả các chủng của nấm mốc A. flavus đều sinh độc tố. Ở giống
nấm mốc này sự sản sinh ra aflatoxin thay đổi theo từng chủng. Hơn nữa, sự sản sinh
ra độc tố này còn phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện xung quanh. Sự sản sinh ra
aflatoxin là kết quả của tác động qua lại giữa gienotip của chủng đó với các điều kiện
phát triến của nó.

Lượng aflatoxin sinh ra cũng thay đổi rất nhiều tuỳ theo các chủng riêng biệt.
Ta nhìn thấy điều này khi nuôi cấy chúng đế so sánh trên cùng một cơ chất và trong
những điều kiện như nhau. Các chủng sinh ra độc tố còn tuỳ thuộc vào nguồn gốc địa
lý cư trú của chúng, tuỳ thuộc vào cơ chất chúng lây nhiễm và hàng loạt các điều
kiện tự’ nhiên (mùa khô, mùa mưa, mùa hè, hay mùa đông). Người ta đã thử phân
biệt chủng sinh độc tố hoặc không sinh độc tố qua đặc điếm hình thái. Một số cho
rằng các chủng sinh độc tố bao giờ cũng có bào tử đính màu xanh lục, ngay cả giống
nuôi cấy lâu ngày, thể bình hai lớp, cuống bào tử đính có vách, có gai... các chủng
này có sự phình to một số phẩn của sợi nấm tạo thành những cục nhỏ. Những dị
thường này một vài tác giả coi là đặc trưng của các chủng sản sinh aílatoxin. Dù vậy,
cũng rất khó đoán chắc chủng nào sinh độc tố hay không, nếu không kết họp với các
phương pháp sinh học và hoá học.
Các chủng sinh độc tố có thế mất hoạt tính khi cấy chuyến liên tiếp vài lần trên
môi trường tổng hợp, hoặc ngược lại nếu như cấy vài lần trên môi trường tự' nhiên
thích họp thì khả năng sinh độc tố được tăng lên. Như vậy, chúng ta có thế thu được
các chủng đột biến tự nhiên hoặc nhân tạo.
Các chủng phát triển trên hạt có dầu, nhất là hạt lạc hoặc các sản phấm từ lạc
hình như sinh độc tố nhiều hơn các chủng phân lập được trên ngũ cốc. Các chủng từ
thịt ôi, bánh mỳ, các thực phấm bột sống, hoặc phomát bị nhiễm tự nhiên thường
không hoặc ít sinh độc tố. Các chủng phân lập từ gia vị đến 30% số chủng sinh


aflatoxin. vấn đề này qua nhiều công trình nghiên cứu trong cả thời gian dài vẫn
chưa khái quát được một quy luật chung nào cả, thí dụ: khó giải thích được vì sao
chủng A. flavus US26 phân lập được từ lạc mốc lại không sinh aflatoxin.
1.1.3.
Quá trình sản sinh độc to aflatoxin của loài Aspergillus
Aflatoxin là độc tố vi nấm sản sinh tự nhiên bởi một số loài Aspergillus, là một
loại nấm mốc, đáng chú ý nhất là Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus.
Aflatoxin là độc tố và là tác nhân gây ung thư. Sau khi thâm nhập vào cơ thể, các

aflatoxin có thể được gan chuyển hóa thành dạng trung gian epoxit hoạt hóa hoặc
được thuỷ phân và trở thành Ml ít độc hơn.
Các nấm này có trong đất và phá hoại cây trồng (có thể nhiễm vào lạc ngay tại
ruộng), gây nên hiện tượng hấp nhiệt làm thối hạt dự trữ. Ngô, lạc, khô dầu lạc, hạt
bông và khô dầu hạt bông rất mẫn cảm với nấm mốc.
Điều kiện lý tưởng đế nấm mốc xâm nhập vào nhân: nhiệt độ cao, độ ấm cao
xung quanh nhân, và độ ẩm của nhân dưới 30% (dạng sử dụng).
Các loại nông sản thường bị nhiễm aflatoxin là ngũ cốc (ngô, kê, lúa miến, gạo,
lúa mì), hạt có dầu (lạc, đậu tương, hạt hướng dương, hạt bông), gia vị (ớt, hạt tiêu
đen, rau mùi, nghệ, gừng) và các loại quả hoặc hạt khác như hạt dẻ, dừa...
Ket quả khảo sát phân tích trên 243 mẫu ngô, lạc và sản phấm chế biến làm thức
ăn gia súc tại 3 xã thuộc huyện Tân Kỳ Nghệ An tháng 6/2002, đã phát hiện mức độ
và nguy cơ nhiễm aflatoxin (AF) rất cao, có tới hơn 90% số mẫu lạc, ngô lấy từ các
hộ gia đình đang được bảo quản bị nhiễm AF và tỷ lệ nhiễm vượt giới hạn cho phép
quy định giới hạn hàm lượng AF có trong thực phẩm của Bộ Y tế là trên 23% (56/243
mẫu) (Phan Thị Kim và cs., 2002) [10].
Aflatoxin cũng có thế xuất hiện trong sữa của động vật được cho ăn bằng thức
ăn nhiễm aflatoxin.
Aflatoxin Ml, M2 thường được phát hiện trong sữa của bò được cho ăn bởi các
loại hạt bị nhiễm nấm mốc. Các độc tố này là sản phẩm của một quá trình chuyến hóa


trong gan động vật. Tuy nhiên, aílatoxin Mi cũng có mặt trong sản phấm lên men bởi
Aspergillus parasiticus.
Tại Hoa Kỳ, hầu như tất cả các nguồn của bơ lạc thương mại có hàm lượng
aflatoxin từ 0 ppb đến 20 ppb cho tiêu dùng trực tiếp, mặc dù thức ăn dùng đế vỗ béo
cho bò thịt/lợn/gia cầm trong giai đoạn cuối có thế chấp nhận mức 300 ppb nhưng
trong thực tế thường thấp hơn nhiều mức khuyến cáo an toàn của Cục Dược phấm và
Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA).
Trong kho cất giữ: nhiệt độ tối ưu đế sản sinh aflatoxin: 25-32°C. Độ ấm tối ưu

cho nấm mốc phát triển: khi trong nhân là 18% hoặc trong thùng đựng là 85% hay
cao hon.
Nhân hạt có độ ẩm dưới 15%: hạn chế phát triển nấm mốc và aflatoxin.
Ở Thái Lan, năm 1967 nhóm nghiên cứu của Shank cho thấy các mẫu lương
thực thực phẩm bị mốc thì 50-60% số mẫu đó có aflatoxin. Đồng thời nhóm tác giả
này tiến hành trên thức ăn gia đình (lấy mẫu lương thực thực phẩm tại các gia đình )
cũng thấy có 30-50% số mẫu có độc to aflatoxin.
Ớ Việt Nam cho đến nay còn ít có những công thành công bố vế vấn đế này.
Theo kết quả của Viện Vệ Sinh Dịch Tễ đã nghiên cứu trên 29.381 mẫu lương thực
thực phấm thấy có 30 loại men mốc khác nhau, trong đó mốc Aspergillus chiếm tỉ lệ
cao nhất (5,2 - 80,39%) bao gồm 12 chủng loại Aspergillus khác nhau. Trong số đó
có 11 chủng có khả năng sinh độc tố. Năm 1984 theo tài liệu của Viện dinh dưỡng
quốc gia đã nghiên cứu trên 200 mẫu gạo bán ở Hà Nội thấy ở 2 mẫu có nhiều nấm
Aspergillus ílavus, một loại nấm có khả năng tạo ra Aflatoxin.
Năm 1988, Viện dinh dưỡng đã thông báo kết quả thăm dò Aflatoxin Bl trong
lạc và sản phẩm từ lạc như sau: Có: 7/55 số mẫu lạc nhân có Aflatoxin Bl (13%) 2/6
mẫu xì dầu có Aflatoxin (33%).
Theo kết quả nghiên cứu bước đầu của Bộ môn Dinh dưỡng và An toàn thực
phấm trường Đại học Y Hà Nội (1990) kết quả nghiên cứu 30 mẫu tương ăn và trên


60 mẫu sữa mẹ ở Hà Nội, kết quả cho thấy xấp xỉ 30% số mẫu tương có độc tố
aflatoxin; còn trên sữa mẹ thì chưa phát hiện thấy.
1.1.4.

Nấm đối khảng Trichoderma
Nấm Trichoderma thuộc nhóm nấm bất toàn (Deuteromycetes hay Fungi

Imperfecti), trong đó khuẩn lạc của Trichoderma có màu lục (khi tăng trưởng dưới
nắng mặt trời). Là nhóm nấm bất toàn nên chúng là những nấm sinh sản vô tính bằng

bào tử bụi mang bởi những giá bào tử có hình dạng khác nhau xếp thành chuỗi (đính
bào tử) ở đầu ngọn có cuống bào tử.
Nam Trichoderma spp. hiện diện gần như trong tất cả các loại đất và trong một
số môi trường sống khác. Chúng là loại nấm được nuôi cấy thông dụng nhất. Chúng
hiện diện với mật độ cao và phát triến mạnh ở vùng rễ của cây, một số giống có khả
năng phát triển ngay trên rễ. Những giống này có thể được bổ sung vào trong đất hay
hạt giống bằng nhiều phương pháp. Ngay khi chúng tiếp xúc với rễ, chúng phát triển
trên bề mặt rễ hay vỏ rễ phụ thuộc vào từng giống. Vì vậy, khi được dùng trong xử lý
hạt giống, những giống thích hợp nhất sẽ phát trien trên bề mặt rễ ngay cả khi rễ phát
trien dài hơn lm phía dưới mặt đất và chúng có thế tồn tại và có hiệu lực cho đến 18
tháng sau khi sử dụng. Tuy nhiên không nhiều giống có khả năng này.
Ngoài sự hình thành khuẩn lạc trên rễ, nấm Trichoderma còn tấn công, ký sinh
và lấy chất dinh dưỡng từ các loài nấm khác. Bởi vì nơi Trichoderma phát trien tốt
nhất là nơi có nhiều rễ khỏe mạnh, vì Trichoderma sở hũu nhiều cơ chế cho việc tấn
công các loài nấm gây bệnh cũng như CO' chế cho việc nâng cao sự sinh trưởng và
phát trien của cấy. Nhiều phương pháp mới trong kiếm soát sinh học và nâng cao
sinh trưởng của cây hiện nay được chứng minh rõ ràng. Quá trình này được điều
khiến bởi nhiều gen và sản phấm từ gen khác nhau. Sau đây là một số cơ chế chủ
yếu: Ký sinh nấm, kháng sinh, cạnh tranh chất dinh dưỡng và không gian; sự chịu
đựng các điều kiện bất lợi bằng việc gia tăng sự phát triển của cây và rễ, làm hòa tan
và cô lập chất dinh dưỡng vô cơ, cảm ứng sự kháng bệnh, bất hoạt enzyme gây bệnh.


Những phát hiện mới hiện nay cho thấy rằng một số giống nấm Trichoderma có
khả năng hoạt hóa cơ chế tự bảo vệ của thực vật, từ đó những giống này cũng có khả
năng kiểm soát những bệnh do các tác nhân khác ngoài nấm.
*

Cơ chế đối kháng của vi nấm Trichoderma:




Cơ chế kỷ sinh:

-

Sự đối kháng của nấm Trichoderma thông qua nhiều cơ chế. Vào năm 1932
Weinding đã mô tả hiện tượng nấm Trichoderma ký sinh nấm gây bệnh và đặt tên
cho hiện tượng đó là "Giao thoa sợi nấm" (Cnyder, 1976).

-

Hiện tượng giao thoa sợi nấm gồm ba giai đoạn như sau:
( 1 ) Sợi nấm Trichoderma vây quanh sợi nấm gây bệnh

(2) Sau sự vây quanh, sợi nấm Trichoderma thắt chặt lấy các sợi nấm gây bệnh cây
(3) Cuối cùng là sợi nấm Trichoderma đâm xuyên làm thủng lóp tế bào của nấm gây

bệnh, dẫn đến sự gây bệnh làm cho chất nguyên sinh trong nấm gây bệnh bị phân
hủy và dẫn đến nấm bệnh chết.
Sau này quan sát dưới kính hiển vi, hiện tượng ký sinh của nấm Trichoderma
được mô tả như sau:
+ Tại những điếm nấm Trichoderma tiếp xúc với nấm gây bệnh đã làm cho nấm
gây bệnh teo lại và chết (Dubey, 1995; Rousscu và ctv, 1996).
+ Ngược lại ở những điếm không có sự tiếp xúc của nấm Trichoderma với nấm
gây bệnh vẫn chết thì các nhà nghiên cứu cho là tác động của chất kháng sinh của
nấm Trichoderma sinh ra gây độc cho nấm gây bệnh (Agrowcal và ctv, 1979;
Michrina và ctv, 1996).



Cơ chế kháng sinh (antibiotic):
Nấm Trichoderma có khả năng sinh ra một số chất kháng sinh. Khả năng sinh ra
chất kháng sinh của các loài, chủng, các dạng sinh thái của nấm Trichoderma không
giống nhau.
Ngoài ra đã xác định một số chất kháng sinh khác do nấm Trichoderma sinh ra


như: chất kháng sinh U- 21693 được Meyer phát hiện năm 1996 do chủng ƯC - 4785
(loài T. viride) sinh ra [36].


Cơ chế tác động của men (enzyme):
Nhiều loài Trichoderma có khả năng sản sinh ra men phân giải (như men
Laminarinaza, Chitinaza,...) (Score và cs., 1994) [36].
Khi phát triển ở trên thành tế bào nấm vật chủ thì nấm Trichoderma có thế tiết
ra những loại men gây suy biến thành tế bào nấm gây bệnh cho cây như men P( 1 -3)
glucanase và chitinase (Chet và cs., 1981; Jones and Watson, 1969) [25].



Cư chế cạnh tranh:
Nấm Trichoderma có thế biếu hiện tính đối kháng thông qua việc cạnh tranh với
nấm gây bệnh cây về dinh dưỡng, nơi cư trú. Nấm Trichoderma
thường định cư trước so với nấm gây bệnh cây.
Sử dụng nấm đối kháng trong công tác bảo vệ thực vật là một trong những biện
pháp sinh học mang tính khả thi cao.
Hiện tượng giao thoa sợi nấm

1.2. Tình hình nghiên cứu sử dụng Trỉchoderma phòng trừ bệnh hại Aspergillus trên thế


giới
Cơ chế kiếm soát sinh học được điều khiến bởi nhiều gene và sản phẩm từ gene
khác nhau. Một số cơ chế chủ yếu là ký sinh nấm, kháng sinh, cạnh tranh dinh


dưỡng và không gian; sự chịu đựng các điều kiện bất lợi bằng việc gia tăng sự phát
triển của cây và rễ cây; làm hòa tan và cô lập chất dinh dưỡng vô cơ, cảm úng sự
kháng bệnh, bất hoạt enzyme gây bộnh.Sau khoảng 50 năm tù' khi thế giới phát hiện
ra độc to aflatoxin (năm 1960), nhiều phương pháp kiếm soát đã được nghiên cứu và
áp dụng. Bên cạnh những nghiên cứu chọn tạo các giống lạc kháng Aspergillus, còn
có những nghiên cứu sử dụng một số loài vi khuấn và nấm đế phòng trừ sự nhiễm
aflatoxin trong nông sản (Palumbo et al., 2006; Masoud và Kaltoft, 2006) [21, 20].
Khả năng đối kháng của các loài Trichoderma đã được phát hiện từ 70 năm
trước (Weindling, 1932). Hoạt động của nấm đối kháng Trichoderma với A. niger
được đánh giá thông qua kỹ thuật nuôi cấy trên môi trường PDA và tiềm năng đối
kháng của những chủng này được sắp xếp theo thang điểm từ 1 đến 5 (Bell et al.,
1982) [25]. Cơ chế chính của sự đối kháng trong Trichoderma là do mycoparasitism.
Nấm đối kháng Trichoderma cũng là đối thủ cạnh tranh tốt trong đất, sản xuất thuốc
kháng sinh để ngăn chặn tác nhân gây bệnh (Chet, 1987) [26].
Các xu hướng hiện nay là kiếm soát sinh học Aspergillus flavus, A. parasiticus
sinh độc to aflatoxin với 3 hướng chính: (i) Hướng nghiên cún sử dụng Bacillus (B.
pumilus, B. subtilỉs) (Munimbazi et al., 1998;...) [25]; (ii) Hướng nghiên cứu sử dụng
các chủng Aspergillus ílavus, A. parasiticus không sinh độc tố, đã có những thành
công, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, như chủng Aspergillus flavus AF36 (Cotty et al., 2004,
2007;...) [21]; (iii) Hướng nghiên cứu sử dụng nấm đối kháng Trichoderma đã có
những thành công nhất định, đặc biệt ở Ấn Độ, như sử dụng 5 loài T. harzianum, T.
viride, T. auroviride, T. longỉbrachiatum, T. hamatum kiểm soát sinh học
Aspergillus flavus sinh độc tố aflatoxin (Mausam et al., 2007; Reddy et al., 2010;...)
[23].
Trong suốt thời gian gần 50 năm qua, tính từ thời điểm phát hiện ra độc to

aflatoxin gây ra cái chết cho 100.000 con gà do bệnh “Turkey X” ở nước Anh
(Blount, 1961; Forgacs và Carll, 1962) [24], thì thành công trong kiếm soát sinh học


sự nhiễm độc to aflatoxin ở cả trước và sau thu hoạch nông sản đã đạt được là áp
dụng các chủng Aspergillus không sinh độc tố cạnh tranh với các chủng A. íỉavus và
A parasiticus sinh độc tố.
Theo Cotty (1990) [21] chủng nấm không độc tố A tlavus làm giảm sự nhiễm
aflatoxin trong hạt bông, kết quả thực nghiệm trong nhà lưới cho thấy, có 6 trong 7
chủng nấm không sinh độc đã làm giảm lượng aílatoxin gây ra bởi các chủng nấm
sinh độc ở trong hạt bông khi nuôi cấy cả chủng độc và chủng không độc, chủng A.
flavus AF36 có hiệu quả nhất trong việc làm giảm sự nhiễm aflatoxin. Thử nghiệm
khả năng kiếm soát aflatoxin ở ngô khi nuôi cấy chủng A. flavus AF36 và chủng có
độc tính của loài A flavus hoặc những bắp ngô được nuôi cấy riêng rẽ với chủng A.
flavus AF36 trong 24 h, kết quả nghiên cún cho thấy nồng độ aflatoxin giảm có ý
nghĩa, nếu so với việc chỉ nuôi cấy chủng gây độc trên ngô (Brown et al., 1991) [18].
Ket quả nghiên cứu của Choudhary A.K. (1992) [20] cho thấy, chủng T. viride
làm giảm thiếu sự sản sinh độc to aflatoxin BI (73,5%) và aflatoxin G (100%) khi
nuôi cấy chung với chủng A. ílavus; sử dụng kết họp của cả hai loài nấm như T.
har/ianum và A. niger ức chế sản xuất aflatoxin BI gần 100%.
Theo Calistru và McLean (1997) [23], 2 chủng T. harzianum và 2 chủng T.
viride có khả năng ức chế phát triển của A íỉavus. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử
cho thấy, sự xâm nhập và kiếm soát của các loài Trichoderma đối với A flavus. Hai
chủng A. niger và T. yiríde có thể kết họp để ức chế A. flavus sản sinh aflatoxin
(Aziz và Shahin, 1997) [20].
Nghiên cứu của Srilakshmi p. et al. (2001) [38], đã đánh giá tiềm năng đối
kháng của 212 chủng Trichoderma được thu thập, phân lập từ các mẫu đất từ ở bang
Andhra Pradesh và Karnataka, Ấn Độ; trong đó có 145 chủng phân lập đối kháng với
AF11-4 và có 39 chủng có khả năng ức chế mạnh đối với chủng nấm AF11-4.
Những chủng Trichoderma này được nghiên cún xác định và đánh giá khả năng đối

kháng, liên quan đến sản xuất thuốc kháng sinh phòng trù’ chủng nấm với AFll-4.Ket


quả nghiên cún của Kishore et al. (2001) [27] cho thấy tiềm năng kiểm soát sinh học
của 16 chủng Trichoderma đối kháng với A. niger và hiệu lực phòng trù’ của các
chủng phân lập kiếm soát A. niger trong điều kiện nhà lưới được so sánh với thuốc
trừ nấm. Trong 16 chủng Trichoderma phân lập này thu được từ các cánh đồng trồng
lạc tại ICRISAT (Ẩn Độ) thuộc 4 loài là T. hamatum, T. harzianum, T.
longibrachiatum và T. viride. Trong số 16 chủng phân lập của Trichoderma, có 2
chủng phân lập của loài T. harzianum là A3 và AI 1 và 1 chủng của loài T.
viride là A14 có tính đối kháng cao với A. niger và được xếp ở thang điểm 1, trong
13 chủng còn lại, có 9 chủng ở mức điểm 2.
Ket quả nghiên cún của Kishore G.K. et al. (2001) [27] về kiếm soát sinh học
sự nhiễm aflatoxin ở lạc cho thấy, trong tống số 212 chủng phân lập thuộc nhóm
Trichoderma hiện có ở ICRISAT, có 48 chủng có khả năng kiếm soát sự nhiễm
aflatoxin gây ra bởi A flavus. Ket quả phân tích PCR trong nghiên cứu mối quan hệ
phát sinh loài đã xác định được 48 chủng này thuộc 10 loài trong giống
Trichoderma. Dựa vào những nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ enzyme, các nhà
khoa học ICRISAT đã xác định được 7 chủng thuộc 6 loài của giống Trichoderma có
khả năng kiểm soát aflatoxin trên đồng ruộng và chúng có tác động hiệu quả hơn so
với việc dùng thuốc hóa học trừ nấm bệnh.
Theo Thakur R.p. et al. (2003) [40] có 6 chủng Trichoderma và 3 chủng
Pseudomonas có tính đối kháng cao với A flavus AF trong phòng thí nghiệm, là 2
chủng T. viride (Tv 17 và Tv 23), 1 chủng T. harzianum (Th 23) và 1 chủng
Pseudomonas (Pf 2) có khả năng đối kháng cao hơn so với 2 chủng còn lại, làm giảm
đáng kể mật độ nấm A. flavus trên quả lạc và trong vùng rễ cây lạc. Trong thí
nghiệm chậu vại và thí nghiệm trên đồng ruộng, các chủng nấm đối kháng
Trichoderma có tác dụng làm giảm ở mức ý nghĩa sự xâm nhiễm của A. flavus vào
hạt và giảm 50% quần thế A llavus trên ruộng lạc (Anjaiah, 2006) [19].
Krishnamurthy Y.L., Shashikala J. (2006) [38], đã đánh giá tác dụng của sản



×