Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Giáo trình pháp luật đại cương đh hàng hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.11 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI
KHOA ĐIỀU KHIỂN TÀU BIỂN
BỘ MÔN LUẬT HÀNG HẢI

BÀI GIẢNG

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

HẢI PHÒNG – 2008

1


chơng I
khái niệm chung về nh nớc v pháp luật
I. nguồn gốc của nh nớc v pháp luật
Muốn hiểu rõ đợc nguồn gốc và bản chất của Pháp luật cũng nh sự phát triển của chúng
thì không thể tách rời việc xem xét, tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát
triển của Nhà nớc. Bởi lẽ, Nhà nớc và Pháp luật là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện khi xã
hội loài ngời phát triển đến một giai đoạn nhất định, chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu
vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
1.Sự ra đời của nhà nớc và pháp luật.
1.1.Chế độ cộng sản nguyên thuỷ và tổ chức thị tộc, bộ lạc.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch sử, đó là một xã
hội không có giai cấp, cha có nhà nớc và pháp luật. Nhng những nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời của nhà nớc và pháp luật lại nảy sinh chính trong lòng xã hội đó. Vì vậy, việc nghiên cứu về
xã hội cộng sản nguyên thuỷ sẽ là cơ sở để giải thích nguyên nhân làm phát sinh ra nhà nớc và
pháp luật, tạo điều kiện để hiểu rõ bản chất của chúng.
ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ do trình độ phát triển của lực lợng sản xuất còn thấp kém
dẫn đến năng suất lao động thấp, con ngời không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau cùng
chung sống, cùng lao động và hởng thụ. Trong xã hội mọi ngời đều bình đẳng, không ai có tài


sản riêng hoặc bất cứ đặc quyền đặc lợi nào. Cơ sở tế bào của xã hội không phải là gia đình mà là
thị tộc- tổ chức xã hội đầu tiên trong lịch sử đợc hình thành trên cơ sở huyết thống.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lí các công việc
của thị tộc, nhng quyền lực ở đây chỉ là quyền lực xã hội cha mang tính giai cấp và hệ thống
quản lí còn rất đơn giản. Để tổ chức và quản lí thị tộc, đã xuất hiện hình thức Hội đồng thị tộc,
đây là tổ chức có quyền lực cao nhất của thị tộc thể hiện ý chí chung của tất cả mọi thành viên
trong việc quyết định các vấn đề có liên quan. Hội đồng thị tộc bầu ra những ngời đứng đầu thị
tộc nh tù trởng, thủ lĩnh quân sự..v.v. để thực hiện quyền lực và quản lí các công việc chung
của thị tộc. Những ngời này có quyền lực rất lớn nhng quyền lực đó lại không dựa vào bộ máy
cỡng chế đặc biệt mà lại dựa vào uy tín và sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Họ cũng
không có một đặc quyền, đặc lợi nào mà cùng sống cùng lao động và hởng thụ nh mọi thành
viên khác. Họ cũng có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu uy tín của họ không còn nữa.
Tổ chức thị tộc phát triển cùng với các điều kiện tác động khác (hôn nhân ngoại tộc) dẫn
đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc. Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại,
còn bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bào tộc cũng nh trong bộ lạc, đều
dựa trên nguyên tắc tơng tự nh ở tổ chức thị tộc tuy thể hiện sự tập trung cao hơn.
Tóm lại, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã có quyền lực nhng đó là quyền lực xã hội,
xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi ích chung của cả cộng đồng. Các quy tắc xử sự của con
ngời trong xã hội là các tập quán và các tín điều tôn giáo, đó là các chuẩn mực tuyệt đối thiêng
liêng mà mọi ngời đều tuân theo một cách tự nguyện.
1.2.Sự tan r của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nớc
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sán xuất đã tạo điều kiện cho sự thay đổi phơng thức
sản xuất cộng sản nguyên thuỷ và đòi hỏi sự phân công lao động tự nhiên phải đợc thay thế bằng
sự phân công lao động xã hội. Lịch sử đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn, mà mỗi
lần xã hội lại có những bớc tiến mới từng bớc làm tăng nhanh quá trình tan rã của chế độ cộng
sản nguyên thuỷ.

2



*Lần phân công lao động xã hội thứ nhất:
Đó là việc con ngời thuần dỡng đợc động vật tạo ra nghề chăn nuôi gia súc phát triển
mạnh mẽ, làm xuất hiện ngày càng nhiều những gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi, và dần dần
chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập tách khỏi ngành trồng trọt. Sau lần phân công
lao động xã hội đầu tiên, xã hội đã có những biến đổi sâu sắc: chăn nuôi, trồng trọt phát triển tạo
ra những sản phẩm lao động d thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt sản phẩm d thừa đó. Xã
hội nảy sinh một nhu cầu về sức lao động, cho nên các tù binh trong chiến tranh thay vì bị giết đã
đợc giữ lại để bóc lột sức lao động thành những nô lệ. Nh vậy, chế độ t hữu xuất hiện, xã hội
phân chia thành kẻ giàu ngời nghèo, phá vỡ chế độ quần hôn, thiết lập nên các gia đình cá thể
với địa vị độc tôn của ngời chồng đã trở thành những yếu tố đe dọa sự tồn tại của tổ chức thị tộc.
* Lần phân công lao động xã hội thứ hai:
Việc con ngòi tìm ra kim loại cải tiến các công cụ sản xuất và chế biến những sản phẩm
của trồng trọt, chăn nuôi, tạo ra một ngành nghề mới tách khỏi nông nghiệp, đó là thủ công
nghiệp. Sau lần phân công lao động xã hội này thì nô lệ đã trở thành một bộ phận chủ yếu cấu
thành của xã hội, họ không còn là những kẻ phụ giúp đơn thuần mà đã trở thành một lực lợng xã
hội với số lợng ngày càng tăng. Xã hội bị phân hoá sâu sắc, sự phân biệt giữa kẻ giàu và ngời
nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng rõ nét, mâu thuẫn giai cấp hình thành và ngày càng gia
tăng.
* Lần phân công lao động xã hội thứ ba:
Khi các ngành sản xuất đã tách biệt thì xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng hoá và dẫn đến sự
ra đời của thơng nghiệp. Sự phân công này nảy sinh ra một nhóm ngời không còn tham gia vào
sản xuất nữa, đó là thơng nhân mà Mác gọi là những kẻ kí sinh, những kẻ ăn bám xã hội và bóc
lột cả hai Thơng nghiệp ra đời đã kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, chế độ cầm cố và cho
vay nặng lãi dẫn đến sự bần cùng hoá của đại đa số và tập trung của cải trong tay thiểu số
ngời.
Nh vậy qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm đảo lộn xã hội thị tộc từ một xã hội
thuần nhất thành một xã hội có sự phân chia giai cấp.Với sự xuất hiện của t hữu và gia đình đã
làm rạn nứt xã hội thị tộc thì sự ra đời của tầng lớp nô lệ và chủ nô thực sự đã tạo ra trong xã hội
thị tộc những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà đợc. Đứng trớc hoàn cảnh mới một xã
hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế quyết định sự tồn tại của nó đã phân chia thành các giai

cấp đối lập, đấu tranh gay gắt với nhau, tổ chức thị tộc đã trở thành bất lực không còn phù hợp
nữa thì xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức trấn áp đợc các xung đột giai cấp. Tổ
chức đó chính là nhà nớc và sự xuất hiện của nhà nớc là yêu cầu khách quan. Nhà nớc không
phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là một lực lợng nảy sinh từ xã hội, tựa
hồ nh đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm
trong vòng trật tự.
So với tổ chức thị tộc trớc kia thì nhà nớc có hai đặc trng cơ bản là phân chia dân c
theo lãnh thổ và thiết lập quyền lực công cộng.
Quyền lực công cộng của nhà nớc khác với quyền lực xã hội trong chế độ cộng sản
nguyên thuỷ ở chỗ: quyền lực đó không thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội mà chỉ thuộc
về giai cấp thống trị, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực đó cần có
một lớp ngời đặc biệt và bộ máy cỡng chế bao gồm quân đội, cảnh sát, toà án để sử dụng
một thứ công cụ đặc biệt mà xã hội trớc kia cha hề biết đến, đó là Pháp luật. Cho nên cùng với
sự ra đời của nhà nớc thì pháp luật cũng xuất hiện.
2.Nguồn gốc của pháp luật

3


Những nguyên nhân làm phát sinh ra nhà nớc cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, những tập quán và tín điều tôn giáo
đã là những quy phạm xã hội rất phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội lúc đó, bởi vì
chúng phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế xã hội của chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Khi chế
độ t hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành giai cấp thì những tập quán đó không còn phù
hợp nữa, cần thiết phải có một quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một trật tự. Quy phạm đó
chỉ thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp thông trị, đó là quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật
của các nớc đợc hình thành từng bớc phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nớc.
Nhng nhìn chung ở thời kì sơ khai ,giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng tập quán để phục vụ
lợi ích giai cấp bằng cách thay đổi nội dung và nâng chúng lên thành các quy phạm pháp luật.
Mặt khác hệ thống pháp luật của mỗi nớc còn đợc hình thành từ một nguồn khác, đó là các văn

bản do các cơ quan nhà nớc ban hành nhằm củng cố chế độ chính trị và qui định đặc quyền cho
giai cấp thống trị.
Nh vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nớc ban hành thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị, nó hoàn toàn khác với các qui phạm xã hội (bao gồm chủ yếu là các tập quán) thể
hiện ý chí của tất cả mọi ngời. Pháp luật ra đời cùng với nhà nớc, pháp luật là công cụ sắc bén
để thực hiện quyền lực nhà nớc, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nớc
ban hành ra pháp luật và đảm bảo đợc thực hiện, cả hai đều là sản phẩm của đấu tranh giai cấp.
Tóm lại, nhà nớc và pháp luật cùng xuất hiện ở những giai đoạn phát triển kinh tế nhất
định, giai đoạn gắn liền với sự ra đời của chế độ t hữu về t liệu sản xuất, phân chia xã hội thành
giai cấp. Sự tồn tại và phát triển của nhà nớc và pháp luật gắn liền sự tồn tại và phát triển của
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Lịch sử đã trải qua các kiểu nhà nớc và pháp luật: chiếm hữu nô
lệ, phong kiến, t sản và xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế kiểu nhà nớc pháp luật này bằng kiểu nhà
nớc pháp luật khác tiến bộ hơn là một qui luật tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế xã hội
này bằng hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn.
ii. bản chất của nh nớc. Kiểu nh nớc v hình thức nh
nớc.
1.Bản chất của nhà nớc.
Nhà nứơc là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cỡng chế và thực hiện các chức năng quản lí đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
những mục đích của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội.
Nhà nớc là một bộ phận của kiến trúc thợng tầng, là sản phẩm của chế độ kinh tế nhất
định. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng quy định sự phát triển của nhà nớc. Tuy nhiên, sự biến đổi
của nhà nớc không phải chỉ phụ thuộc vào sự biến đổi của cơ sở kinh tế mà còn đợc qui định
bởi các điều kiện và yếu tố khác nh: tơng quan lực lợng giai cấp, mức độ gay gắt của các mâu
thuẫn xã hội, các đảng phái chính trị, các quan điểm chính trị. Ngợc lại nhà nớc cũng tác động
mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế, đến những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội cũng
nh đến các hiện tợng xã hội khác.
Bản chất của nhà nớc còn đợc thể hiện trong các chức năng của nó, bao gồm chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nớc
trong nội bộ đất nớc nh: bảo đảm an toàn trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối, bảo

vệ chế độ chính trị
Chức năng đối ngoại thể hiện những mặt hoạt động của nhà nớc trong quan hệ với các
quốc gia khác nh: phòng thủ đất nớc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, thiết lập quan hệ với các nhà
nớc khác

4


Để bảo vệ lợi ích cho mình, giai cấp thống trị ngoài việc thiết lập bộ máy nhà nớc với
những cơ quan đặc biệt (quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù) còn thiết lập hoặc sử dụng nhiều tổ
chức chính trị xã hội khác, trong đó đáng chú ý nhất là đảng phái chính trị. Tuy nhiên so với các
tổ chức khác trong xã hội, nhà nớc với bản chất đặc thù có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
-Nhà nớc thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt. để thực hiện quyền lực đó, Nhà nớc có
một lớp ngòi đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lí, họ tham gia vào các cơ quan nhà nớc và
hình thành một bộ máy cỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị.
-Nhà nớc phân chia dân c theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính không phụ thuộc vào
chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp, giới tính
-Nhà nớc có chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lí thể hiện quyền độc lập tự
quyết của nhà nớc về những chính sách đối nội và đối ngoại.
-Nhà nớc ban hành pháp luật và thực hiện quản lí bắt buộc đối với mọi công dân.
Những đặc điểm nói trên nói lên sự khác nhau giữa nhà nớc và các tổ chức chính trị xã hội
khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí, vai trò của nhà nớc trong xã hội .
2.Kiểu nhà nớc và hình thức nhà nớc
2.1.Kiểu nhà nớc
Kiểu nhà nớc là tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của nhà nớc, thể hiện bản chất giai
cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của nhà nớc trong một hình thái kinh tế xã hội nhất
định. Xác định kiểu nhà nớc là xác định những dấu hiệu chủ yếu nhất trên cơ sở bản chất giai
cấp và cơ sở kinh tế của nhà nớc.
Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội: chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tơng ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó

là bốn kiểu nhà nớc: kiểu nhà nớc chiếm hữu nô lệ, kiểu nhà nớc phong kiến, kiểu nhà nớc
t sản và kiểu nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nớc chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t sản tuy có đặc điểm riêng nhng đều
thuộc kiểu nhà nớc của giai cấp bóc lột. Cơ sở kinh tế của nó là chế độ t hữu về t liệu sản xuất
và chế độ ngời bóc lột ngời, các nhà nớc đó đều là công cụ thống trị của thiểu số giai cấp bóc
lột với đại đa số nhân dân lao động. Đối lập với kiểu nhà nớc nói trên là kiểu nhà nớc xã hội
chủ nghĩa với bản chất hoàn toàn khác,có nhiệm vụ thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Sự thay thế một kiểu nhà nớc này bằng một kiểu nhà nớc mới tiến bộ hơn là một tất yếu
lịch sử. Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của các qui luật kinh tế xã hội cách
mạng là con đờng dẫn đến sự thay thế đó. Các cuộc cách mạng khác nhau đã đem nhà nớc
phong kiến thay thế nhà nớc chiếm hữu nô lệ, nhà nớc t sản thay thế nhà nớc phong kiến,
nhà nớc xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nớc t sản. Nhà nớc xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nớc
mới tiến bộ nhất và cũng là kiểu nhà nớc cuối cùng trong lịch sử, sau khi hoàn thành sứ mạng
của mình nhà nớc xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong và sẽ không còn kiểu nhà nớc nào khác nữa.
2.2.Hình thức nhà nớc
Hình thức nhà nớc là cách tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc. Hình thức chính thể,
hình thức cấu trúc nhà nớc và chế độ chính trị là ba mặt của vấn đề hình thức nhà nớc.
* Hình thức chính thể: là cách tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan cao nhất của nhà
nớc cùng với những mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là
chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.

5


+ Chính thể quân chủ là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao của nhà nớc tập
trung toàn bộ (hoặc một phần) vào tay ngời đứng đầu nhà nớc theo nguyên tắc truyền ngôi
hoặc đợc bầu suốt đời. Tuỳ thuộc vào phạm vi quyền lực của ngời đứng đầu nhà nớc: Vua,
Quốc trởng, ngời ta phân biệt chính thể quân chủ chuyên chế hoặc quân chủ lập hiến.
+ Chính thể cộng hoà là hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao của nhà nớc thuộc

về một cơ quan đợc bầu ra trong một thời hạn nhất định. Chính thể cộng hoà đợc chia thành
cộng hoà đại nghị và cộng hoà tổng thống, hoặc cộng hoà dân chủ và cộng hoà quí tộc (nhà nớc
xã hội chủ nghĩa thuộc dạng chính thể cộng hoà dân chủ).
* Hình thức cấu trúc nhà nớc: là sự cấu tạo quốc gia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ
và xác lập những mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau cũng nh giữa trung ơng với địa
phơng. Có hai hình thức cấu trúc nhà nớc chủ yếu là hình thức nhà nớc đơn nhất và hình thức
nhà nớc liên bang.
+ Nhà nớc đơn nhất là nhà nớc có chủ quyền chung, có hệ thống cô quan quyền lực và cơ
quan hành chính thống nhất từ trung ơng đến địa phơng (Việt Nam, Pháp, Lào)
+ Nhà nớc liên bang là nhà nớc có hai hay nhiều nớc thành viên hợp lại trong đó cơ
quan quyền lực nhà nớc cao nhất chung cho toàn liên bang, đồng thời mỗi nhà nớc thành viên
lại có cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất của mình (Mĩ, Nga).
* Chế độ chính trị: là tổng thể các phơng pháp và thủ đoạn mà các cơ quan nhà nớc sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nớc. Trong lịch sử các giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều
phơng pháp và thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nớc, nhng tựu chung chúng đợc phân
thành hai loại chính là: phơng pháp dân chủ và phơng pháp phản dân chủ.
+ Phơng pháp dân chủ có thể biểu hiện dới những hình thức khác nhau nh: dân chủ thực
sự và dân chủ giả hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián
tiếp.
+ Phơng pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài trong việc thực hiện quyền lực nhà
nớc, khi chế độ phản dân chủ phát triển đến mức độ cao thì trở thành tàn bạo, quân phiệt, phát
xít.
Tóm lại, hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nớc và chế độ chính trị có liên quan
mật thiết với nhau, ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành khái niệm nhà nớc.
3. Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1. Bản chất của nhà nớc Cộng hoà x hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nớc kiểu mới, ra đời từ cách mạng
tháng 8 năm 1945 mang bản chất tốt đẹp là xoá bỏ áp bức bóc lột, phục vụ lợi ích của nhân dân
lao động.
Vấn đề bản chất của nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đợc thể hiện rõ trong

Hiến pháp 1992. Đó là nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân và nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức (Điều 2). Tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân là những thuộc tính cơ bản xuyên
suốt thể hiện bản chất của nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là nhà nớc mà
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, một nhà nớc do dân lập ra, dân giám sát và tham gia vào
hoạt động của bộ máy nhà nớc. Thể hiện rõ nét bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa trên tinh thần
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Tóm lại, nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất của giai cấp công
nhân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, có sự gắn bó mật

6


thiết giữa lợi ích của giai cấp với lợi ích của dân tộc, phấn đấu cho một xã hội công bằng, văn
minh.
Bản chất của nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn đợc thể hiện ở chức
năng, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc .
3.2.Chức năng của nhà nớc Cộng hoà x hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ chủ yếu để thiết lập và thực thiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bản chất của nhà nớc qui định
các chức năng cơ bản của nhà nớc trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể.
* Các chức năng đối nội:
+ Chức năng tổ chức và quản lí kinh tế.
Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không những là tổ chức có quyền lực chính
trị bao trùm toàn xã hội mà còn là chủ sở hữu những t liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Do đó,
tổ chức và quản lí kinh tế là một trong những chức năng cơ bản của nhà nớc.
Trong điều kiện hiện nay tổ chức và quản lí kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau
đây:
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ
nghĩa, sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lí, phù hợp với điều kiện thực tế để đảm

bảo sự tăng trởng ổn định.
- Tiếp tục xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận
hành có hiệu quả cơ chế thị trờng có sự quản lí của nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách. Xây dựng, phát triển đồng bộ một thị trờng hoàn chỉnh cả sức lao động, vốn, tiền tệ thông
suốt trong cả nớc và với thị trờng quốc tế.
- Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, công nghệ để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế
xã hội của đất nớc theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Mở rộng quan hệ hợp tác với các nớc trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền .
+ Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự chống đối của các
lực lợng thù địch, phá hoại và các âm mu phản cách mạng khác.
Mặc dù đã bị đánh đổ nhng các giai cấp và lực lợng thù địch vẫn không ngừng phá hoại
thành quả cách mạng hòng làm suy yếu chính quyền nhân dân. Do đó, giữ vững an ninh quốc gia,
đảm bảo sự ổn định chính trị của đất nớc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những
thành quả cách mạng phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nớc luôn luôn là một chức năng quan
trọng cuả nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Chức năng tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải phát huy nhân tố con ngời với nền
giáo dục và khoa học công nghệ tiên tiến, nền văn hoá hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc, chức
năng này của nhà nớc thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Nhà nớc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại mang đậm sắc
thái dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại vừa kế thừa và phát huy giá trị của nền văn
hiến các dân tộc Việt Nam.
- Nhà nớc coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu (diều 35-Hiến pháp 1992).
Xác định mục đích của việc quản lí và phát triển nền giáo dục là nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dỡng nhân tài. Từ đó nhà nớc thống nhất quản lí hệ thống giáo dục về mục tiêu,
chơng trình, nội dung, kế hoạch

7



- Trên cơ sở xác định vai trò then chốt của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nớc, nhà nớc đầu t phát triển đồng bộ các nghành khoa học, xây dựng một nền
khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại.
* Các chức năng đối ngoại
+ Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân
(điều 44-Hiến pháp 1992). Đây là chức năng chủ yếu thờng xuyên của nhà nớc ta, điều đó xuất
phát từ sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động với âm mu phá hoại chủ nghĩa
xã hội trong điều kiện diễn biến hoà bình. Đòi hỏi nhà nớc ta phải luôn luôn nêu cao cảnh giác,
đập tan mọi âm mu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, các lực lợng vũ trang nhân dân giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, nhà nớc xây dựng lực lợng quân đội nhân dân và công an nhân dân chính qui, tinh nhuệ
kết hợp với việc xây dựng lực lợng quốc phòng toàn dân tạo nên sức mạnh của toàn dân trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
+ Chức năng củng cố và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nớc.
Củng cố và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nớc là một trong những chức
năng quan trọng của nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nớc thực hiện chính
sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lu hợp tác quốc tế với tất cả các nớc trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi trong quan hệ.
Các chức năng của nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau, trong đó các chức năng đối nội giữ vai trò chủ đạo, có ý nghĩa quyết
định đối với các chức năng đối ngoại. Nhng việc thực hiện tất cả các chức năng đối ngoại sẽ tác
động mạnh mẽ đến kết quả của việc thực hiện các chức năng đối nội.
3.3.Bộ máy nhà nớc Cộng hoà x hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ quan nhà nớc từ
trung ơng đến địa phơng đợc tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất tạo
thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nớc.
Bộ máy nhà nớc ta có đặc điểm vừa là tổ chức hành chính, vừa là tổ chức quản lí kinh tế.

Do đó trong bộ máy nhà nớc, bên cạnh các cơ quan cỡng chế nh quân đội, cảnh sát, toà
áncòn có các cơ quan quản lí kinh tế, văn hoá, giáo dục. Tuy nhiên, tất cả các cơ quan trong bộ
máy nhà nớc đều chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan quyền lực, chịu trách nhiệm báo cáo
công tác trớc các cơ quan quyền lực. Trong bộ máy nhà nớc ta, một mặt đảm bảo sự thống nhất
quyền lực, nhng mặt khác có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nớc
trong việc thực hiện quyền lực đó.
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc: (đợc ghi nhận trong Hiến pháp
1992) gồm những nội dung cơ bản sau đây:
+ Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nớc .
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nớc, đợc xác định trong
điều 4-Hiến pháp 1992: Đảng Cộng sản Việt nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê nin và t tởng Hồ Chí Minh, là lực
lợng lãnh đạo nhà nớc và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nớc thể hiện ở chỗ Đảng
định ra đòng lối, chính sách, chủ trơng, trên cơ sở đó nhà nớc thể chế hoá thành các biện pháp

8


cụ thể để tổ chức thực hiện. Đảng thực hiện giám sát, kiểm tra và chỉ đạo hoạt động của nhà
nớc.
+ Nguyên tắc quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện quyền lực.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nhà nớc là tất cả quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân
nên nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức hoạt động của bộ maý nhà nớc là đảm bảo sự thống nhất về
quyền lực, không có sự phân tách đối chọi nhau giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và t pháp.
Quyền lực nhà nớc cao nhất thống nhất vào Quốc hội (cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân),
đồng thời có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nớc vì không một cơ quan
nào có thể thực thi nổi cả ba quyền lực đó. Quốc hội là cơ quan duy nhất nắm quyền lập pháp,
đồng thời cũng có một số thẩm quyền thuộc quyền hành pháp và t pháp. Chính phủ nắm quyền
hành pháp có vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp và t pháp. Toà án, Viện kiểm sát có

chức năng trung tâm của quyền t pháp. Để đảm bảo quán triệt đợc nguyên tắc này, bộ máy nhà
nớc phải đợc không ngừng hoàn thiện, xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ cũng nh
mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nớc, phát huy đầy đủ cả ba quyền lập pháp, hành
pháp, t pháp, đảm bảo thống nhất quyền lực nhà nớc.
+ Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào quản lí nhà nớc.
Nguyên tắc này cũng đợc xác định cụ thể trong Hiến pháp Công dân có quyền tham gia
quản lí nhà nớc và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nớc và địa phơng,
kiến nghị với các cơ quan nhà nớc, biểu quyết khi nhà nớc tổ chức trng cầu dân ý (điều 53Hiến pháp 1992). Hình thức tham gia của nhân dân vào quản lí nhà nớc rất đa dạng, vừa gián
tiếp thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân, vừa trực tiếp tham gia làm
việc trong các cơ quan nhà nớc.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 6-Hiến pháp 1992 qui định Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của
nhà nớc đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nguyên tắc
này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc có nghĩa là kết hợp sự điều hành tập trung
thống nhất của trung ơng và cơ quan nhà nớc cấp trên với hoạt động tự chủ, năng lực sáng tạo
của địa phơng và cơ quan nhà nớc cấp dới. Kết hợp giữa quyết định tập thể với trách nhiệm cá
nhân, tránh biểu hiện lệch lạc của cả hai khuynh hớng: tập trung quan liêu và phân tán cục bộ.
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc. Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của
các cơ quan trong bộ máy nhà nớc phải tiên hành theo đúng qui định của pháp luật, mọi cán bộ,
nhân viên nhà nớc phải triệt để tôn trọng pháp luật khi thi hành quyền hạn và nhiệm vụ của
mình. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự tăng cờng kiểm tra, giám sát, xử lí nghiêm minh những
hành vi vi phạm pháp luật.
* Các cơ quan trong bộ máy nhà nớc
Bộ máy nhà nớc bao gồm một hệ thống cơ quan trong đó mỗi cơ quan là một bộ phận của
hệ thống có địa vị pháp lí riêng, có qui chế riêng về tổ chức và hoạt động, cùng góp phần thực
hiện quyền lực nhà nớc.
Theo Hiến pháp 1992, tổ chức bộ máy nhà nớc của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gồm các cơ quan sau: Quốc hội, Chủ tịch nớc, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban

nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
+ Quốc hội.

9


Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nớc cao
nhất của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam (điều 83-Hiến pháp 1992). Quốc hội là cơ
quan nhà nớc duy nhất ở nớc ta do cử tri cả nớc bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp, bỏ phiếu kín. Quyền hạn của Quốc hội bao gồm:
- Quyền lập hiến và lập pháp.
- Quyền quyết định những công việc quan trọng nhất của đất nớc.
- Quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nớc.
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội bao gồm: Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc của
Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội: Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban kinh tế và ngân sách, Uỷ ban
quốc phòng và an ninh, Uỷ ban văn hoá và giáo dục , và đại biểu Quốc hội.
Hoạt động chủ yếu của Quốc hội thông qua các kì họp thờng xuyên, mỗi năm hai lần do
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội triệu tập. Nhiệm kì của Quốc hội là 5 năm.
+ Chủ tịch nớc
Chủ tịch nớc là ngời đứng đầu nhà nớc, thay mặt nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt nam về đối nội và đối ngoại (điều 103-Hiến pháp 1992). Quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ
tịch nớc bao gồm:
- Công bố Hiến pháp, Lệnh, Pháp lệnh và các quyết định quan trọng khác của Quốc hội và
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội.
- Đề nghị Uỷ ban thờng vụ Quốc hội xem xét lại một số Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban
thờng vụ Quốc hội.
- Quyết định các vấn đề về an ninh quốc phòng và các vấn đề quan trọng
+ Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nớc cao nhất của nớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam (điều 109-Hiến pháp 1992). Chính phủ, trớc hết là cơ quan chấp hành của Quốc hội,

do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết
của Quốc hội. Là cơ quan đứng đầu hệ thống các cơ quan hành chính của nhà nớc, Chính phủ có
nhiệm vụ quản lí, điều hành toàn bộ mọi mặt đời sống của đất nớc.
Tổ chức của Chính phủ gồm có Thủ tớng, các phó Thủ tớng, các Bộ trởng và các thành
viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội.
Thủ tớng là ngời đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trớc Quốc hội và báo cáo công
tác với Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, Chủ tịch nớc. Bộ trởng là ngời đứng đầu một
ngành, một lĩnh vực quản lí, chịu trách nhiệm quản lí nhà nớc về ngành, lĩnh vực mà Bộ phụ
trách trên phạm vi cả nớc.
+ Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nớc ở địa phơng, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phơng bầu ra, chịu trách nhiệm
trớc nhân dân địa phơng và cơ quan nhà nớc cấp trên (điều 119-Hiến pháp 1992). Nhiệm vụ
và quyền hạn của Hội đồng nhân dân đợc thể hiện trong ba nội dung chủ yếu sau:
- Quyết định các chủ trơng, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phơng.
- Bảo đảm thực hiện các qui định của các cơ quan nhà nớc cấp trên.

10


- Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nớc cùng cấp, giám sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan nhà nớc, các tổ chức và công dân ở địa phơng.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nớc ở địa phơng, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật,
các văn bản của cơ quan nhà nớc cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp
(điều 123-Hiến pháp 1992).
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là ngời lãnh đạo và điều hành các công việc của địa phơng,
chịu trách nhiệm trớc Hội đồng nhân dân cùng cấp và trớc cơ quan nhà nớc cấp trên.
+ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nớc, của tập thể,
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (điều 126-Hiến pháp
1992). Trong bộ máy nhà nớc, Toà án và Viện kiểm sát đều là cơ quan nhà nớc có nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật, tuy nhiên mỗi cơ quan lại có chức năng riêng:
- Toà án nhân dân là cơ quan xét xử các vụ việc vi phạm pháp luật về hình sự, dân sự, kinh
tế, lao động,hành chính. Hệ thống Toà án nớc ta bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng, các toà án nhân dân huyện, quận, thành phố
thuộc tỉnh ,thị xã, các toà án quân sự. Trong trờng hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập toà án đặc biệt.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố theo quy định của pháp luật. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng, Viện kiểm
sát nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã , Viện kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trởng lãnh đạo. Viện trởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
dới chịu sự lãnh đạo của Viện trởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trởng Viện kiểm
sát nhân dân địa phơng và Viện trởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống
nhất của Viện trởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
iii. kiểu, bản chất v hình thức biểu hiện của pháp luật
1. Kiểu pháp luật .
Kiểu pháp luật là tổng thể các dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của pháp luật, thể hiện
bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh
tế xã hội nhất định. Học thuyết Mác-Lê nin về các hình thái kinh tế xã hội là cơ sở để phân định
kiểu pháp luật. Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế xã hội có giai cấp sẽ quyết định những dấu
hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật: kiểu
pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật t sản, kiểu pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và t sản là kiểu pháp luật bóc lột đợc xây dựng trên
cơ sở của chế độ t hữu về t liệu sản xuất. Cho nên mặc dù mỗi kiểu có bản chất và cách biểu
hiện riêng nhng chúng đều có những đặc điểm chung là: thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột,

củng cố và bảo vệ chế độ t hữu về t liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lí sự bóc lột của giai
cấp thống trị.
Khác hẳn các kiểu pháp luật trên, pháp luật xã hội chủ nghĩa đợc xây dựng trên cơ sở chế
độ công hữu về t liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,

11


chiếm tuyệt đại đa số dân c trong xã hội. Mục đích của pháp luật xã hội chủ nghĩa là thủ tiêu áp
bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới trong đó mọi ngời đều bình đẳng và tự do.
Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là qui luật tất yếu.
Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của qui luật kinh tế: quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với
các hình thái kinh tế xã hội tơng ứng. Cách mạng là con đờng dẫn đến sự thay thế đó. Các cuộc
cách mạng xã hội khác nhau trong lịch sử đã đem lại kết quả: pháp luật phong kiến thay thế pháp
luật chủ nô, pháp luật t sản thay thế pháp luật phong kiến, pháp luật xã hội chủ nghĩa thay thế
pháp luật t sản. Trong tơng lai pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ bị tiêu vong và sau đó sẽ không
còn kiểu pháp luật nào thay thế nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay pháp luật xã hội chủ
nghĩa cần đợc xây dựng hoàn chỉnh để phát huy vai trò là công cụ để đảm bảo cho thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội.
2. Bản chất của pháp luật.
Sự hình thành và tồn tại của pháp luật gắn liền với sự hình thành và tồn tại của giai cấp
trong xã hội, cho nên tính giai cấp là sự thể hiện rõ nhất bản chất của pháp luật. Bất kì một nhà
nớc nào khi thực hiện nhiệm vụ của mình cũng phải xác lập nên các thể chế nhất định để bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Do đó nội dung của pháp luật do nhà nớc ban hành suy cho cùng là
do những quan hệ thống trị quyết định chứ không phải nhà nớc tuỳ tiện quyết định đợc. Hơn
nữa trong xã hội chỉ có giai cấp thống trị mới có khả năng thông qua nhà nớc để ban hành pháp
luật thể hiện ý chí của mình mà những giai cấp khác không thể thực hiện đợc khả năng này.
Bản chất giai cấp là thuộc tính của bất kì kiểu pháp luật nào, nhng mỗi kiểu pháp luật lại
có bản chất riêng và cách biểu hiện riêng. Ví dụ trong kiểu pháp luật chiếm hữu nô lệ và pháp

luật phong kiến thì giai cấp thống trị công khai quy định quyền lực vô hạn và những đặc quyền
đặc lợi của giai cấp chủ nô và địa chủ phong kiến. Nhng trong pháp luật t sản bản chất giai cấp
lại đợc thể hiện một cách tinh vi, thận trọng dới nhiều hình thức tự do, dân chủ mà thực chất là
thể hiện ý chí và phục vụ lợi ích của giai cấp t sản.
Để giải thích bản chất của pháp luật còn phân tích mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế và
chính trị.
+ Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tơng đối. Một mặt pháp luật
phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với
kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các
quan hệ kinh tế xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi của chế độ
kinh tế xã hội sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi của pháp luật. Pháp luật luôn luôn phản
ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế, nó không thể cao hơn hay thấp hơn trình độ phát triển
đó. Mặt khác pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế, sự tác động đó có
thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Khi nào pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp tiên tiến trong
xã hội, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì nó sẽ có nội dung tiến bộ và tác dụng
tích cực, ngợc lại khi pháp luật của giai cấp lỗi thời muốn duy trì các quan hệ kinh tế đã lạc hậu
thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
+ Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là một trong những hình thức biểu hiện cụ thể
của chính trị. Đờng lối chính sách của giai cấp thống trị luôn giữ vai thò chỉ đạo đối với pháp
luật. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, vì vậy đờng lối chính trị biểu hiện trớc hết
ở các chính sách kinh tế. Các chính sách đó đợc cụ thể hoá trong pháp luật thành những qui định
chung thống nhất trong toàn xã hội. Bất kì giai cấp thống trị nào cũng đều dùng pháp luật làm
phơng tiện để thực hiện đờng lối chính trị của giai cấp mình, do vậy đờng lối chính sách của
giai cấp thống trị trở thành bắt buộc đối với giai cấp khác. Mỗi sự thay đổi về đờng lối chính

12


sách của giai cấp thống trị đều đợc thể chế hoá thành các văn bản pháp luật làm cho ý chí và
mục đích của giai cấp thống trị đợc thực hiện.

Từ những điểm đã trình bày trên đây, có thể đi đến kết luận là: pháp luật là một trong những
biểu hiện của chính trị, là hình thức dùng nhà nớc biến chính trị của giai cấp thống trị thành
những qui phạm chung mà mọi ngời phải tuân theo. Chính trị là linh hồn của pháp luật. Tuy
nhiên cùng với pháp luật, giai cấp thống trị còn sử dụng nhiều phơng tiện khác nh văn học,
nghệ thuật, tôn giáolàm công cụ để đạt đợc mục đích, nhng chỉ có pháp luật là công cụ,
phơng tiện quan trọng nhất, có hiệu quả nhất. Bởi vì so với các phơng tiện khác thì pháp luật có
một số đặc điểm đặc thù sau:
- Pháp luật do nhà nớc ban hành cho nên pháp luật có phạm vi rộng lớn nhất, tới tất cả mọi
ngời trong xã hội.
- Pháp luật đợc nhà nớc đảm bảo thực hiện, vì vậy pháp luật có tính cỡng chế cao, bắt
buộc mọi ngời phải thực hiện.
3. Các hình thức pháp luật
Nh mọi hiện tợng xã hội khác, pháp luật cũng có những hình thức biểu hiện cụ thể nhất
định. Hình thức biểu hiện của pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí
của giai cấp mình lên thành luật. Trong lịch sử đã có ba hình thức pháp luật là tập quán pháp,
tiền lệ pháp và văn bản pháp luật.
3.1. Tập quán pháp.
Tập quán pháp là hình thức nhà nớc thừa nhận một số tập quán đã lu truyền trong xã hội
phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành các qui tắc xử sự chung đợc nhà
nớc đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cỡng chế bắt buộc. Do đợc nhà nớc thừa nhận nên tập
quán pháp trở thành ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi ngời phải tuân thủ, còn tập quán thông
thờng đợc tuân theo chỉ là do thói quen, do truyền thống mà thôi. Tập quán pháp là hình thức
pháp luật xuất hiện sớm nhất ở thời kì cổ xa, trong xã hội phát triển chậm chạp, đợc sử dụng
nhiều trong các nhà nớc chủ nô và phong kiến. Trong nhà nớc t sản hình thức này vẫn đợc sử
dụng, nhất là ở các nớc có chế độ quân chủ.
Vì tập quán pháp hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục bộ, cho nên hình
thức tập quán pháp về nguyên tắc không phù hợp với bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy cũmg có một số tập quán thể hiện truyền thống và đạo đức dân tộc, có tác dụng tốt trong
việc phát huy và bảo vệ nền văn hoá dân tộc. Do đó trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhà
nớc xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận một số tập quán tiến bộ tuy ở mức độ rất hạn chế.

3.2. Tiền lệ pháp.
Tiền lệ pháp là hình thức nhà nớc thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hay cơ
quan xét xử khi giải quyết những vụ việc cụ thể làm khuôn mẫu áp dụng đối với các vụ việc
tơng tự. Hình thức này xuất hiện muộn hơn hình thức tập quán pháp, đợc sử dụng trong các nhà
nớc phong kiến một cách rộng rãi và hiện nay nó vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật t
sản (đặc biệt trong dân luật Anh, Mỹ).
Cũng nh tập quán pháp, tiền lệ pháp hình thành không phải do cơ quan lập pháp, nó đợc
xuất hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và t pháp. Do vậy, hình thức pháp luật này thờng
dễ tạo ra sự tuỳ tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng nguyên tắc
tối cao của luật và sự phân định quyền hạn của các cơ quan lập pháp, hành pháp và t pháp. Nó
hoàn toàn không phù hợp với hình thức của pháp luật xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên ở giai đoạn đầu
của cách mạng (nhà nớc xã hội chủ nghĩa mới ra đời) do hệ thống pháp luật cha đợc xây dựng
hoàn chỉnh trớc yêu cầu cần giải quyết một số vụ việc cấp thiết, nhà nớc xã hội chủ nghĩa vẫn

13


còn sử dụng hình thức này. Nhng đó chỉ là sự vận dụng linh hoạt trên cơ sở đờng lối chính sách
của Đảng. Khi hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh thì hình thức pháp luật này không còn tồn
tại nữa.
3.3.Văn bản pháp luật.
Văn bản pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành, trong đó qui
định những quy tắc xử sự chung cho mọi ngời, đợc áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có
nhiều loại văn bản pháp luật . ở mỗi nớc trong những điều kiện cụ thể có thể có những qui định
riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lí của các loại văn bản pháp luật, nhng nhìn chung các văn bản
pháp luật đều đợc ban hành theo một trình tự, cách thức nhất định, trong đó có chứa đựng các
qui phạm cụ thể nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định nào đó.
Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, hầu hết các đạo luật là bản ghi chép lại một cách có
hệ thống các án lệ và các đã đợc thừa nhận. Pháp luật t sản đã có nhiều hình thức văn bản
phong phú và đợc xây dựng với kỹ thuật lập pháp cao. Đặc biệt trong giai đoạn đầu, khi nền

dân chủ t sản xuất hiện tuyên bố quyền lập pháp tập trung vào Nghị viện làm cho pháp luật t
sản có hệ thống văn bản tơng đối thống nhất trên cơ sở luật. Nhng sau khi dành đợc thắng lợi
hoàn toàn đối với chế độ phong kiến, giai cấp t sản đã tự phá vỡ nguyên tắc thống nhất trên bằng
cách hạ thấp vai trò của Nghị viện, mở rộng quyền của Tổng thống và Chính phủ, sử dụng rộng
rãi hình thức tiền lệ pháp và tập quán pháp.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có hệ thống các văn bản thống nhất đợc xây dựng theo nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của luật. Hệ thống các văn bản pháp luật
ngày càng đợc xây dựng hoàn chỉnh đồng bộ với kĩ thuật cao, thể hiện sự tiến bộ của hình thức
văn bản pháp luật.

14


Chơng ii
Pháp luật x hội chủ nghĩa
i. bản chất, vai trò v các nguyên tắc cơ bản của pháp luật x
hội chủ nghĩa
1.Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa .
Sau khi giành đợc thắng lợi cách mạng, giai cấp vô sản không những thiết lập, củng cố và
tăng cờng bộ máy nhà nớc chuyên chính vô sản mà còn phải nhanh chóng xoá bỏ hệ thống
pháp luật cũ, xây dựng một hệ thống pháp luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong điều kiện mới, trấn áp các phần tử chống đối cách mạng, tổ chức xây dựng một xã hội mới.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là kiểu pháp luật cuối cùng, tiến bộ nhất trong lịch sử. Ra đời cùng với
nhà nớc, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng nh nhà nớc tồn tại trong suốt thời kì quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Là kiểu pháp luật mới, tiến bộ nhất trong lịch sử, khác
hẳn với các kiểu pháp luật bóc lột trớc đó, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, xoá bỏ bóc lột, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về t
liệu sản xuất, thực hiện một nền dân chủ mới và đảm bảo công bằng xã hội.
Khác với bản chất của các kiểu pháp luật bóc lột, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện bản
chất tiến bộ ở những điểm sau đây:

+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hệ thống quy tắc xử sự có tính nội thống nhất nội tại rất
cao. Tính hệ thống của pháp luật một mặt nói lên sự đa dạng của các quy phạm đợc ban hành
trong các thời điểm khác nhau để điều chỉnh các loại quan hệ xã hội cần thiết. Mặt khác, dù có
nhiều quy phạm khác nhau nhng tất cả đều thống nhất với nhau thể hiện cùng một bản chất làm
cho pháp luật trở thành hệ thống các quy phạm đồng bộ.
Cũng cần phải khẳng định rằng pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính thống nhất cao hơn bất kì
kiểu pháp luật nào khác, bởi vì pháp luật xã hội chủ nghĩa đợc xây dựng trên cơ sở quan hệ kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đặc trng bằng chế độ công hữu về t liệu sản xuất. Trong thời kì quá độ,
mặc dù nền kinh tế còn tồn tại cơ cấu nhiều thành phần nhng dới sự điều tiết của nhà nớc, nền
kinh tế đó vẫn phát triển theo xu hớng thống nhất ngày càng cao. Điều đó quyết định tính thống
nhất và xu hớng phát triển của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đây là điểm khác biệt căn bản với các kiểu pháp luật khác. Các kiểu pháp luật bóc lột đều có
chung một bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột, trái lại pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí của số đông, tuyệt đại đa số trong dân c, cho nên nó đợc đông đảo quần
chúng tự giác thực hiện và tôn trọng. Tuy nhiên trong thời kì quá độ. Tuỳ thuộc vào sự thống nhất
và cha thống nhất về lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau, việc thể hiện ý chí đó cũng có
những mức độ khác nhau.
+ Pháp luật do nhà nớc ban hành và bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật là các quy tắc xử
sự có tính bắt buộc chung, dựa vào sức mạnh cỡng chế của quyền lực nhà nớc. Đặc điểm này
phản ánh tính đặc thù của pháp luật: pháp luật bao giờ cũng là ý chí nhà nớc, hình thành bằng
con đờng nhà nớc. Mọi quy tắc xử sự không do nhà nớc ban hành đều không phải là pháp
luật.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ với kinh tế. Trong mối quan hệ này kinh tế giữ vai
trò quyết định đối với pháp luật, pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế,
mọi sự thay đổi của chế độ kinh tế sẽ dẫn đến những thay đổi tơng ứng của pháp luật. Tuy nhiên
pháp luật cũng có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với sự phát triển của chế độ kinh tế.

15



Pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội. Vì vậy
nếu pháp luật phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó sẽ có vai trò tích cực và
ngợc lại nếu phản ánh không đúng, pháp luật sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với đờng lối, chủ trơng chính sách của
Đảng Cộng sản. Trong mối quan hệ này, đờng lối chính sách của Đảng giữ vai trò chỉ đạo: chỉ
đạo phơng hớng và xây dựng pháp luật, chỉ đạo nội dung pháp luật, chỉ đạo việc tổ chức thực
hiện và áp dụng pháp luật. Pháp luật luôn luôn phản ánh dờng lối chính sách của Đảng, là sự thể
chế hoá đờng lối chính sách thành các qui định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Vì
vậy trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng nh việc áp dụng thực hiện phải thấm nhuần
các quan điểm thể hiện trong đờng lối của Đảng. Tuy nhiên cần hết sức tránh khuynh hớng
dùng đờng lối chính của Đảng để thay thế cho pháp luật, hạ thấp vai trò của pháp luật.
+ Pháp luật có quan hệ qua lại với các quy phạm xã hội khác trong chủ nghĩa xã hội nh
quy phạm đạo đức, quy tắc xử sự của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng.
Những quan điểm, quan niệm của con ngời về cuộc sống, những tập quán lâu đời đã trở
thành truyền thống của dân tộc đều chịu sự tác động mạnh mẽ của pháp luật, có ảnh hởng không
nhỏ tới việc hình thành hành vi và nhân cách của con ngời mới. Vì vậy để phát huy vai trò của
pháp luật thì cần thiết phải xét đến mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
2. Vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong đời sống xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan trọng: là phơng tiện
để thể chế hoá đờng lối chính sách của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đợc thực hiện
có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội, là phơng tiện để nhân dân lao động thể hiện ý chí và thực
hiện quyền làm chủ của mình, thực hiện công bằng xã hội, là phơng tiện để nhà nớc quản lí
mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nớc.
Tuy nhiên những quan điểm trên mới chỉ phản ánh vai trò của pháp luật ở bình diện chung.
Để thấy rõ vai trò của pháp luật cần phải xem xét nó ở góc độ cụ thể gắn với việc thực hiện các
chức năng của nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Bởi vì pháp luật đợc đặt ra nhằm thực hiện những
mục đích đã đợc xác định, những mục đích đó luôn xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của nhà
nớc xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ, cũng nh trong mỗi giai đoạn cụ thể. Trong mối quan
hệ này có thể nhận thấy vai trò của pháp luật thể hiện ở những mặt sau đây:

+ Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
Bộ máy nhà nớc là một thiết chế phức tạp, bao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan). Để
bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng thẩm quyền, trách nhiệm
của mỗi loại cơ quan, phải có những phơng pháp và hình thức tổ chức hoạt động phù hợp tạo
thành một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực hiện quyền lực nhà nớc. Tất cả những
điều đó chỉ có thể thực hiện đợc khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và qui định
cụ thể của pháp luật.
+ Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và quản lí kinh tế,
xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Do tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lí kinh tế, nhà nớc không thể
trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế mà chỉ thực hiện việc quản lí hành chính-kinh tế.
Quá trình đó không thể thực hiện đợc nếu nh không dựa vào pháp luật. Chỉ có pháp luật với
những tính chất đặc thù của nó mới là cơ sở để đảm bảo cho nhà nớc hoàn thành đợc chức năng
của mình trong lĩnh vực kinh tế. Đánh giá vai trò quan trọng này của pháp luật, Nghị quyết đại
hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định rằng: Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trờng có sự quản lí của nhà nớc bằng pháp
luật.

16


+ Pháp luật bảo đảm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực nhân dân
đảm bảo công bằng xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa với bản chất dân chủ, thể hiện ý chí và những lợi ích cơ bản nhất
của tất cả các tầng lớp nhân dân lao động sẽ là điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ, củng cố
và hoàn thiện hệ thống chính trị. Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn đợc biểu hiện trong việc xác lập
và điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nớc và công dân. Những quyền tự do dân chủ của công dân
phải đợc quy định cụ thể trong pháp luật, nhà nớc phải đảm bảo cho công dân thực hiện các
quyền đó trong khuôn khổ luật định.
+ Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Xuất phát từ tình hình thực tế trong thời kì quá độ, bên cạnh hệ thống quy phạm pháp luật
đã đợc đặt ra để điều chỉnh hành vi của các chủ thể, thiết lập một trật tự quan hệ pháp luật, thúc
đẩy quá trình phát triển và những tiến bộ xã hội, pháp luật còn chứa đựng những quy phạm cấm
mọi hành vi gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xâm hại lợi ích nhà nớc, tập thể và
công dân.
Trong lĩnh vực này pháp luật là công cụ sắc bén nhất thể hiện quyền uy nhà nớc đảm bảo
cho ý chí của giai cấp thống trị đợc thực hiện.
+ Pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ.
Pháp luật là phơng tiện quan trọng để giáo dục đối với mọi ngời, từ những nhân viên nhà
nớc, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân. Những qui phạm pháp luật đợc đặt ra luôn xác
định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi ở
trong tình huống đã đợc dự kiến. Đồng thời ý nghĩa giáo dục còn thể hiện pháp luật qui định
những hình thức và mức độ khen thởng, khuyến khích vật chất và tinh thần đối với những thành
viên có nhiều cống hiến cho nhà nớc và xã hội, xử lí và trừng trị nghiêm khắc đối với những
ngời vi phạm pháp luật, làm xâm hại tới lợi ích của cá nhân, tập thể hoặc nhà nớc.
3. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể
hiện những nguyên tắc cơ bản sau đây:
+ Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nớc quản lí, nhân dân
làm chủ.
+ Nguyên tắc duy trì, củng cố và bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thống
nhất giữa ba lợi ích : nhà nớc, tập thể và công dân.
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đòi hỏi các cơ quan nhà nớc các tổ chức xã hội
và mọi công dân triệt để tôn trọng pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật trong cả ba mặt lập pháp,
hành pháp và t pháp.
+ Nguyên tắc tôn trọng hiệu lực tối cao của Hiến pháp và các đạo luật. Trong hệ thống các
văn bản pháp luật của nhà nớc thì Hiến pháp và các đạo luật là những văn bản pháp luật có hiệu
lực pháp lí cao nhất, cho nên nội dung của các văn bản pháp luật khác không đợc trái với Hiến
pháp và các đạo luật.
+ Nguyên tắc xây dựng chế độ làm chủ tập thể, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc

thực hiện kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực đối với hoạt động của bộ máy nhà nớc đảm
bảo cho quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đợc thực hiện một cách đầy đủ.
+ Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trớc pháp luật: Thể hiện ở chỗ công dân Việt
Nam không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, chữ viết đều bình đẳng trớc pháp luật.

17


+ Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sự nghiêm khắc đối với những ngời có hành vi cố ý vi
phạm pháp luật, nhng cũng tỏ rõ sự khoan hồng đối với những ngời biết hối cải và giáo dục
những ngời lầm lỡ phạm tội.
+ Nguyên tắc hoà bình, hữu nghị, và hợp tác với các nớc khác trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền của mỗi quốc gia.
Từ sự phân tích về bản chất, vai trò và nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa có thể đi
đến một định nghĩa sau đây: Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý
chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nớc xã
hội chủ nghĩa ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cỡng chế của Nhà nớc trên cơ sở
giáo dục và thuyết phục mọi ngời tôn trọng và thực hiện.
ii. quy phạm pháp luật x hội chủ nghĩa.
1. Khái niệm quy phạm pháp luật.
Trong đời sống có hai loại quy phạm là quy phạm kĩ thuật và quy phạm xã hội.
Quy phạm kĩ thuật là quy tắc đợc hình thành do con ngời nhận thức đợc quy luật của tự
nhiên trong quá trình lao động sáng tạo của mình. Còn những quy tắc xử sự chung (mẫu) đợc
đặt ra để điều chỉnh các mối quan hệ giữa ngời với ngời và đợc sử dung nhiều lần trong cuộc
sống đợc gọi là những quy phạm xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa ngời ta sử dng nhiều
loại quy phạm khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội nh quy phạm đạo đức, tôn giáo, quy
phạm của các tổ chức xã hội, quy phạm pháp luật Trong tất cả các loại quy phạm trên thì quy
phạm pháp luật có vai trò quan trọng nhất đối với việc duy trì trật tự xã hội, cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.

+ Quy phạm pháp luật trớc hết là qui phạm xã hội vì vậy nó mang tính chất vốn có của một
qui phạm xã hội: là quy tắc xử sự chung, là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con ngời. Thông
qua quy phạm pháp luật ta biết đợc hoạt động nào có ý nghĩa pháp lí, hoạt động nào không có ý
nghĩa pháp lí, hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật Ví dụ: để biết
đợc đâu là hoạt động tình cảm, đâu là hoạt động của pháp luật chúng ta phải căn cứ vào quy
phạm pháp luật.
+ Quy phạm pháp luật chỉ do nhà nớc đặt ra hoặc phê chuẩn đợc đảm bảo thực hiện bằng
các biện pháp cỡng chế nhà nớc. Nhà nớc lập ra một hệ thống các cơ quan chuyên môn để
đảm bảo cho pháp luật đợc thực hiện một cách đúng đắn và triệt để. Chủ thể nào vi phạm các
quy phạm pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí.
+ Quy phạm pháp luật là qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Quy phạm pháp luật đợc
đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể mà cho các chủ thể không xác định. Tính bắt buộc
chung của quy phạm pháp luật đợc hiểu là bắt buộc đối với tất cả mọi chủ thể (tổ chức và cá
nhân) nằm trong hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đó quy định.
+ Quy phạm pháp luật đợc sử dụng nhiều lần trong cuộc sống cho đến khi nó bị thay đổi
hoặc huỷ bỏ, vì nó đợc đặt ra không phải chỉ để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể mà để
điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, nghĩa là nó đợc sử dụng trong tất cả mọi trờng hợp khi
xuất hiện những hoàn cảnh, điều kiện đã đợc nó dự liệu.
+ Nội dung của mỗi quy phạm pháp luật đều thể hiện hai mặt: cho phép và bắt buộc, nghĩa
là quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra quyền và nghĩa vụ pháp lí của các bên
tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật vừa mang tính xã hội (duy trì,

18


bảo vệ đời sống cộng đồng nói chung) vừa mang tính giai cấp (thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động).
+ Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa là quy phạm pháp luật thành văn, chúng đợc ghi
trong các văn bản pháp luật của nhà nớc thành một hệ thống có sự liên hệ chặt chẽ với nhau
nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội cần thiết.

Tóm lại, quy phạm xã hội chủ nghĩa là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà
nớc đặt ra hoặc phê chuẩn thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động, để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật.
Cơ cấu của quy phạm pháp luật đợc hiểu là các bộ phận (các phần) hợp thành quy phạm
pháp luật. Thông thờng quy phạm pháp luật đợc hình thành từ ba bộ phận: giả định, quy định
và chế tài. Mỗi bộ phận trả lời cho một câu hỏi sau:
+ Ngời (tổ chức) nào? Khi nào? Trong hoàn cảnh, điều kiện nào?
+ Phải làm gì? Đợc làm gì? Làm nh thế nào?
+ Hậu quả gì nếu không làm đúng những quy định của nhà nớc đã nêu ở trên.
2.1. Giả định
Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những hoàn cảnh, điều kiện có thể
xảy ra trong cuộc sống mà con ngời gặp phải và cần phải xử sự (hành động hoặc không hành
động) theo những quy định của nhà nớc. Trong giả định còn nêu cả chủ thể (cá nhân hay tổ
chức) nào ở vào những hoàn cảnh điều kiện đó. Ví dụ: điều 1-Pháp lệnh thuế nông nghiệp ban
hành năm 1989 có ghi: Mọi tổ chức cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào
sản xuất nông nghiệp thì phải nộp thuế nông nghiệp. ở đây bộ phận giả định là mọi tổ chức và
cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp.
Giả định là bộ phận không thể thiếu đợc trong quy phạm pháp luật. Nếu thiếu giả định thì
quy phạm pháp luật trở nên vô nghĩa, bởi lẽ chỉ từ giả định chúng ta mới biết đợc ai? (tổ chức
nào?) khi ở vào hoàn cảnh điều kiện nào? thì phải xử sự theo đúng quy định của nhà nớc. Những
chủ thể, hoàn cảnh điều kiện nêu trong phần giả định phải rõ ràng, chính xác, sát với thực tế,
tránh tình trạng nêu mập mờ khó hiểu dẫn đến khả năng không hiểu đợc hoặc hiểu sai lệch nội
dung của quy phạm pháp luật. Trong phần giả định phải dự kiến đợc tới mức cao nhất những
hoàn cảnh điều kiện có thể xảy ra trong thực tế mà trong đó hoạt động của con ngời cần phải
điều chỉnh bằng pháp luật. Có làm đợc nh vậy thì những lỗ hổng của pháp luật mới đợc
giảm bớt và mới có thể hạn chế đợc việc áp dụng luật theo nguyên tắc tơng tự.
Giả định của pháp luật có thể đơn giản (chỉ nêu một hoàn cảnh điều kiện) hoặc có thể phức
tạp (nêu nhiều hoàn cảnh điều kiện) nếu gặp phải chủ thể cần phải xử sự theo những quy định của
nhà nớc.

2.2. Quy định.
Qui định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên cách thức (quy tắc) xử sự buộc
mọi ngời phải xử sự theo khi ở vào hoàn cảnh điều kiện đã nêu trong phần giả định của quy
phạm pháp luật. Ví dụ: ở điều 1-Pháp lệnh thuế nông nghiệp 1998 phần quy định là phải nộp
thuế nông nghiệp.
Cách thức xử sự đợc nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật chính là mệnh lệnh
của nhà nớc buộc mọi ngời phải tuân theo, nó trực tiếp thể hiện ý chí của nhà nớc của giai
cấp. Thông qua bộ phận quy định của quy phạm pháp luật, nhà nớc xác định quyền và nghĩa vụ
pháp lí của các bên tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh. Phần quy định

19


thờng đợc nêu ở dạng: cấm, không đợc, phải, thì Tính chính xác, chặt chẽ, rõ ràng của
phần quy định là một trong những điều kiện đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động của các chủ
thể. Quy định là bộ phận chủ yếu của quy phạm pháp luật, bởi lẽ chỉ ở phần quy định các chủ thể
pháp luật mới biết đợc họ phải làm gì, không đợc làm gì khi xảy ra hoàn cảnh, điều kiện đã nêu
ở phần giả định.
Mệnh lệnh đã nêu ở phần quy định của quy phạm pháp luật có thể ở dạng dứt khoát (chỉ nêu
một cách xử sự không có sự lựa chọn) hoặc có thể ở dạng tuỳ nghi (nêu ra hai hoặc nhiều cách xử
sự, chủ thể đợc phép lựa chọn cách thức xử sự).
2.3. Chế tài
Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp xử lí, tác động mà
nhà nớc dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng cách thức xử sự (mệnh
lệnh nhà nớc) đã nêu ở phần quy định của quy phạm pháp luật. Ví dụ: khoản 1 điều 117 Bộ luật
hình sự nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 quy định: Ngời nào biết mình bị
nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho ngời khác ,thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm. ở
đây phần chế tài là thì bị phạt tù Về thực chất chế tài pháp luật chính là những hậu quả bất
lợi đối với những chủ thể vi phạm pháp luật, nó biểu hiện thái độ của nhà nớc đối với họ và là
điều kiện đảm bảo cần thiết cho những qui định của nhà nớc đợc thực hiện chính xác triệt để.

Chế tài có nhiều hình thức khác nhau, có thể phân loại nh sau:
+ Chế tài kỉ luật : là hình thức kỉ luật do thủ trởng cơ quan, đơn vị áp dụng đối với cán bộ,
nhân viên thuộc quyền quản lí của mình có sự vi phạm về nội quy, điều lệ trong cơ quan, đơn vị.
Các biện pháp kỉ luật đợc áp dụng là: khiển trách, cảnh cáo , hạ bậc lơng ,hạ tầng công tác, hạ
cấp bậc kĩ thuật, cách chức, buộc thôi việc.
+ Chế tài hành chính : là những loại phạt và một số biện pháp bắt buộc khác do cơ quan
quản lí nhà nớc áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm các chế độ thể lệ quản lí của nhà nớc.
+ Chế tài dân sự : gồm các biện pháp trách nhiệm vật chất, bồi thờng thiệt hại, phạt bội
ớc
+ Chế tài hình sự: là các loại hình phạt do Toà án áp dụng đối với những ngời có hành vi
phạm tội, gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, tử
hình
Chế tài của quy phạm pháp luật cũng có thể là cố định hoặc không cố định. Chế tài cố định
chỉ rõ cụ thể về mức độ, biện pháp xử lí, còn chế tài không cố định không quy định biện pháp xử
lí một cách dứt khoát mà chỉ ra giới hạn tối thiểu hoặc tối đa của biện pháp xử lí.
Khi nghiên cứu về cấu trúc của một quy phạm pháp luật, tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau: hoặc nhất thiết phải đầy đủ cả ba thành phần (giả định, quy định, chế tài) hoặc không nhất
thiết đầy đủ mà chỉ cần hai thành phần (giả định, quy định). Tuy nhiên có thể khẳng định rằng,
một quy phạm pháp luật có thể là một điều của văn bản pháp luật, nếu nh việc trình bày nh vậy
tiện lợi cho việc nhận thức nội dung của qui phạm. Trật tự giả định, quy định, chế tài có thể bị
đảo lộn hoặc cũng có thể không nhất thiết phải diễn đạt đầy đủ cả ba thành phần. Song mô hình
chung thể hiện là: nếu...thì.
3.Phân loại quy phạm pháp luật.
Căn cứ vào nội dung của quy phạm pháp luật có thể phân chia quy phạm pháp luật thành:
quy phạm pháp luật định nghĩa và quy phạm pháp luật điều chỉnh.
+ Quy phạm pháp luật định nghĩa: là loại quy phạm có nội dung giải thích, xác nhận một
điều nào đó mà không nêu lên quy tắc xử sự.

20



+ Quy phạm pháp luật điều chỉnh: là loại quy phạm có nội dung trực tiếp điều chỉnh hành vi
của con ngời và hoạt động của các tổ chức (qui định thẩm quyền của các cơ quan nhà nớc, địa
vị pháp lí của các tổ chức xã hội và những quy tắc xử sự của các cá nhân).
Ngoài ra có thể lấy tính chất của mệnh lệnh nêu trong quy phạm làm căn cứ để chia tành
quy phạm dứt khoát hoặc quy phạm hớng dẫn lựa chọn, lấy đối tợng và phơng pháp điều
chỉnh phân chia các ngành luật thành quy phạm pháp luật hình sự, quy phạm pháp luật hành
chính.Hoặc phụ thuộc vào cách trình bày quy phạm có thể phân chia thành quy phạm pháp luật
bắt buộc, quy phạm pháp luật cấm đoán và quy phạm pháp luật cho phép.
4. áp dụng quy phạm pháp luật.
4.1. Khái niệm áp dụng qyi phạm pháp luật.
áp dụng quy phạm pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền. Nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức tổ chức để thực hiện pháp
luật. Chính vì thế áp dụng quy phạm pháp luật bao gồm cả hình thức tuân theo, thi hành và sử
dụng pháp luật, nó là hình thức quan trọng của thực hiện pháp luật.
Hoạt động áp dụng quypháp luật là một trong những hình thức để thực hiện chức năng nhà
nớc. Nó chỉ do cơ quan hoặc nhân viên nhà nớc có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà
nớc có thẩm quyền cũng chỉ đợc tiến hành một số hoạt động áp dụng qui phạm pháp luật nhất
định. Ví dụ: chỉ Toà án mới đợc xét xử các vụ án hình sự, dân sự
áp dụng quy phạm pháp luật là một dạng hoạt động pháp lí mang tính quyền lực nhà nớc,
nó đợc các cơ quan nhà nớc tiến hành nhiều khi không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp
dụng. Văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền đa ra có nghĩa vụ bắt
buộc thi hành đối với những tổ chức và cá nhân liên quan, nó đợc đảm bảo thi hành bằng các
biện pháp cỡng chế nhà nớc khi cần thiết.
áp dụng quy phạm pháp luật còn là một hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi vì khi xây dựng
pháp luật ngời ta không thể dự liệu trớc một cách đầy đủ tất cả các tình tiết, hoàn cảnh, điều
kiện của các sự việc cụ thể sẽ xảy ra trong thực tế cuộc sống. Cho nên ngời áp dụng quy phạm
pháp luật phải có chuyên môn vững, ý thức chính trị, ý thức pháp luật tốt và cả kinh nghiệm sống
thực tế, sâu sắc để đánh giá cách xử sự của chủ thể một cách khách quan chính xác.
4.2. Các bớc của quá trình áp dụng quy phạm pháp luật.

Để áp dụng quy phạm pháp luật chính xác và đạt hiệu quả cao cần tiến hành theo những
bớc sau đây:
+ Phân tích đánh giá đúng, chính xác mọi tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc nh
thực tế nó đã xảy ra. Bớc này yêu cầu cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền phải tiến hành xem
xét, nghiên cứu và đánh giá bản chất của sự việc nh thực tế nó đã xảy ra, đồng thời thu thập đầy
đủ các chứng cứ thực tế và chứng cứ pháp lí làm cơ sở cho việc áp dụng.
+ Chọn quy phạm pháp luật phù hợp và giải thích chúng để làm rõ nội dung, ý nghĩa của
quy phạm pháp luật đối với trờng hợp cần áp dụng. Bớc này yêu cầu trớc hết phải xác định
quy phạm của ngành luật nào điều chỉnh đối với tròng hợp cần giải quyết. Khi đã chọn đúng quy
phạm pháp luật cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tìm hiểu kĩ quy phạm đó về các mặt nh:
kiểm tra hiệu lực pháp lí của quy phạm đó, kiểm tra sự chính xác về nội dung của qui phạm bằng
đối chiếu với văn bản gốc
+ Ra văn bản áp dụng: Sau khi xem xét, đối chiếu các tình tiết, hoàn cảnh của sự việc thấy
phù hợp với những điều nói trong quy phạm pháp luật đã chọn thì cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền quyết định giải quyết vụ việc đó (ra văn bản áp dụng). Đây là loại văn bản cá biệt mang

21


tính quyền lực nhà nớc, xác định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể cụ thể hoặc
những biện pháp cỡng chế nhà nớc đối với chủ thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí. Văn bản áp
dụng phải đợc ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên gọi, theo mẫu quy định có nội dung rõ ràng
chính xác.
+ Tổ chức thực hiện trên thực tế văn bản áp dụng đã ban hành và đã có hiệu lực pháp luật,
đồng thời kiểm tra giám sát việc thực hiện đó. Đây là bớc tiến hành những hoạt động thực tế về
vật chất và kĩ thuật để đảm bảo cho văn bản áp dụng pháp luật ban hành đã có hiệu lực pháp lí
đợc thực hiện nghiêm chỉnh.
iii. văn bản quY phạm pháp luật.
1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật.
1.1. Định nghĩa văn bản quy phạm pháp luật.

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành theo
một thủ tục và hình thức nhất định, có chứa đựng những quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh
một loại quan hệ xã hội nhất địnhvà đợc áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống.
Văn bản pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ nhất, nó là kết quả của quá trình lập pháp
thể hiện tính khoa học cao, vì vậy nó đợc nhà nớc xã hội chủ nghĩa sử dụng chủ yếu để thể
hiện ý chí của giai cấp mình thành pháp luật.
1.2. Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật.
+ Văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban
hành. Nghĩa là không phải mọi văn bản đều gọi là văn bản pháp luật, mà chỉ những văn bản nào
đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền (theo quy định) ban hành mới có thể trở thành văn bản
quy phạm pháp luật.
+ Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung (quy phạm
pháp luật). Những văn bản mặc dù có ý nghĩa pháp lí nhng không chứa đựng những nguyên tắc
xử sự chung thì cũng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Chẳng hạn nhà nớc có thể ra
văn bản mang tính chính trị nh: lời kêu gọi, tuyên bố, thông báoCác văn bản này mặc dù có ý
nghĩa pháp lí nhng không phải là văn bản qui phạm pháp luật.
+ Văn bản quy phạm pháp luật đợc áp dụng nhiều lần trong cuộc sống, đợc áp dụng trong
mọi điều kiện khi có sự kiện pháp lí xảy ra. Nh vậy văn bản quy phạm pháp luật khác với văn
bản cá biệt hoặc các văn bản áp dụng pháp luật. Ví dụ: một quyết định phân nhà ở hay một bản
án không phải là những văn bản quy phạm pháp luật.
+ Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các văn bản pháp luật đợc quy định cụ thể trong
luật (luật ban hành văn bản pháp luật).
Văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra tiền đề cần thiết để thiết
lập, củng cố và tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đợc một hệ thống các văn bản
pháp luật thống nhất, đồng bộ, kịp thời với kĩ thuật cao có một ý nghĩ to lớn trong việc lập một
trật tự pháp luật nhằm quản lí có hiệu quả mọi hoạt động của đời sống xã hội.
2. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam.
Căn cứ vào thẩm quyền ban hành văn bản và giá trị pháp lí của nó, các văn bản quy phạm
pháp luật đợc chia thành hai loại là các văn bản luật và các văn bản dới luật.
2.1. Văn bản luật.

Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nớc cao
nhất ban hành, đây là những văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất. Tất cả các văn bản pháp quy

22


khác (văn bản dới luật) khi ban hành đều phải dựa trên cơ sở văn bản luật không đợc trái với
văn bản luật. Công tác xây dựng và ban hành các văn bản luật gọi là công tác lập pháp. Văn bản
luật sau khi đợc Quốc hội thông qua sẽ do Chủ tịch nớc ra quyết định công bố chậm nhất 15
ngày kể từ ngày thông qua.
Văn bản luật gồm có Hiến pháp và luật.
+ Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp và các đạo luật sửa đổi bổ sung Hiến pháp) là văn bản quy
phạm pháp luật có giá trị pháp lí cao nhất, là luật cơ bản của nhà nớc. Hiến pháp quy định
những vấn đề cơ bản nhất của nhà nớc nh: hình thức và bản chất của nhà nớc, thể chế chính trị
kinh tế xã hội của nhà nớc, địa vị pháp lí của công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt
động và thẩm quyền của các cơ quan nhà nớcHiến pháp do Quốc hội thông qua với ít nhất là
2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán thành.
Hiến pháp là sự thể chế hoá đờng lối chính sách của Đảng trong mỗi giai đoạn cách mạng
cụ thể, thể hiện tập trung ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật, Hiến pháp là một đạo luật cơ bản nhất, là cơ sở để hình thành một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ.
+ Luật là văn bản có giá trị pháp lí cao (chỉ sau Hiến pháp). Luật cụ thể hoá các quy tắc cơ
bản của Hiến pháp hoặc quy định những vấn đề phải đợc quy định dới hình thức luật. Luật có
thể là bộ luật (Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự) hoặc luật (Luật đất đai,Lluật hôn nhân gia
đình)
Sở dĩ Hiến pháp và luật có giá trị pháp lí cao và phạm vi tác động rộng là vì các văn bản này
do cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất ban hành. Do văn bản luật có tầm quan trọng đặc biệt
cho nên trình từ ban hành chúng đợc quy định hết sức chặt chẽ, bao gồm bốn giai đoạn là: soạn
thảo dự án luật, thảo luận dự án luật, thông qua luật và công bố luật.
Ngoài Hiến pháp và luật, Quốc hội còn thông qua các nghị quyết. Trong một số trờng hợp,

nghị quyết của Quốc hội cũng là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí nh luật.
2.2. Văn bản dới luật.
Văn bản dới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nớc khác
(dới Quốc hội) ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức đợc pháp luật quy định.
Những văn bản này có giá trị pháp luật thấp hơn văn bản luật, vì vậy khi ban hành phải chú
ý sao cho những quy định của chúng phải phù hợp với Hiến pháp và luật.
Giá trị pháp lí của từng loại văn bản dới luật cũng khác nhau tuỳ thuộc vào thẩm quyền
của cơ quan ban hành chúng. Theo Hiến pháp năm 1992, văn bản dới luật hiện nay ở Việt Nam
gồm có: pháp lệnh, lệnh, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông t.
+ Pháp lệnh do Uỷ ban thờng vụ Quốc hội ban hành để quy định những vấn để đợc Quốc
hội giao. Pháp lệnh có giá trị pháp lí thấp hơn Hiến pháp và luật nhng trong hệ thống văn bản
dới luật nó có giá trị pháp lí cao nhất. Ngoài pháp lệnh Uỷ ban thờng vụ Quốc hội còn ra nghị
quyết (nghị quyết của Uỷ ban thờng vụ Quốc hội) có giá trị nh pháp lệnh.
Trong một số trờng hợp, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thờng vụ Quốc hội có thể
đợc Chủ tịch nớc xem xét lại. Nếu Uỷ ban thờng vụ Quốc hội không nhất trí với ý kiến của
Chủ tịch nớc thì Chủ tịch nớc trình Quốc hội trong kì họp gần nhất quyết định (điều 103-Hiến
pháp 1992).
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nớc.
Lệnh là văn bản để Chủ tịch nớc công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh hoặc tổng động viên
trong những trờng hợp cần thiết.

23


Quyết định là hình thức văn bản của Chủ tịch nớc thực hiện thẩm quyền của mình đợc
Hiến pháp quy định nh tuyên bố tình trạng chiến tranh, đại xá, đặc xá
Lệnh và quyết định của Chủ tịch nớc thờng là văn bản áp dụng quy phạm, ít khi có văn
bản quy phạm pháp luật.
+ Nghị quyết, Nghị định, của Chính phủ.
Nghị quyết của Chính phủ là văn bản để ban hành các chủ trơng lớn và các chính sách cụ

thể, thông qua dự án kế hoạch và ngân sách.
Nghị định là văn bản của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật hoặc pháp lệnh, ban hành
các chế độ, thể lệ quản lí nhà nớc, quyết định việc thành lập, sát nhập, giải thể các cơ quan
thuộc Chính phủ, quy định thẩm quyền, tổ chức và hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, quyết định những vấn đề quan trọng khác thuộc thẩm quyền của Chính
phủ.
+ Quyết định, chỉ thị của Thủ tớng Chính phủ.
Quyết định của Thủ tớng Chính phủ để ban hành các chủ trơng, biện pháp lãnh đạo và
điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nớc từ trung ơng đến sở, quyết
định những chế độ thể lệ và những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Chỉ thị của Thủ tớng Chính phủ để chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, hớng dẫn phối hợp của
các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ơng trong việc thực hiện các chủ trơng, chính sách pháp luật.
Các văn bản của Chính phủ có hiệu lực pháp lí thấp hơn Hiến pháp, luật và pháp lệnh nhng
giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, và các văn bản này do cơ
quan quản lí nhà nớc cao nhất ban hành để điều chỉnh những quan hệ về quản lí nhà nớc trên
phạm vi cả nớc.
+ Quyết định, chỉ thị, thông t của Bộ trởng, Thủ trởng các cơ quan ngang bộ, Thủ trởng
cơ quan trực thuộc Chính phủ để ban hành các biện pháp, thể lệ cụ thể nhằm thực hiện pháp luật
về quản lí ngành hoặc lĩnh vực trong cả nớc. Hớng dẫn, giải thích, chỉ đạo thực hiện các văn
bản pháp quy của Chính phủ ban hành.
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp quy định các biện pháp bảo đảm thi hành pháp
luật ở địa phơng và các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân.
+ Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân quy định các chủ trơng biện pháp cụ thể nhằm
thực hiện pháp luật, truyền đạt và chỉ đạo thực hiện các chủ trơng chính sách, quyết định của cơ
quan nhà nớc cấp trên giao nhiệm vụ cho cơ quan hành chính cấp dới.
3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.
Để mỗi văn bản pháp luật có thể phát huy vai trò tác động và điều chỉnh có hiệu quả các
quan hệ xã hội theo đúng mục đích đã đặt ra, cần phải xác định rõ giới hạn hiệu lực của nó. Phụ
thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản hay tính chất và mục đích điều chỉnh của

mỗi loại văn bản, hiệu lực của chúng có những giới hạn và mức độ khác nhau thể hiện trên ba
mặt: thời gian, không gian và đối tợng tác động.
3.1. Hiệu lực theo thời gian.
Hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật đợc xác định từ thời điểm phát
sinh đến khi chấm dứt sự tác động của văn bản đó.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của các văn bản pháp luật đợc xác định rất khác nhau, thông
thờng đợc thể hiện theo hai các: ghi rõ trong văn bản thời điểm phát sinh hiệu lực hoặc không

24


ghi rõ thời điểm đó. Đối với những văn bản trong đó có điều khoản ghi rõ thời điểm phát sinh
hiệu lực thì việc áp dụng vào thực tế có nhiều thuận lợi hơn. Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể mà trong đó mỗi văn bản pháp luật sẽ phát huy vai trò của mình, ngời làm luật sẽ dự
liệu và ấn định thời điểm phát sinh hiệu lực của nó. Có văn bản thời điểm đó đợc xác định từ
ngày kí, có văn bản thời điểm phát sinh hiệu lực lại muộn hơn, cá biệt có trờng hợp phải sau một
thời gian dài (ví dụ: Bộ luật Hàng hải Việt Nam đợc Quốc hội khoá VIII kì họp thứ 7 thông qua
ngày 30 tháng 6 năm 1990, nhng mãi đến ngày 1 tháng 1 năm 1991 mới phát sinh hiệu lực).
Đối với những văn bản mà trong đó không ghi rõ thời điểm phát sinh hiệu lực thì cần phải
chú ý đến đặc điểm riêng của từng loại văn bản. Đối với văn bản luật, thời điểm phát sinh hiệu
lực tính từ khi chúng đợc Chủ tịch nớc ra lệnh công bố chính thức. Còn đối với văn bản dới
luật thì việc xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của chúng phải đợc xem xét cụ thể hơn (vì các
văn bản dới luật không bắt buộc phải có giai đoạn công bố chính thức). Thông thờng các văn
bản dới luật có hiệu lực kể từ ngày đợc ban hành (ngày kí văn bản), hoặc từ thời điểm mà cơ
quan hữu quan nhận đợc văn bản đó. Trong các trờng hợp khác thời điểm phát sinh hiệu lực
đợc tính từ ngày chúng đợc công bố trên các phơng tiện thông tin đại chúng của nhà nớc.
Thời điểm chấm dứt hiệu lực của các văn bản quy phạm cũng đợc xác định theo hai cách.
Nếu trong văn bản ghi rõ thời hạn hiệu lực thì đến thời điểm đã xác định đó văn bản sẽ chấm dứt
hiệu lực của mình. Đối với văn bản không ghi rõ thời hạn hiệu lực thì nó chỉ chấm dứt hiệu lực
(toàn bộ hay một phần) khi có một văn bản mới thay thế nó, hoặc có một số quy phạm mới đợc

ban hành để thay thế một bộ phận quy phạm đó.
Theo nguyên tắc chung, văn bản quy phạm pháp luật cần để điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh sau khi văn bản đó đã có hiệu lực, nó không có hiệu lực hồi tố. Nguyên tắc này có
một ý nghĩa quan trọng để củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết lập một trật tự pháp luật phù
hợp với đặc điểm của chủ nghĩa xã hội. Trong những trờng hợp cần thiết, ngời làm luật cần dự
liệu chính xác để thể hiện trong một số quy phạm cụ thể, nhng không đặt thành quy định chung
về hiệu lực hồi tố của cả văn bản pháp luật. Đồng thời xem xét hiệu lực hồi tố của văn bản quy
phạm cần dựa trên cơ sở nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Ví dụ trong luật hình sự, hiệu
lực hồi tố đợc quy định trong một số trờng hợp mà nếu áp dụng thì hình thức phạt sẽ nhẹ hơn
so với mức hình phạt đợc quy định trong văn bản trớc đó
3.2. Hiệu lực theo không gian.
Giới hạn tác động theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật đợc xác định theo lãnh
thổ quốc gia, một vùng hay một địa phơng nhất định. Một văn bản có hiệu lực trên một phạm vi
lãnh thổ rộng hay hẹp phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh thẩm quyền của cơ quan ban hành ra nó,
tính chất, mục đích và nội dung đợc thể hiện cụ thể trong văn bản đó.
Hiệu lực theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật đợc xác định theo hai cách cơ
bản. Những văn bản trong đó có điều khoản xác định rõ hiệu lực theo không gian thì chúng sẽ
phát huy hiệu lực trong phạm vi đã đợc xác định đó. Đối với những văn bản không có điều
khoản đó thì phải dựa vào thẩm quyền và nội dung các quy phạm trong văn bản để xác định về
không gian. Nhìn chung các văn bản do các cơ quan trung ơng ban hành nếu không xác định rõ
giới hạn hiệu lực không gian thì mặc nhiên chúng có hiệu lực trên toàn lãnh thổ quốc gia. Tuy
nhiên cũng cần phải xem xét đến mặt thứ hai là nội dung cụ thể của văn bản. Ví dụ: văn bản do
trung ơng ban hành nhng chỉ để điều chỉnh một số quan hệ ở miền núi, hải đảothì dù không
có điều khoản xác định hiệu lực theo không gian vẫn có thể xác định đợc giới hạn hiệu lực đó.
Tóm lại, phần lớn văn bản do Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, Chính phủ ban hành
đều có hiệu lực trên phạm vi cả nớc trừ một số văn bản cần xem xét nội dung để xác định hiệu
lực của nó. Các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành chỉ có hiệu
lực trên phạm vi địa hạt quản lí của địa phơng đó.

25



×