CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Mục tiêu
• Nắm bắt được quan điểm,
mục tiêu, chiến lược và
phương hướng hành động
của Chiến lược Bảo vệ môi
trườngvà Phát triển bền vững
ở Việt Nam
• Biết cách xây dựng một
chiến lược Quốc gia
I. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2001-2010
Đánh giá việc thực hiện chiến lược KTXH 2001-2010
• Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tếxã hội 2001-2010, Việt Nam đã tận dụng thời cơ,
thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt
được những thành tựu to lớn và rất quan trọng.
Phương hướng, mục tiêu tổng quát của Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020 bước đầu
được xác định là:
• Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển bền vững để đến năm 2020 Việt Nam trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính
trị-xã hội ổn định, dân chủ, đồng thuận; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải
thiện, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề để phát
triển cao hơn trong các thời kỳ chiến lược sau.
• Tăng trưởng GDP 5,2%, Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao
nhất khu vực ĐNÁ, là 1/12 nước có GDP tăng trưởng dương
của thế giới (Theo IMF (công bố tháng 10/2009): Năm 2009
Indonesia: 4,0%; Malaysia: - 3,6%; Philippines: 1%; Thailand:
-3,5%; Việt Nam: 4,6%.)
• Một số thành tưu đạt được như ngăn chặn suy thoái kinh tế,
xuất khẩu gạo đạt mức kỷ lục (6 triệu tấn), cao nhất từ trước
đến nay. Nhà máy lọc dầu Dung Quất chính thức đi vào hoạt
động và khởi công xây dựng một loạt các tuyến đường giao
thông cao tốc.
• Tổng thu ngân sách bằng 100,2% kế hoạch dự toán : Tổng thu
ngân sách năm 2009 tiếp tục tăng, đạt khoảng 390,65 nghìn tỷ,
bằng 100,2% kế hoạch dự toán; bội chi ngân sách khống chế
dưới 7% GDP. Giá cả thị trường tương đối ổn định. Kiềm chế
lạm phát phi mã (từ 19,89%) năm 2008, xuống còn khoảng 7%,
trong bối cảnh áp dụng nhiều biện pháp kích cầu đầu tư,
• Chi an sinh xã hội tăng 62% so với năm 2008;
tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 11%
• Tổng số chi cho an sinh xã hội năm 2009 ước
khoảng 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so với năm
2008.
• Thu hút đầu tư nước ngoài và viện trợ chính
thức đạt mức cao
Trong giai đoạn 1985-2007, mỗi năm HDI của Việt
Nam tăng thêm 1,16%, bất kể có lúc kinh tế tăng
trưởng chậm lại. chỉ số phát triển con người (HDI)
của Việt Nam xếp thứ 116/182 nước. Tiêu chí xếp
hạng HDI năm nay dựa trên chỉ số tổng hợp về chất
lượng cuộc sống, trong đó bao gồm tuổi thọ trung
bình, tỷ lệ người biết đọc biết viết, được đến trường
và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo đầu
người tại mỗi quốc gia.
The human development index gives a more complete picture than come
Một số kết quả đã đạt được
(2001-2005)
Diện tích che phủ của rừng đã tăng từ khoảng 28% tổng diện
tích đất tự nhiên vào năm 1990 lên tới khoảng 37% vào cuối
năm 2004
Phạm vi cung cấp nước sạch ở nông thôn đã tăng từ 48% vào
năm 1990 lên tới khoảng 58% vào cuối năm 2004
Theo ước tính, tỷ lệ người dân có “nhà vệ sinh riêng” là khoảng
45% dân số ở nông thôn vào cuối năm 2004 và 85% dân số ở
thành thị vào cuối năm 2003
Ngoài ra, kết quả đánh giá chất lượng nước và không khí ở hầu
hết các trạm quan trắc trong các năm từ 1995 đến 1999 phản ánh
xu hướng tiêu cực, song từ năm 2000 đến nay, ngày càng có
nhiều trạm quan trắc thông báo kết quả đánh giá phản ánh xu
hướng tích cực.
Diễn biến tài nguyên và môi trường giai đoạn
2001 – 2010
• Tài nguyên đất: Theo số liệu năm 2007, Việt Nam có
33.115.039,62 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó có
28.328.939,12 ha đất đã được sử dụng (chiếm 85,70%) và
4.732.786,09 ha đất chưa sử dụng (chiếm 13,30%). Đất nông
nghiệp có 24.997.153 ha (chiếm 75,48%), đất phi nông nghiệp
có 3.385.786 ha (chiếm 10,22%).
• Tài nguyên nước: Tổng lượng dòng chảy trung bình hàng năm
của nước ta vào khoảng gần 850 km3, trong đó từ bên ngoài
vào chiếm khoảng 60%. Xét về tổng lượng, Việt Nam là quốc
gia dồi dào về nguồn nước mặt.
Diễn biến tài nguyên và môi trường giai đoạn
2001 – 2010
• Tài nguyên khoáng sản: Các loại khoáng sản của Việt Nam rất
đa dạng. Tuy nhiên, hầu hết các mỏ có quy mô không lớn, phân
bố rải rác, một số mỏ khó khai thác hoặc chất lượng thấp.
• Biển và hảo đảo: Đường bờ biển dài hơn 3.260 km, hơn 4.000
hòn đảo lớn nhỏ, tài nguyên biển phong phú và đa dạng
Các vấn đề môi trường
• Các nguồn gây ô nhiễm: ngày càng gia tăng.
• Chất thải: Nước thải, khí thải và chất thải rắn từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt của con người là
nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm và suy thoái môi trường.
• Hàng năm ước tính có khoảng 2 tỷ mét khối nước thải ra môi
trường, trong đó nước thải sinh hoạt chiếm hơn 60%, nước thải
công nghiệp chiếm hơn 30%.
• Khí thải từ các nhà máy nhiệt điện, phương tiện giao thông
đang là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường không khí
ở nhiều nơi, đặc biệt ở các đô thị. Ước tính hàng năm các
nguồn thải ở nước ta thải ra trên 360.000 tấn CO, trên 300.000
tấn Nox và hơn 400.000 tấn SO2.
Các vấn đề môi trường
• Chất thải rắn với khối lượng chủ yếu là rác thải sinh hoạt chưa
được quản lý tốt đang là yếu tố gây ô nhiễm môi trường ở
nước ta. Với khối lượng khoảng 15 – 16 triệu tấn năm và dự
báo đến năm 2020 khoảng 45 – 50 triệu tấn/năm, xử lý chất
thải rắn đang là vấn đề lớn trong công tác quản lý môi trường.
trên 400.000 tấn. Dự báo đến năm 2020 khối lượng chất thải
nguy hại phát sinh có thể lên đến 2 – 3 triệu tấn/năm. Đây thực
sự là thách thức lớn đối với công tác bảo vệ môi trường.
• Các khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái: Số liệu quan
trắc, điều tra cho thấy nhiều khu vực môi trường đã bị ô
nhiễm, suy thoái nặng.
• Đa dạng sinh học: Việt Nam có mức độ đa dạng sinh học cao
với nhiều hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, các loài hoang dã
phong phú và đa dạng trong đó có nhiều loài hoang dã đặc
hữu, nhiều nguồn gen có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, dưới
sức ép gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế, đa dạng sinh học
ở nước ta đang bị suy giảm với tốc độ rất nhanh.
Quản lý nhà
nước về
tài nguyên và
môi trường giai đoạn 2001 – 2010
• Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đang được thực hiện
theo các quy định của Luật Đất đai năm 2003, Luật Tài nguyên
nước, Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và
Luật Đa dạng sinh học 2008 và nhiều văn bản quy phạm pháp
luật dưới luật khác.
• Cùng với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, công tác
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đang được định hướng
bởi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Định hướng chiến
lược về phát triển bền vững ở Việt Nam, Chiến lược Biển Việt
Nam đến năm 2020.
Quản lý nhà
nước về
tài nguyên và
môi trường giai đoạn 2001 – 2010
• Một số lĩnh vực của ngành đã có các chiến lược chuyên ngành
như Chiến lược Bảo vệ môi trường đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020, Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước
đến năm 2020, Chiến lược phát triển ngành đo đạc và bản đồ
đến năm 2020, v.v. Một số lĩnh vực khác cũng đang trong quá
trình xây dựng chiến lược chuyên ngành như Chiến lược về khí
tượng thủy văn đến năm 2020, Chiến lược phát triển bền vững
biển đến năm 2020, v.v.
• Các quy hoạch kế hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường cũng đang được xây
dựng và hoàn thiện phục vụ công tác quản lý nhà nước của toàn
ngành, góp phần đưa công tác này đi vào chính quy, thống nhất.
Phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường
• Đặc thù lớn nhất của công tác quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường là có sự tham gia của nhiều ngành,
lĩnh vực và các cấp địa phương.
• Vì vậy, việc phân công, phân cấp có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nếu phân công, phân cấp tốt, hợp lý sẽ
phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các
ngành và của toàn xã hội. Ngược lại, sẽ gây những
mâu thuẫn, chồng chéo khó khăn trong cải cách thủ
tục hành chính, phiền hà cho doanh nghiệp, nhân dân
Những kết quả nổi bật
a) Chung cho toàn ngành:
- Về nhận thức: Nhận thức về các giá trị của các nguồn tài
nguyên thay đổi cơ bản theo hướng coi tài nguyên là một loại
hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Bảo vệ môi trường được
cân nhắc như một trong ba trụ cột của định hướng phát triển
bền vững.
- Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật: Hệ thống pháp luật về
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được hoàn thiện đồng
bộ, ngày càng rõ ràng, cụ thể và sát với thực tế.
- Về tổ chức cán bộ: Hệ thống tổ chức về quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường được xây dựng, kiện toàn đồng bộ cả ở
Trung ương và ở các cấp địa phương trên phạm vi cả nước.
Năng lực nghiên cứu, quản lý, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ
của các cán bộ trong toàn ngành có những bước tiến dài, theo
kịp với tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Về cải cách hành chính: Công tác cải cách hành chính được chú
trọng và đã có những bước tiến tích cực. Văn phòng một cửa
được hình thành trong các đơn vị liên quan của Bộ Tài nguyên
và Môi trường và các sở tài nguyên và môi trường.
- Về ứng dụng tiến bộ khoa học và tiếp thu tinh hoa của nhân
loại: Tư tưởng chỉ đạo, các nguyên tắc vận hành, nguyên lý cơ
bản của cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
kinh nghiệm của các nước, tiến bộ khoa học và công nghệ
được quán triệt, vận dụng, lồng ghép vào quá trình hoạch định
chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Về hợp tác quốc tế: Công tác hợp tác quốc tế về tài
nguyên và môi trường diễn ra sôi động và đã thu
được nhiều kết quả tốt. Nhiều dự án hợp tác đa
phương, song phương được thực hiện.
- Về phối hợp liên ngành và phát huy sức mạnh của
toàn xã hội: Phối hợp liên ngành trong quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường có những bước tiến
mới. Xã hội hóa để huy động sức mạnh tổng thể của
các thành phần kinh tế, toàn xã hội tham gia vào quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng
- Xã hội hóa để huy động sức mạnh tổng thể của các
thành phần kinh tế, toàn xã hội tham gia vào quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng
Đặc thù
theo lĩnh vực chuyên ngành:
- Về quản lý đất đai: Điểm sáng trong công tác quản lý đất đai
giai đoạn 2001 – 2010 là đổi mới cơ chế quản lý
- Về tài nguyên nước: Giai đoạn 2001 – 2010 đánh dấu bước tiến
trong việc tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài
nguyên nước, đánh giá được tiềm năng và thách thức về nước
gồm cả nước mặt và nước ngầm đáp ứng nhu cầu khai thác, sử
dụng của các ngành, lĩnh vực và vùng miền
- Về địa chất – khoáng sản: Giai đoạn 2001 – 2010 đã hoàn thành
việc lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1/50.000, gần 50%
diện tích đất liền được điều tra địa chất – khoáng sản,
- Về môi trường: Điểm nổi bật của công tác bảo vệ môi trường
giai đoạn 2001 – 2010 là hình thành được đồng bộ hệ thống
pháp luật, tổ chức, cơ chế nguồn lực cho bảo vệ môi trường
- Về khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu: Nét nổi bật trong
công tác khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu là việc đổi
mới và nâng cấp hệ thống các trạm khí tượng, tăng đầu tư
Những hạn chế, tồn tại
Tuy đạt được nhiều thành tựu lớn, cơ bản, nhưng công tác quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường giai đoạn 2001 – 2010 còn
nhiều tồn tại, bất cập cần được nhận dạng, phân tích và tập
trung khắc phục, giải quyết trong thời gian tới. Một số những
tồn tại chung cho toàn ngành có thể kể đến sau đây:
- Tư duy về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường còn mang
nặng tính bao cấp, cơ chế xin cho mà chưa kịp đổi mới kịp với
tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tài
nguyên và môi trường đang được xem là “của trời cho” và tư
duy xem nhẹ giá trị và nghĩa vụ đóng góp tài chính từ khai
thác tài nguyên và môi trường còn khá phổ biến. Vì vậy, đóng
góp và vị thế của ngành tài nguyên và môi trường trong nền
kinh tế quốc dân chưa cao.
• - Hệ thống pháp luật tuy có bước hoàn thiện nhưng còn nhiều
bất cập, chưa đủ chi tiết, cụ thể đáp ứng các yêu cầu của thực
tiễn cuộc sống. Các quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, tính
khả thi chưa cao. Trong thiết kế, xây dựng chưa có được tầm
nhìn tổng thể, dài hạn nên các quy định còn mang tính tình tiết,
cắt đoạn và thường phải thay đổi nên gây khó khăn trong tổ
chức thực hiện. Việc phân định phạm vi, trách nhiệm giữa các
lĩnh vực, giữa các công đoạn trong quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường còn có nhiều điểm không rõ ràng, gây khó khăn
trong việc phối kết hợp, làm rõ trách nhiệm. Công tác cải cách
hành chính kém phát huy hiệu quả.
• - Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước từ Trung ương đến các
cấp địa phương tuy có những bước được tăng cường nhưng nói
chung còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Năng lực
của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý còn nhiều bất cập. Cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường còn quá thiếu và kém chất lượng. Còn
thiếu đội ngũ cán bộ có chuyên môn hoặc kinh nghiệm phân
tích, quản lý kinh tế trong ngành tài nguyên và môi trường.
• - Đầu tư phát triển, chi thường xuyên cho công tác quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường còn rất hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu trong khi còn dàn trải, thiếu định mức kinh tế kỹ thuật nên hiệu quả chưa cao. Cơ chế tự thu, tự trang trải
trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường chưa được quan
tâm phát triển.
• - Công tác dự báo về tài nguyên và môi trường, hoạch định
chiến lược dài hạn trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường còn yếu, chưa được quan tâm đầu tư xứng đáng nên
tầm nhìn dài hạn, tính bao quát tổng thể trong quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường còn bị hạn chế.
• - Xã hội hóa công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
đã đạt được những kết quả tốt, tuy nhiên, vẫn chưa được đồng
bộ trong tất cả các lĩnh vực, còn nhiều vướng mắc về cơ chế
cần phải tiếp tục tháo gỡ.