Tải bản đầy đủ (.pptx) (26 trang)

Bài giảng tình hình ứng dụng độc tố sinh học vào các lĩnh vực trên thế giới và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 26 trang )

Chủ đề:
Tình hình ứng dụng độc tố sinh
học vào các lĩnh vực trên thế
giới và việt nam


TỔNG QUAN
1. Độc tố sinh học
2. Phân loại độc tố sinh học và ứng dụng
A. Độc tố thực vật
B. Độc tố động vật
C. Độc tố vi sinh vật
3. Kết luận


1. Độc tố sinh học
Như chúng ta đã biết thực vật có khả năng tự bảo vệ mình
bằng cách tiết ra các chất dịch, các mùi hoặc thay đổi khá
nhiều về hình thái bên ngoài như thân, lá để có thể sinh tồn.
Con người ngay từ xa xưa đã biết sử dụng những vũ khí lợi
hại này nhằm bảo vệ mùa màng cây trồng của mình. Những
chất trừ sâu có nguồn gốc thực vật đã được sử dụng từ xa xưa
trong dân gian để xua đuổi sâu hại. Ở Novgorodxkaia và
Tvrexkaia (Nga), nông dân đã rải anh đào dại quanh ruộng
lúa, vì mùi anh đào dại làm cho bướm sâu xám đông sợ hãi.
Hạt trước khi gieo, được thấm nước cành anh đào dại hoặc
xông khói cành anh đào dại, nhờ đó khỏi bị sâu bọ dưới đất
làm hại. Nông dân ở tỉnh Xamara (Nga), khi gieo đậu lại trộn
lẫn cả hạt gai, vì rệp đậu không chịu được mùi gai. Còn ở tỉnh
Kiev và Ponđonxkaia người ta lại gieo gai xung quanh ruộng
củ cải đường để chống lại bọ nhảy củ cải đường.




Cũng nhằm mục đích đó, người ta khuyên nên dùng 15 loại thực vật
phổ biến rộng rãi ở Nga. Ví dụ, những người làm vườn khuyên phun
nước lá ngải lên lý gai, phúc bồn tử vào táo để xua đuổi bướm sâu
đục thân và sâu đục quả táo. Rắc trấu rơm gai ra ruộng có tác dụng
làm sạch đất khỏi ấu trùng bọ dừa, còn gieo gai dưới tán cây ăn quả
sẽ bảo vệ được vườn cây khỏi bướm của nhiều loại sâu bọ. Bằng cách
điều hòa khối lượng chỉ một hợp chất hóa học do chúng tiết ra, cây
có thể không chỉ xua đuổi mà còn dẫn dụ những thiên địch có lợi (hại
cho sâu) biết bò, biết bay đến với mình. Những ví dụ về ứng dụng độc
tố thực vật rất nhiều, ví dụ nồng độ các chất do cây lãnh sam duglat
tổng hợp có thể làm cho bọn côn trùng có cảm tình hay ác cảm với
cây đó. Dùng lá cây bình bát giã nhỏ, thả vào ruộng có diệt được rầy
nâu hại lúa. Cây cỏ hôi vừa làm phân xanh bón ruộng vừa diệt côn
trùng, sâu hại. Những người vùng Pirênê đã dùng những chiếc lá hẹp
bàn, có chất dính của cây bẫy dính bắt côn trùng để làm bẫy ruồi. Và
có thể nói rằng nhiều khi nó còn có hiệu lực cao hơn cả những băng
dính do nhà máy công nghiệp sản xuất ra.


2. Phân loại độc tố sinh học và ứng dụng
2.1, Phân loại
Độc tố thực vật

Độc tố động vật

Độc tố vi sinh học



2.2, Ứng dụng
Cây bã đậu

A. Độc tố thực vật

Độc tố chứa trong cây bã đậu (crontontiglium
linn), được trồng làm cây bóng mát trước sân
nhà; quả bằng đầu ngón tay út, tháng 8-9 quả
chín, thu lấy hạt. Hạt có vị cay, rất độc, đem
giả, bọc giấy bản ép rồi rang vàng hạ thổ gọi là
bã đậu sương - là một loại thuốc độc nhưng
với một lượng nhỏ nhất định cũng có tác dụng
trừ hàn tích, phá kết, trừ đàm. Để chữa hàn
tích, táo bón, khó thở, ngày dùng 0,05 - 0,2g bã
đậu sương, 1-2g hắc bã đậu (bã đậu sương sao
đen). Thuốc không thể dùng cho người suy
nhược, phụ nữ có thai, táo bón do nhiệt kết.
Nếu ngộ độc, chữa bằng đậu xanh giã nhỏ, nấu
kỹ hoặc uống nước giã hạt đậu.

Cây bã đậu

Quả cây bã đậu


Cây đại
Cây có chất độc như: Iridoid,
alcaloid, vỏ cây đại (cây sứ) có vị
đắng, ít độc


 Vỏ thân cạo bỏ lớp bần, thái
mỏng, sao thơm, sắc uống để
nhuận tràng, xổ ra giun và trị
thuỷ thũng. Hoa trị sốt, chữa
ho, tiêu đờm. Lá giã nấu thành
cao, đắp vào chỗ sầy da, chảy
máu. Nhựa: Bôi trị các vết ghẻ
lở, viêm tấy.


Cà độc dược
Người ta dùng lá cà độc dược vì
có hoạt chất là hyoxinvà
atropine, làm dãn nở cơ vòng,
giảm sự tiết nước bọt và mồ hôi.

Thân cây cà độc dược

Quả cây cà độc dược

Lá cây cà độc dược

 Atropine có tác dụng giảm đau
nên được dùng điều trị các
bệnh về đường ruột. Cà độc
dược có tác dụng khử phong
thấp, chữa hen suyễn. Nước sắc
dùng để rửa những nơi da tê
dại, hàn thấp cước khí; cuộn
thành thuốc lá hút chữa ho do

cảm lạnh. Những người thể lực
yếu không dùng được.


Cây trúc đào
 Trúc đào là một trong những loài thực vật có độc tính cao nhất và
chứa nhiều hợp chất có độc, nhiều hợp chất trong số này có thể gây
tử vong ở người, đặc biệt là trẻ em. Độc tính của trúc đào được coi
là cực kỳ cao và đã có nhiều thông báo cho thấy trong một số
trường hợp chỉ cần một lượng nhỏ cũng đã đủ gây hậu quả tử vong
hay cận kề tử vong (Goetz 1998). Đáng kể nhất trong số các chất
độc này là oleandrin và neriin, đều là các glicosid tim mạch (Goetz
1998). Chúng có mặt trong toàn bộ các bộ phận của loài cây này,
nhưng chủ yếu tập trung trong nhựa cây.
 Dùng lá vì có chứa
glucosite:
oleandrin,nerian,
neriantin,advenerin. Liều
thấp dùng làm điều trị
chứng tụ nước trong ngũ
tạng làm bụng to, gây lợi
tiểu và có tác dụng chính
là trợ tim.


Cây xương rồng
• Thân Xương rồng chứa các triterpenoid: taraxerol,taraxerone,friedelan3a-ol,friedelan -3b-ol, epifriedelanol. Còn có các acid citric, tartric và
fumaric. Nhựa cây Xương rồng chứa euphorbol, euphol, b-amyrin.
cycloartenol. Rễ cũng chứa taraxerol.Nhựa cây xương rồng rất độc, gây
bỏng rát da, được dùng chữa đau bụng, đau răng và làm thuốc sát trùng.

• Thân cây có tác dụng tiêu thũng, thông tiện, sát trùng; lá có tác dụng
thanh nhiệt, hóa trệ, giải độc hành ứ; nhựa cây có tác dụng tả hạ trục
thuỷ, chống ngứa; nhị hoa có được thanh nhiệt tiêu thũng. Ở Ấn Độ,
cây được xem như có tác dụng xổ, lợi tiêu hóa; vỏ rễ có tác dụng xổ;
nhựa cây có tác dụng xổ, kích thích. Ở Thái Lan, lõi gỗ khô của cây
được xem như có tác dụng hạ nhiệt, nhựa cây gây xổ.


Một số ứng dụng khác
 Người ta có thể ứng dụng độc tố trong cây trâm bầu hay hạt
na để diệt côn trùng. Diệt chấy rận bámngười và bám gia súc
gia cầm bằng nước lá xoan. Lá bình bát giã nhỏ có thể diệt rầy
nâu hại lúa. Lá trầu không diệt đỉa. Lá thuốc lào chống vt.


B. Độc tố động vật
1. Trên thế giới
 Nọc rắn: Ngày naỵ, nọc rắn được dùng để điều chế
huyết thanh trị độc rắn và sản xuất một số dược phẩm
trị bệnh. Trên thị trường thế giới, nọc rắn khô có giá
trị đắt hơn vàng đến 12 lần (1g nọc rắn khô = 12 - 15g
vàng) có khi đến hàng chục lần. Người ta cho rắn cắn
vào thành lọ thủy tinh và thu được trong lọ một chất
lỏng trong, màu hơi vàng, có độ dính cao, tỉ trọng
thay đổi từ 1,03 - 1,05, chứa 50 - 70% nước. Nếu để
sau 24 giờ, nọc rắn sẽ biến chất và có mùi hôi. Nếu
làm khô sẽ thu được nọc dưới dạng tinh thể nhỏ màu
vàng và giữ nguyên tính chất hàng chục năm.

Nọc rắn



Ứng dụng của nọc rắn
• Năm 1895, bác sĩ A.Calmette, Giám đốc Viện Vi trùng học Pasteur ở Sài Gòn, đã dựa vào
các công trình nghiên cứu về nọc rắn độc của Phisalix và Bertrand ở Viện Bảo tàng thiên
nhiên Pháp, đề xướng nguyên tắc chế tạo huyết thanh để chữa rắn độc cắn. Lần đầu tiên
trên thế giới, huyết thanh kháng nọc độc rắn hổ mang (Naja naja) đã được sản xuất thành
công tại Viện Pasteur Sài Gòn. Liệu pháp huyết thanh kháng nọc rắn độc được ứng dụng
trong tất cả các nước trên thế giới, đã cứu mạng cho nhiều người và gia súc bị rắn độc
cắn. Huyết thanh kháng nọc rắn có khả năng chống độc tố, khả năng phòng ngừa và khả
năng chữa bệnh. Ngày nay, kỹ thuật điều chế huyết thanh kháng nọc rắn ngày càng được
cải thiện.
• Người ta đang nghiên cứu chế ra huyết thanh đa trị, dùng cho mọi trường hợp bị các loài
rắn độc khác nhau cắn. Hầu hết các nước tiên tiến đều có huyết thanh kháng nọc rắn hổ
chúa đông khô, dự trữ với số lượng lớn, sẵn sàng phục vụ cấp cứu nạn nhân, nhưng giá
thành rất cao, từ 600 tới 1.200 USD/lọ. Hơn nữa, rắn độc mang đặc trưng về sinh học,
độc học cho từng vùng địa lý; vì vậy, hầu hết các nuớc trên thế giới đều có trung tâm
nghiên cứu, chế tạo huyết thanh kháng nọc rắn cho chính quốc gia của họ.


 Ong: người ta đã sử dụng một số loài ong
dại giống như một “thiên địch” ăn sâu bọ
có hại cho mùa màng. Thống kê sơ bộ
thấy rằng, trung bình trong hai tháng một
tổ ong vàng vespađã ăn hết 210.000 con
ruồi. Ong là bạn của người quá rõ ràng
nhưng đôi bạn này chẳng bao giờ ăn ý hòa
hợp với nhau, tựu trung cũng do mục đích
của con ngườitrong việc sử dụng ong khác
nhau tùy từng chỗ, từng nơi. Chẳng hạn,

những nhà lâm nghiệp lao động trên rừng
thì chẳng ưa ong vàng, ong bắp cày, ong
vò vẽ. Chỉ vì bảo vệ tổ mà ong vò vẽ đã
giết chết không biết bao nhiêu người. Thế
nhưng ong vò vẽ cũng đã giúp người đánh
giặc khá đắc lực trong chiến tranh.

Ong bắp cày

Ong vò vẽ


Ứng dụng của nọc độc ở ong

Trong chiến dịch thập tự chinh Thổ Nhĩ Kỳ, vua Risa đệ nhất đã
cho ném vào quân địch những hũ đất sét trong đó có đựng ong.
Sử sách còn ghi nhiều trận đánh oanh liệtlàm cho kẻ thù hoảng sợ
phải chạy tán tác khi có ong. Trong kháng chiến chống Mỹ, du
kích và bộ đội đã biết huấn luyện cho ong vò vẽ tự tìm địch mà
đánh. Nhiều trận, quân Mỹ với các trang phục hiện đại từ đầu đến
chân đã phải bỏ mạng dưới vói chích ong vò vẽ đã được ta huấn
luyện.


 Kiến: nọc độc có chứa Axít fomic. Nó là con vật được người ta
sử dụng như người lính gác cây trồng và cây rừng. Cần cù suốt
ngày đêm, kiến giúp con người tiêu diệt khá nhiều sâu hại. Từ lâu,
sau khi trồng cây, người ta thường mang kiến vống đến thả, để trừ
sâu hại. Ở các vườn cây ăn trái Đồng bằng sông Cửu Long, người
nông dân thả kiến vàng để diệt sâu hại cam rất hiệu quả. Ở Ý,

người ta đã tính được rằng trong 20 ngày, một tổ kiến vống có 3 tỷ
con có thể tiêu diệt hết 150 tấn côn trùng có hại. Tác dụng to lớn
của kiến formicatrong việc bảo vệ rừng. Người ta tính rằng, chỉ
cần một tổ kiến này cũng có thể bảo vệ được 1 ha rừng khỏi bị sâu
hại tấn công.

Kiến lửa

Kiến ba khoang


Ứng dụng của kiến
Một số nơi ở Nam Mỹ, thổ
dân da đỏ còn dùng kiến để
khâu vết thương. Phương
pháp của họ chủ yếu dựa
vào tập tính của loài kiến
dorylus khi tấn công thì đôi
hàm kẹp chặt vào đối
phương cho đến chết cũng
không chịu buông ra. Vì
vậy, sau khi mép các vết
thương được kiến cặp chặt
lại thì người ta bấu từ cổ
chúng để cho đầu nó dính
chặt vào vết thương cho đến
khi lành.


2.Ở Việt Nam

a) Rắn và nọc rắn
 Trong Đông y, rắn được dùng dưới dạng
rượu rắn (tam xà, ngũ xà) chữa đau nhức
chân tay, sưng khớp xương, mỏi trong
xương. Phụ nữ có thai không dùng được.
Xác rắn (xà thoái) có tác dụng khứ phong,
sát trùng, tan mộng; dùng chữa những
chứng động kinh nguy hiểm của trẻ em,
sát trùng, trị đau cổ họng, lở ghẻ. Ngày
dùng 6 - 12 g dưới dạng thuốc sắc hay đốt
cháy. Tương truyền, vua Minh Mạng có
bài thuốc rượu ngâm rắn rất hay tăng
cường sinh lực và nam tính. Nhiều nhà có
bình rượu ngâm rắn dùng hàng ngày.


b) Nọc ong
Hằng năm có khoảng 20.000 người chết do ong gây ra. Ong thường đốt nhiều vết
do chúng thường tụ thành đàn và vết đốt gây dị ứng khắp cơ thể. Qua quan sát,
người ta nhận thấy những người nuôi ong thường không bị thấp khớp vì trong
quá trình tiếp xúc với ong họ không thể tránh khỏi một vài lần bị ong đốt. Từ đó,
các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu nọc của nhiều loài ong và chế tạo được dược
phẩm có chất mellitine có tác dụng kháng viêm giảm đau mạnh gấp nhiều lần
hydrocortison, dùng trong bệnh thấp khớp. Melltine còn được dùng trong phẫu
thuật chỉnh hình và thẩm mỹ để làm các tế bào được mịn màng hơn khi trở thành
sẹo sau khi mổ.Đang hy vọng từ nọc ong chế tạo một loại vaccin dùng trong
phòng chống bệnh dị ứng vì 20 năm gần đây bệnh dị ứng đã tăng rất nhanh trên
thế giới. Mủ cóc rất độc nhưng từ lâu trong Đông y đã dùng với tên gọi thiềm tô
(mủ cóc lấy từ các hạch ở da cóc), với công dụng: giải độc, tiêu sưng, chữa: mụn
nhọt, sưng đau họng, đau bụng (do bị cảm), còn dùng chữa cảm sốt, kinh giật,

mê sảng. Dùng uống hoặc dùng ngoài, thường phối hợp với một số vị thuốc
khác. Ở Canada, dân nghiện ma túy đã sử dụng một chất độc có trong da một
loài cóc khổng lồ (xuất xứ từ châu Úc), chất này tạo cảm giác "phê" như ma túy.
Việc này đã tạo ra một chiến dịch săn bắt loại cóc trên nên chính phủ Canada
phải ra lệnh cấm.


c) Mật cá trắm
Mặc dù mật cá trắm dễ gây ngộ
độc, làm đau bụng, đi ỉa lỏng,
nôn, khó thở, khạc ra máu và chết
nhưng vẫn được dùng với liều nhỏ
thích hợp để làm thuốc điều trị
bệnh đau mắt đỏ kéo màng, chữa
trẻ em đờm dãi, ủng trệ.

Cá trắm


C. Độc tố vi sinh vật
1) Trên thế giới
Chúng ta đừng quên rằng khí hậu, thời tiết và viêm phế quản, viêm hầu họng có liên
quan chặt chẽ vào những tháng đổi mùa, tháng lạnh rét. Trời lạnh ta vẫn thường hay
đóng kín cửa, không khí ít lưu thông, do đó, khả năng lây truyền bệnh của siêu vi
trùng (virus) rất cao. Thời tiết lạnh có ảnh hưởng trực tiếp đến việc trẻ em bị giảm
sức đề kháng chống lại nhiễm trùng. Do đó, không được để con trẻ bị nhiễm lạnh,
nhất là trẻ sơ sinh. Vào những tháng khí trời giá lạnh và ẩm, cần cho trẻ ăn uống đầy
đủ hơn, giữ cơ thể trẻ ấm một chút. Hệ tiêu hóa làm việc khó khăn và mạch máu chỉ
hút một lượng chất dinh dưỡng đủ dùng. Các tuyến tiêu hóa tiết ra một lượng dịch
tiêu hóa vừa phải để hóa hợp thực phẩm. Nếu ăn uống quá mức, lượng thực phẩm dư

trong bao tử tạo nên sự mệt mỏi… và gây nên bệnh tật nếu tình trạng trên thường
xuyên tái diễn. Chất đường khó tiêu, đọng lại rất lâu, do đó dễ sinh ra men chua, làm
đầy hơi, khó được hấp thụ.


Về bệnh môi trường, nếu ô nhiễm, thường xuất hiện nhiều bệnh; thí dụ, sốt
rét, sốt xuất huyết, cúm, đau mắt đỏ…, nhất là vào mùa mưa. Môi trường
không xử lý ô nhiễm phân và rác một cách thích hợp thì dễ gây bệnh đường
ruột, tiêu chảy và bệnh giun sán … ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng. Thế
nhưng, do đâu mà có môi trường xấu như vậy ? Cuối cùng lại có thể qui trách
nhiệm cho thói quen, tập quán ăn uống, buôn bán đồ ăn, xả rác, phóng uế, đi
tiêu bừa bãi, không đúng vào nơi qui định! Trước khi nhà nước kiếm đủ kinh
phí lo cho những tiện nghi vệ sinh công cộng, thiết nghĩ cũng vẫn có thể có
những nỗ lực cá nhân và cộng đồng để bảo vệ môi trường chung cho mọi
người: tập thói quen không khạc nhổ bừa bãi, không phóng uế, đi cầu bừa bãi.
Trái lại, cố tham gia đóng góp phần riêng cá nhân làm sạch đẹp những nơi của
chung mọi người như công viên, lối đi, đường sá, hồ bơi, ...


ỨNG DỤNG VSV
Người ta đã ứng dụng độc tố vi sinh vật như sau:
• Tạo chất kháng sinh
- Vi khuẩn
+Interformacho chất kháng sinh formaxin A, B
+ Aureofacieus cho chất kháng sinh tetracycline
+ Erytharaluscho chất kháng sinh eruthromycine
+ Venezuelaecho chất kháng sinh cloramphenicol
- Nấm: ganodermateceallà loại nấm độc, dùng điều trị mụn nhọt
và tác dụng với vi khuẩn gram (+) và một số vi khuẩn kháng axite.


penixillin


• Chế vaccine phòng bệnh
- Vaccine phòng bệnh là hình thức tiêm vào
cơ thể một lượng vi trùng gây bệnh đã làm
yếu đi để cơ thể có khả năng miễn dịch,
phòng trước được bệnh, ví dụ như vaccine
phòng chống bệnh uốn ván, bệnh dại, bạch
hầu, viêm gan siêu vi...
• Tạo kháng viêm
- Lợi dụng tác dụng của một số độc tố để tạo
ra các kháng viêm, giúp cho quá trình hình
thành độc tố miễn dịch (Độc tố miễn dịch là
phức hợp tạo nên bởi liên kết cộng hóa trị
giữa một kháng thể và độc tố tiết ra).

Tiêm vaccine


2. Ở Việt Nam
- Thực tế ở Việt Nam đã cho thấy, những nhóm bệnh
truyền nhiễm do chất thải gây nên tồn tại phát triển được
là nhờ những điều kiện về khí hậu và thu nhập người dân
cũng như tập tục sinh hoạt nếp sống văn hóa, vệ sinh môi
trường.
- Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng
và ẩm làm cho côn trùng truyền bệnh phát triển nhanh
chóng, mùa đông ngắn và không lạnh lắm không đủ hạn
chế và tiêu diệt ký sinh trùng. Tính chất đất xốp và ẩm tạo

điều kiện cho mầm bệnh tồn tại lâu.
- Ở Viêt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng các VSV để lên men
hiếu khí hoặc kị khi.


×