Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

BIẾN đổi KHÍ hậu ở KHU vực mê KÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 34 trang )

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở KHU VỰC
MÊ KÔNG
Nguy cơ đối với đa dạng sinh học,
các dịch vụ của hệ sinh thái và
phát triển


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

TÓM TẮT
Châu thổ sông Mekong là vùng dễ bị tổn thương nhất nhất

Tần suất hạn hán và lũ lụt sẽ tăng lên, thực tế đã xảy ra và đã

trên trái đất do sẽ phải hứng chịu những hậu quả nặng nề

gây nên những hậu quả nặng nề đối với tài sản và tính mạng

nhất của biến đổi khí hậu. Sự thay đổi đã xảy ra, tuy nhiên sự

con người. Mực nước biển dâng đang đe dọa các cộng đồng

tồi tệ nhất vẫn còn ở phía trước.

sinh sống trong vùng duyên hải của Châu thổ sông Mekong
cũng như các hệ sinh thái trong vùng ven biển.


Đối với vùng châu thổ sông Mekong, biến đổi khí hậu đã và sẽ
gây ra nhiều đe dọa đối với con người, đa dạng sinh học và tài

Băng tan từ đỉnh Himalayas có thể gây nên những tác động

nguyên thiên nhiên. Dường như đây là một hệ quả mang tính

xấu đối với dòng chảy chính của khu vực, các vùng đất ngập

dây truyền, ví dụ, khan hiếm nguồn nước sẽ dẫn tới giảm năng

nước sẽ trở nên khô hạn hoặc lụt lội hơn. Các tác động này đã

suất nông nghiệp, thiếu lương thực, việc làm và đói nghèo.

xảy ra ở một trừng mực nào đó.

Trong số các quốc gia thuộc vùng hạ lưu châu thổ sông

Biến đổi khí hậu đang có ảnh hưởng đáng kể lên ngành nông

Mekong, Lào và Cam pu chia được xác định là hai nước dễ bị

nghiệp. Nhiệt độ ấm lên đã làm giảm sản lượng. Lũ lụt, hạn

tổn thương nhất của vùng, một trong những nguyên nhân là

hán và bão tố đang gây ảnh hưởng tiêu cực lên sản lượng của

năng lực ứng phó với rủi ro từ biến đổi khí hậu của hai nước


tất cả ngành trồng trọt.

này còn hạn chế (Yusuf and Francisco, 2009). Nhìn chung, biến
đổi khí hậu sẽ làm cho các nước trong khu vực vốn đã khó khăn

Trong tương lai, hạn hán kéo dài và không dự báo được sẽ

nay lại càng trở nên khó khăn hơn.

càng trầm trọng. Lượng nước ngọt trong mùa khô sẽ bị suy
giảm, hạn hán kéo dài sẽ gây ra tình trạng khan hiếm nước.

Thành phố Băng Kok đang bị chìm dần xuống biển với tốc độ 510 mm hàng năm. Sự sụt lún do kiến tạo của địa tầng và khai

Khan hiếm nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng nông
nghiệp và đe dọa an ninh lương thực.

thác nước ngầm kết hợp với tăng mức nước biển sẽ làm cho
Bangkok bị ngập trong nước biển khoảng 50-100 cm vào năm

Ảnh hưởng xấu của biến đổi khí hậu đối với con người là vô

2025. (UNEP, 2009)

cùng trầm trọng; những cư dân nghèo nhât trong vùng châu
thổ sông Mekong sẽ là những người hứng chịu nhiều nhất

Trên toàn khu vực châu thổ sông Mekong, nhiệt độ đang tăng
lên, trong 50 năm vừa qua nhiệt độ đã tăng từ 0.5 tới 1.50C.


(Oxfam, 2008). Có thể kể ra một số loại tác động do biến đổi

Trong khi mùa mưa ở một số nơi trong vùng có thể bị ngắn lại,

khí hậu gây ra cho con người như gia tăng các trường hợp tử

thì tổng lượng mua được dự báo là sẽ tăng lên. Điêu này có

vong vì sóng nhiệt, dịch chuyển địa lý của các ổ dịch truyền

nghĩa là sẽ có nhiều đợt mưa rất to xuất hiện trong một thời

nhiễm như sốt rét, sốt xuất huyết, tiêu chảy và viêm gan.

gian ngắn.

Biến đổi khí hậu còn gây mất nơi cư trú và di dân, quy mô và
phạm vi của vấn nạn này có lẽ sẽ rất lớn và lớn hơn bất kì
những nguyên nhân nào đã từng có trong lịch sử.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Các quốc gia trong vùng châu thổ sông Mekong phải

Con người, văn hóa và các hệ sinh thái có quyền được tồn

chuẩn bị để đối phó với những hậu quả nghiêm trọng


tại. Có hàng loạt các hành động chính sách, nếu được các
quốc gia trong khu vực chấp nhận và thực hiện sẽ giúp giảm

Cắt giảm một lượng lớn khí thải nhà kính ngay lập tức có

thiểu khủng hoảng cho các thế hệ hiện tại và tương lai.

vai trò sống còn để phòng ngừa những tác động tồi tệ
nhất. Tuy nhiên có một số tác động của biến đổi khí hậu

“Với tư cách là quốc gia có lượng phát thải khí nhà kính

đã xảy ra và một số tác động không thể phòng tránh được.

thuộc hàng khiêm tốn nhất trên thế giới, tuy nhiên chúng
tôi vẫn cam kết góp sức vào nỗ lực toàn cầu để giải quyết

Tổng lượng khí thải CO2 được đưa vào khí quyển trong

vấn đề biến đổi khí hâu.” Tiến sĩ Thongloun Sisoulith, phó

200 năm vừa qua sẽ góp phần làm cho nhiệt độ trái đất

thủ thướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Lào đã phát biểu,

tăng lên ít nhất là 0.8˚C trong thế kỉ tới. Đây là lý do vì sao

theo thời báo Vientiane Times ra ngày 24/9/09.


hành động về biến đổi khí hậu trở nên rất quan trọng
trong thời điểm này.

Thỏa thuận cấp vùng đầu tiên về ứng phó với biến

“Con cháu chúng ta sẽ không bao giờ tha thứ cho chúng ta

đổi khí hậu của châu Á

trừ phi chúng ta phải hành động ngay. Thời gian không

Mục đích nhằm giúp các quốc gia châu Á chuẩn bị đối mặt

còn nhiều, chúng ta chỉ con 2 tháng trước hội nghị khí hậu
quốc tế Copenhagen” Abhisit Vejjajiva, thủ tướng Thái Lan

với những tác động không thể tránh được của biến đổi khí
hậu, thỏa thuận này cần:

đã phát biểu tại cuộc họp của UNFCCC tại Băng Kok


Nhấn mạnh đến cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái, để



Củng cố hệ thống quản lý hiện hành và đảm bảo sự

duy trì khả năng tự phục hồi của vùng


Các quốc gia thuộc lưu vực sông Mekong phải có hành
động quyết đoán và chuẩn bị đối phó với những tác động
không tránh được của biến đổi khí hậu ngay từ hôm nay,

tham gia của tất cả các bên liên quan vào ứng phó với

nếu không hậu quả sẽ rất trầm trọng

biến đổi khí hậu

Một cam kết khu vực để đối phó với đe dọa từ biến đổi



hiểu biết hiện có vào công tác phòng chống biến đổi

khí hậu gây ra cho các hệ sinh thái ven biển, nước ngọt,
lục địa là vô cùng quan trọng và rất cần thiết. Điều phối
và hợp tác với nhau có tính chất nền tảng cho việc giảm

Phải hành động ngay từ bây giờ và sử dụng những
khí hậu



Lồng ghép các biện pháp giảm nhẹ vào trong chiến
lược ứng phó biến đổi khí hậu; đảm bảo có đầy đủ cơ

ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên tài nguyên thiên nhiên


sở vật chất cần thiết cho các nỗ lực ứng phó với biến

và con người. Trao đổi thông tin cũng vô cùng cần thiết để

đổi khí hậu.

tăng cường năng lực và nâng cao hiểu biết.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Phải chăng sự gia tăng phát thải khí

Góp phần đạt đến mục tiếp này, WWF và một hiệp đoàn lớn bao gồm

nhà kính không được kiểm soát hiện

những đối tác liên quan mạnh mẽ khuyến cáo các quốc gia giầu nhất và

nay sẽ biến phần lớn châu thổ sông

phát triển nhất cắt giảm lượng khí phát thải của họ tới mức thấp hơn

Mekong thành nơi không thể cư trú

40% so với lượng phát thải của năm 1990 (tới thời điểm năm 2020) và các

được vào cuối thế kỷ này?


quốc gia đang phát triển giảm lượng phát thải xuống 30% vào thời điểm
năm 2020.

Để phòng tránh thảm họa này xảy ra,
WWF mạnh mẽ khuyến cáo chính phủ

Những mục tiêu này sẽ hoàn toàn có thể thực hiện được nếu có sự hỗ trợ

của các quốc gia trong vùng châu thổ

mạnh mẽ từ các nhà lãnh đạo chính trị, sự tham gia của tất cả các nước

sông Mekong phải nỗ lực tìm kiếm

và sự cảm nhận tính cấp thiết của biến đổi khí hậu mà báo cáo này nêu

thỏa thuận quốc tế khả thi nhất để

ra.

ngăn chặn biến đổi khí hậu.
Hạn chế gia tăng nhiệt độ toàn cầu tới
mức dưới 20C so với nhiệt độ thời kỳ
trước cách mạng công nghiệp sẽ góp
phần phòng tránh được những tác
động xấu nhất của biến đổi khí hậu.
Để làm được việc này yêu cầu phải cắt
giảm mạnh và ngay lập tức việc phát
thải khí nhà kính.
Tới năm 2020, lượng phát thải khí nhà

kính phải được cắt giảm tới mức bằng
lượng phát thải của năm 1990. Tới
năm 2050, lượng phát thải khí nhà
kính trên toàn cầu phải giảm xuống
bằng 80% lượng phát thải của năm
1990.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

THÁCH THỨC: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề đã được xác định của
thời đại chúng ta và nó có tác động thay đổi nhanh chóng trái đất,
nơi chúng ta đang sinh sống.
Phát thải khí nhà kính từ nhiều nguồn khác nhau như đốt cháy
nhiên liệu hóa thạch, phá hủy rừng và những hoạt động nông
nghiệp không bền vững đang làm cho trái đất nóng lên và làm thay
đổi toàn bộ khí hậu. Gia tăng nhiệt độ trung bình của không khí và
đại dương trên quy mô toàn cầu, băng tan ở nhiều khu vực và nâng
cao mực nước biển là những bằng chứng khẳng định sự biến đổi khí

Vùng duyên hải dân cư đông đúc
của các quốc gia thuộc lưu vực
sông Mekong là vùng phải chịu
nhiều rủi ro
nhất đối vấn đề xâm nhập mặn,
ngập lụt do mực nước biển dâng,
và ngập lụt trên diện rộng do
đỉnh lũ của sông Mekong, sông

Red, sông Chao Phraya và các con
sông khác trở nên cao hơn.

hậu của trái đất (IPCC, 2007). Khi lượng phát thải khi nhà kính tăng,

Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong

kéo theo sự biển đổi khí hậu và những tác động của nó tới thiên

vùng sẽ tăng lên, đặc biệt là tiêu

nhiên và con người. Cắt giảm mạnh và ngay lập tức phải thải khí

chảy chủ yếu có nguyên nhân từ

nhà kính trên quy mô toàn cầu là rất cần thiết để phòng tránh

lũ lụt. Hạn hán cũng được dự báo

những tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu

là tăng lên do sự xáo trộn của chế

Vùng Đông Nam Á đóng góp 12% lượng khí thải nhà kính tại thời

độ thủy văn.

điểm năm 2000; so với năm 1990, lượng phát thải này đã tăng lên

Mặc dù lưu lượng dòng chảy


27%, một tốc độ tăng nhanh hơn so với trung bình của toàn cầu

hàng năm được dự báo là tăng lên

(ADB, 2009). Trong những năm gần đây, khu vực tiểu vùng sông

do tăng tổng lượng mưa trong

Mekong đóng góp vào khoảng 4,5% (xấp xỉ 2,2 Giga tấn) trong tổng

vùng, tuy nhiên mùa và lượng

lượng khí phát thải (ADB, 2008). Mặc dù các quốc gia vùng châu thổ

mưa theo từng khu vực có thay

sông Mekong đóng góp một phần nhỏ vào trong phát thải khí nhà

đổi theo chiều hướng bất lợi vào

kính toàn cầu, nhưng lại là một trong những vùng có lượng khí

năm những 2050 (IPCC, 2007).

phát thải gia tăng nhanh nhất trên thế giới.

Các hệ sinh thái của khu vực nơi

Việc chuyển đổi tới một nên kính tế ít phát thải carbon sẽ giúp giảm

các tác động toàn cầu cũng như các tác động cấp vùng và địa
phương của biên đổi khí hậu; các tác động như đã nêu ra trong báo
cáo này sẽ trở nên ngày càng xấu. Vào thời điểm hiện này, cần thiết
phải có chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu vì có nhiều tác
động của nó là không thể tránh khỏi.

mà con người sống phụ thuộc vào
sẽ thay đổi một cách nhanh chóng
bởi vì các loài khác nhau có các
phản ứng khác nhau với tác động
cộng gộp của biến đổi khí hậu


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Sự biến đổi đã bắt đầu

Những thay đổi nào đã xảy ra với các quốc gia

Như một hệ quả tất yếu, tính từ năm 1950 trong cả vùng,

trong vùng châu thổi sông Mekong?

số ngày và đêm nóng tăng lên trong khi số ngày và đêm

Sự xuất hiện xu thế khí hậu chung trong vùng châu thổ sông
Mekong đã được nghiên cứu; kết quả này đã giúp cho các nhà

Vùng châu thổ sông Mekong đang ấm dẫn lên


khoa học đưa ra dự báo sự thay đổi của nó trong thời gian 50 tới
100 năm nữa trong tương lai. (Eastham et al. 2008, ADB 2009,

Nhiệt độ trung bình ngày trong toàn vùng Đông

TKK and START 2009, WWF Australia 2009).

Nam châu Á đã tăng từ 0.5 tới 1,50C trong giai đoạn

mát mẻ lại giảm xuống (Manton et al 2001). Sự thay đổi
về nhiệt độ cực điểm (và các sự kiện khí hậu khắc
nghiệt) đã trở nên ngày càng phổ biến và có liên hệ với
tác động của thay đổi khí hậu (Griffiths et al. 2005).

1951 - 2000 (IPCC, 2007). Nhiệt độ ở Thái Lan đã

Vào cuối thế kỉ này, vùng châu thổ sông Mekong được

Có nhiều nhà khoa học lại cho rằng dự báo này là quá thấp và

tăng lên từ 1.0 đến 1,80C trong vòng 50 năm vừa

dự báo là sẽ nóng lên từ 2 đến 40C (IPCC 2007, ADB

vùng châu thổ sông Mekong có lẽ phải hứng chịu một điều kiện

qua; nhiệt độ trung bình ban ngày trong tháng 4 đã

2009). Trong vòng 20 năm tới, nhiệt độ trung bình trong


khí hậu khắc nghiệt nhất tương đương với kịch bản khí hậu xấu

tăng rất cao, tới 400C (ABD, 2009). Nhiệt độ ở Việt

toàn vùng châu thổ sông Mekong rất có thể sẽ tăng

nhất như đã được IPCC dự báo lần gần đây. Điều này sẽ gây nên

Nam tăng 0.70C trong cùng thời điểm (ADB, 2009).

khoảng 0.790C với nhiệt độ tăng mạnh trong vùng phía

những tác động mạnh hơn nhiều so với những tác động được

Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất trong ngày cũng đã

bắc của khu vực (Eastham 2008)

IPCC dự báo vào năm 2007 (WWF Australia, 2009).

tăng lên (TKK & SEA START RC 2009).

Hình 3. Nhiệt độ trung bình tối thiểu ngày so với đối chứng của thập kỷ 80

Nguồn: SEA START RC 2009


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Châu thổ sông Mekong sẽ trở nên ẩm ướt hơn
Chế độ mưa trong vùng Đông Nam Á tương đối phức tạp do có nhiều dị biệt về địa hình và
ảnh hưởng của khí hậu đại dương (Trenberth et al 2007). Trong vùng châu thổ sông Mekong,
từ năm 1961 tới năm 1998, mặc dù số trận mưa rất to có giảm, nhưng lượng nước trong một
lần mưa của các trận này lại tăng lên (Manton et al 2001)
Trong một vài thập kỉ tới, tổng lượng mưa hàng năm sẽ tăng lên từ 5 đến 25% trong phần phía
bắc của châu thổ sông Mekong và sẽ tăng lên 50% vào cuối thể kỉ này (hình 4). Đồng bằng
sông Mekong là một ngoại lệ quan trọng vì lượng mưa ở đây lại giảm đi 15% trong thế kỉ này
(hình 4). Trong vùng này sẽ có nhiều bão lớn hơn và mùa khô được dự báo sẽ trở nên khô hơn
(TKK & SEA START RC 2009). Mặc dù thời gian của mùa mưa được dự báo là không dài ra ở
phần lớn vùng sông Mekong, tuy nhiên ở một số khu vực mùa mưa bị ngắn lại, ví dụ như
vùng Krabi, Thái Lan sẽ bị ngắn lại khoảng 1 tháng (WWF & SEA START RC 2008)

Hình 4: Lương mưa trung bình hàng năm: lượng mưa (phía trên) và lượng mưa thay đổi trong tương lai được so sánh với số liệu gốc năm 1980 (phía dưới) theo kịch bản biến đổi khí
hậu A2

Nguồn: SEA START RC 2009


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN
Hình 5: Sự thay đổi số ngày mưaở Kabi, Thái Lan những năm 2030 so với
những năm 1980

Hình 6: Sự thay đổi vè thời gian và độ dài của mùa mưa ở Kabi, Thái Lan những năm 2030 so với
những năm 1990

Nguồn: WWF và SEA START RC 2008

Nguồn: WWF và SEA START RC 2008



CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN
Vùng châu thổ sông Mekong là vùng rất dễ bị tổn thương vì mực nước biển
dâng
Thay đổi khí hậu đã làm cho mực nước biển dâng cao từ 1,7 tới 1,8 mm hàng
năm trong suốt thế kỉ vừa qua; và tăng với tốc độ 3mm / năm trong suốt thập
kỉ trước (ADB 2008). Rất nhiều vùng ven biển đã phải hứng chịu hậu quả của
nước biển dâng.
Vùng châu thổ sông Mekong là vùng đặc biệt rủi ro bởi vì nó có đường bờ
biển dài và đồng bằng châu thổ chỉ cao hơn mực nước biển trung bình một
chút. Thậm chí mực nước biển tăng lên một một lượng nhỏ đã có thể gây nên
một thảm họa trên diện rộng, khi gió mùa kết hợp với triều cường tạo nên
sóng lớn (đặc biệt là trong mùa bão). Hậu quả này sẽ gây nên ngập lụt trên
diện rộng và ở mức độ nghiêm trọng hơn, ví dụ như bão Linda và bão Nargis.
Mức gia tăng mực nước biển ở đồng bằng châu thổ sông Mekong là khá lớn
khoảng 6 mm / năm và khoảng 13 tới 150 mm / năm ở đồng bằng châu thổ
Chao Phraya (Ryvitski et al. 2009). Sụt đất do khai thác nước ngầm và do trầm
tích bị các đập thủy điện giữ lại đã và đang làm vùng đồng bằng châu thổ
sông Mekong chìm dần và mực nước biển dâng đang làm cho vấn đề trở nên
trầm trọng hơn (Ryvitski et al. 2009, xem nghiên cứu điểm trong hộp số 1).
Xâm nhập mặn và mất đất đã đang và sẽ làm ảnh hưởng tới con người và sinh
kế của cộng đồng duyên hải tại Thái Lan và Việt Nam
Cho tới cuối thế kỉ này, mực nước biển dâng cao trong vùng đồng bằng châu
thổ sông Mekong sẽ làm ngập lụt khoảng một nửa (xấp xỉ 1,4 triệu ha) đất
canh tác của Việt Nam (Warner et al. 2009). Mực nước biển dâng khoảng 1 m
sẽ làm ngập ¼ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất của Việt Nam, nới
có hơn 6 triệu người sinh sống.



CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN
Hộp số 1. Nghiên cứu điển hình: Mất đất ở Khok Kham, Vịnh Thái Lan.
Biến đổi khí hậu không diễn ra một cách riêng lẻ. Nó là một

Trong nhiều năm qua, cộng đồng dân cư ở Khok Kham đã thử

trong nhiều nhân tố gây áp lực lên các hệ sinh thái và sinh kế của

nhiều cách để giảm thiếu thiệt hại hoặc thích nghi với tình trạng

người dân. Trong vòng mười năm trở lại đây, người dân ở Khok

trên. Thường thì các thử nghiệm này dẫn đến những giải pháp

Kham thuộc tỉnh Samut Sakhon đã theo dõi và nhận thấy biển đã

thiển cận, chúng chỉ mang đến những tác động suy giảm trước mắt

xâm nhập 1km vào phần đất liền của bờ biển.

nhưng làm tồi tệ hơn vấn đề về dài hạn hoặc làm cho những giải

Ông Vorapol, một trưởng thôn 48 tuổi đến từ huyện Khok Kham

pháp xấu này lại được nhân rộng ra trong vùng ven biển .

đã phải di chuyển tám lần trong mười năm qua do xói mòn bờ


Ở Khoh Kham, có một người đã đầu tư thời gian và sức lực để tìm

biển. Ngày nay, nơi gia đình ông sinh sống khi ông còn thơ bé đã

kiếm một giải pháp lâu dài. Ông Vorapol thông thạo khu vực này

bị ngập chìm lấp hoàn toàn. Cũng như nhiều người khác ở khu

và đã là nhân chứng chứng kiến sự leo thang của vấn đề. Ông

vực này, ông Vorapol kiếm sống từ nuôi tôm và nông nghiệp.

nhận ra rằng mấu chốt trong việc bảo đảm tính ổn định của bờ

Việc mất đất đai cũng đồng nghĩa với việc họ bị mất đi tài sản

biển là phục hồi rừng ngập mặn.

quý giá nhất và cả nguồn kiếm kế sinh nhai.

Mô hình Ông Vorapol thiết kế là xây dựng những hàng rào bằng

Có nhiều lý do vì sao bờ biển đang bị nước mặn xâm nhập ở

tre hình dích dắc (zigzag) song song với bờ biển để lưu giữ trầm

Samut Sakhon, tỉnh có vị trí gần Bangkok, nơi khai thác nước

tích. Thiết kế này không phải để ngăn dòng nước, vì bê tông mới


ngầm quá mức đã dẫn tới việc mặt đất do bị lún xuống. Việc xây

làm được việc đó, các hàng rào này làm cho nước biển được từ từ

dựng các đập ở thượng nguồn các sông Chao Phraya và Tha

lọc qua. Vận tốc dòng chảy giảm cho phép trầm tích tích tụ, cung

Chin làm giảm dòng trầm tích chảy vào vịnh, làm suy yếu khả

cấp lượng chất nền thích hợp cho việc trồng cây nhỏ ở rừng ngập

năng tự bổ sung của nó. Việc rừng ngập mặn bị xâm lấn bởi

mặn. Trong suốt thập kỷ qua, các rừng ngập mặn đã tự nó đủ sức

những người nông dân nuôi tôm đã làm mất đi lá chắn bảo vệ tự

lưu giữ trầm tích và tự duy trì hệ sinh thái của nó từ rất lâu sau khi

nhiên cho vùng bờ biển, giảm khả năng chắn sóng và lưu giữ

hàng rào bằng tre biến mất theo các con sóng biển.

trầm tích. Các nhân tố trên làm suy giảm các chức năng của hệ
sinh thái dẫn tới xói mòn vùng bờ biển. Biến đổi khí hậu khiến
cho tình trạng này trở nên tồi tệ hơn.

Những chiến lược như vậy cho thấy tri thức địa phương và các
nguyên liệu tự nhiên có thể hỗ trợ các dịch vụ của hệ sinh thái, do

đó mang đến những giải pháp tốt hơn cho hệ thống hạ tầng hay

Gió mùa sẽ có cường độ mạnh hơn như là một kết quả của biến

các tiếp cận mang tính kỹ thuật. Việc phục hồi rừng ngập mặn

đổi khí hậu. Điều này có nghĩa là sẽ có các đợt sóng lớn hơn tác

không những bảo vệ bờ biển mà còn tạo ra sinh cảnh cho vô số con

động vào bờ biển dọc theo Vịnh Thái Lan. Trong thời gian có gió

cá nhỏ và các loài động vật không có xương sống-những yếu tố cơ

mùa, nếu không có các khu rừng ngập mặn, một lượng trầm tích

bản trong lưới thức ăn ở địa phương, từ đó hỗ trợ hệ sinh thái biển

lớn sẽ bị rửa trôi ra ngoài biển, dẫn đến mất trầm tích. Mực nước

và cả những ngư dân khu vực này

biển tăng sẽ làm vấn đề này ngày càng trầm trọng hơn.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Tần suất và cường độ các đợt lũ lụt, khô hạn và bão đang ngày càng tăng (Hoặc các đợt lũ lụt, khô hạn và bão đang diễn ra ngày càng dài ngày và với cường
độ mạnh hơn)

Tần suất xảy ra các sự kiện thời tiết khắc nghiệt cũng tăng lên. Sóng nhiệt cũng trở nên phổ biến hơn (IPCC 2007). Số lượng các đợt bão nhiệt đới cũng cao hơn
trong giai đoạn 1990-2003 (IPCC 2007). Với bờ biển dài và vị trí dọc theo vành đai bão tây bắc của Thái Bình Dương, UNDP đã xếp Việt Nam vào một trong mười
nước trên thế giới có nguy cơ chịu ảnh hưởng bão lũ nhiệt đới nặng nề nhất (Chaudhry and Ruyschaert 2007). Trong vòng 40 năm qua, Việt Nam đã gặp ít cơn
bão hơn, nhưng mức độ khắc nghiệt của chúng lại tăng lên (Niemnil et al 2008).
Năm 2000, những trận lụt gió mùa trên diện rộng hiếm có đã làm ngập lụt gần 800.000 km2 của Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam bao gồm một khu vực
rộng thuộc Đồng bằng sông Mekong (Hình 7). Trong vòng 20-30 năm tới, các trận lụt ở Đồng bằng sông Mekong sẽ có khả năng làm ngập diện
tích đất lớn hơn với độ sâu cũng tăng lên (Hình 8). Các trận lụt này cũng đến sớm hơn hoặc muộn hơn phụ thuộc vào những thay đổi về dòng chảy và lượng nước
mưa của khu vực.
Hình 7. Diện tích bị ảnh hưởng lụt (màu xanh

Hình 8. Thay đổi ước tính về các khu vực bị ngập lụt trong khu vực đồng bằng sông Mekong trong

nước biển đậm) ở khu vực đồng bằng sông

tương lai (bên phải), so sánh với hiện tại (bên trái)

Mekong năm 2000

Nguồn: Warner et al. 2009, courtesy of CARE
International and CIESIN at the Earth Institute of
Columbia University

Nguồn: TKK & SEA START RC 2009.


Các sông băng đầu nguồn sông Mê-Kông đang biến
mất

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN


Các sông băng khắp thế giới, bao gồm cả ở khu vực cao
nguyên Tây Tạng góp phần vào lưu lượng đầu nguồn
cho sông Mê-Kông đang bị suy giảm do điều kiện gia
tăng về nhiệt độ. Sự suy giảm này sẽ gây ra các tác động
nghiêm trọng đối chế độ thủy văn và nguồn nước ngọt
của nhiều lưu vực sông lớn ở Châu Á. Tuy nhiên, Tại lưu
vực sông Mê-Kông, tác động vào dòng chảy tại các khu
vực hạ lưu sẽ rất nhỏ do diện tích và thể tích của lượng
băng là tương đối nhỏ (Eastham 2008) và bởi vì lưu
lượng băng tan chỉ góp 6.6% tổng lưu lượng (Xu 2008).
Hiểu biêt về tác động lên trầm tích và sinh thái của các
khu vực đật ngập nước tại các vị trí có cao độ tương đối
cao tại các vùng thượng lưu là hạn chế, nhưng lại là vấn
đề quan trọng (Xem hộp 2).

Hộp 2: Vấn đề về tương lai của các khu đất ngập nước thuộc lượng lưu sông Mê-Kông
Lưu vực thượng lưu sông Mê-Kông nằm tại vùng cao nguyên Tây Tạng cũng là khu vực nhạy cảm đối với biến dổi khí hậu. Trong vòng 40 năm từ năm 1955
đến 1996 nhiệt độ trung bình tại vùng cao nguyên Tây Tạng tăng 0.64ºC. Vào thời điểm những năm 2050, nhiệt độ tại khu vực sẽ tăng lên thêm 2-2.7ºC so với
mức năm 1990 (Wilkes 2008). Các sông băng khu vực cao nguyên, băng và tuyết là những bể chứa nước đóng băng tự nhiên chính sẽ đổ nước vào các khu vực
đất ngập nước tại các khu vực có cao độ cao và chín sông lớn tại Châu Á, kể cả sông Mê-Kông, sông Irrawaddy và sông Salween (Xu 2008). Những vùng đất
ngập nước tại các khu vực cao độ tương đối cao này đóng vai trò là các khu vực đệm về mặt giao động khí hậu. Chúng có thể bù lượng nước thiếu do lượng
mưa và mức độ tan băng thấp trong những năm khô hạn và lưu trữ nước vào những khi nhiều mây để làm giảm lượng băng tan trong những năm nhiều
mưa. Các khu vực đất ngập nước cũng là các yếu tố quan trọng trong bảo tồn và quản lý tài nguyên nước trên phạm vi vùng, phạm vị quốc gia và quốc tế.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Các tác động tích lũy tại các khu vực thuộc

Greater Mê-Kông
Biến đổi khí hậu đang gây ra các tác động về
sinh thái và kinh tế xã hội tại khu vực sông
Mê-Kông (Hình 9). Sự gia tăng về cường độ
và tần suất các hiện tượng khí hậu thái quá
như khô hạn, ngập lụt, và bão đang ảnh
hưởng đến sản xuất lương thực, thủy sản, và
lâm nghiệp. Lượng và chất của tài nguyên
nước dang bị biến đổi. Các điều kiện phát tán
các loài ngoại lai và các loại dịch bệnh như
sốt rét, sốt dengue ngày càng rõ ràng hơn.
Khu vực này đang phải đấu tranh với sự mất
đất canh tác, và các vùng đất duyên hải do sự
dâng cao của mực nước biển, bão lụt lớn, xói
mòn bờ biển, sự xâm nhập mặn vào đất và
nước ngầm. Người dân trong khu vực MêKông sẽ phải đổi mặt với các vấn đề về an
ninh lương thực nếu hệ thống gió mùa ở đây
bị thay đổi đáng kể. Tất cả những yếu tố này
buộc con người phải rời bỏ quê hương và
cuộc sống để tìm kiếm các sinh kế khác. Tất
cả các tác động này sẽ càng nặng thêm khi
trái đất ấm lên. Khi khí hậu bắt đầu ấm lên
hơn, hàng triệu tấn mê tan từ các khu vực đất
đóng băng quanh năm tại cao nguyên Tây
Tạng sẽ được giải phóng ra và CO2 từ các
cánh rừng cũng sẽ bị giải phóng, côn trùng
tấn công, tất cả các tác động này sẽ làm xấu
thêm tình thế.

Hình 9: Các hậu quả về sinh thái và kinh tế xã hội của biến đổi khí hậu tại khu vực Greater Mê-Kông


Các thay đổi vật lý
Tăng bức xạ
Các thay đổi trong các mùa
Thay đổi về độ mặn
Mực nước biển dâng
Tuyết/băng tan
Bão lớn bất thường
Thay đổi các về thủy văn
Hạn hán
Axit hóa đại dương

Nồng độ CO2
Nhiệt độ
Lượng mưa

Các hậu quả đối với hệ sinh thái
Tác động CaCO3
Giảm tốc độ sinh trưởng của san hô
Gia tăng tôc độ phát triển của thực
vật
Gia tăng sức cạnh tranh của các
loài ngoại lai
Làm nghèo thành phần loài
Làm nghèo rừng
Chuyển từ các loài thuộc rừng
thường xanh sang rụng lá sang chịu
cháy

Hệ thống khí hậu


Giải phóng
CO2

Hoạt động
của con
người

Các hậu quả kinh tế xã hội
Giảm sản lượng nuôi trồng thân mềm
Giảm sản lượng đánh bắt trong các khu
vực rạn san hô
Mất thu nhập từ các hoạt động du lịch dựa
vào rạn san hô
Giảm lượng nước cấp
Gia tăng các bệnh dịch có nguồn gốc từ
môi trường nước
Giảm sản lượng trồng trọt
Giảm các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ
Tăng tần suất và cường độ cháy rừng
Gây hư hại đường sá, cầu cống
Làm giảm chất lượng nước


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

CÁC TÁC ĐỘNG VỀ SINH THÁI
Greater Mê-Kông: cơ sở cho sự đa dạng sinh học
Khu vực Greater Mê-Kông là một trong những vùng vùng có

độ đa dạng sinh học cao vào bậc nhất thế giới. Nơi đây có
mười sáu trong số 200 vùng sinh thái quan trọng mang tính
toàn cầu, có các cảnh quan quan trọng cấp quốc tế, được WWF
xác định. Áp lực có nguồn gốc từ việc sử dụng không bền
vững hoặc phát triển không kiểm soát ngày càng gia tăng
đang đe dọa đến các sinh cảnh quan trọng này. Các nguy cơ
bao gồm sự chuyển đổi sử dụng đất, chuyển đất rừng thành
đất canh tác nông nghiệp, khai thác gỗ không bền vững, buôn
bán động vật hoang dã, đánh bắt hải sản quá mức, xây dựng
đập nước, đường xá, khai thác koáng sản. Khu vực Greater
Mê-Kông được xác định là một trong những khu vực nhạy
cảm nhất đối với biển đổi khí hậu. Biến đổi hí hậu làm cho tác
động của các nguy cơ hiện hữu lên các sinh cảnh trên đất liền
và trong môi trường nước ngọt, vùng cửa sông, và các sinh
cảnh biển càng trở nên nghiêm trọng hơn (WWF 2009).
Khu vực Greater Mê-Kông là nơi tồn tại của nhiều cảnh quan
quan trọng như là Greater Annamites, rừng khô hạ lưu MêKông, và các vùng sinh thái Kayeh Karen Tenasserim (Kayeh
Karen Tenasserim Ecoregions - KKTE). Tất cả ba vùng đều là
những nơi có giá trị đa dạng sinh học cao về động thực vật và
chúng đều là những khu vực quan trọng của nhiều loài sinh
vật quí hiếm, đặc hữu, và đang bị đe dọa. Ví dụ, khu vực đồi
và rừng montane nguyên sinh liên tục tại KKTE là sinh cảnh
của hai loài đang bị đe đe dọa bậc nhất ở châu Á là hổ và voi
châu Á.

Trong điều kiện về sự độc đáo và quan trọng về
mặt đa dạng sinh học của khu vực Greater
Annamites, với 256 loại thú và 910 loài chim, các
chính phủ Việt Nam, Lào đã thành lập 50 khu
bảo vệ với khoảng 93,700 km2, cũng là nơi sinh

sống của 37 triệu người thuộc 30 nhóm chủng tộc
thiểu số khác nhau. Sự bền vững của các khu
rừng thuộc Greater Annamites và hệ thống sinh
vật đối với các thay đổi về khí hậu trong suốt
thời gian sinh thái đã tạo ra mức độ đặc hữu của
các loài sinh vật tại khu vực (Baltzer và đồng sự
2001). Tuy nhiên, các trung tâm đa dạng sinh học
bị biến đổi mở rộng do tác động bởi sự thay đổi
của khí hậu này sẽ có thể không còn là nơi cư
trú của sinh vật trong tương lai nữa bởi vì các
sinh cảnh hiếm là nền tảng của sự đa dạng sẽ có
thể bị thu nhỏ lại trước những dự báo biển đổi
khí hậu (Ohlemuller và đồng sự 2008). Hơn nữa,
các biển đổi khí hậu trong quá khứ, không đồng
thời với các áp lực (ví dụ các thay đổi trong sử
dụng đất, loài ngoại lai, khai thác không bền
vững, và săn bắt), đã làm giảm khả năng chống
chịu của các khu rừng này. Vì vậy, tốc độ phát
triển nhanh của các hoạt động kinh tế trong các
khu vực trong và lân cận rừng sẽ làm mất tính
liên kết của chúng đến mức hệ sinh thái không
còn có thể chống chịu khi điều kiện khí hậu thay
đổi. Hơn nữa, các tác động đến rừng có thể làm
cho từ 8.5 đến 20 triệu người sống tại các vùng
duyên hải của Việt Nam sẽ phải di chuyển trong
thể kỷ tới là vấn đề cần qua tâm (Dasgupta và
đồng sự 2007, Carew-Reid 2008).


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:

RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Sự biến đổi khí hậu có thể sẽ gây ra sự dịch chuyển về phân
bố loài mà điều này có thể có những tác đông to lớn về cấu
trúc các hệ sinh thái, thành phần loài và các tiến trình sinh thái
(Williams và đồng sự 2007). Sự dịch chuyển phân bố loài có
thể khác nhau tùy từng loài. Có thể có những loài thích nghi
với sự thay đổi mà không cần phải dịch chuyển phân bố
(Bradshaw và đồng sự 2006), tuy nhiên hầu hết các loài là phải
dịch chuyển, và đây là nguy cơ tiềm năng dẫn đến sự diệt
chủng hàng loạt các loài (Stork và đồng sự 2007). Tại khu vực
điểm nóng về đa dạng sinh học Indo-Burma (gần như nằm
trong khu vực Greater Mê-Kông Region), người ta dự báo
rằng sẽ có từ 133 đến 2 835 loài thực vật và từ 10 đến 213 loài
động vật có xương sống có thể bị diệt chủng (Malcolm và
đồng sự 2006). Các tác động trực tiếp của biển đổi khí hậu phụ
thuộc vào độ nhạy cảm của từng loài và các quá trình sinh thái
(ví dụ như tốc độ quang hợp, giao phấn, phân tán hạt, di trú)
đối với sự thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa. Sự thay đổi
trong cấu trúc rừng sẽ tác động lên các loài động vật trong
rừng. Vì đây là nơi sinh sống của nhiều loài đăc hữu và hiếm
(ví dụ voi châu Á, hổ, chà vá, bò tót, bò rừng, Nai cà tong, sếu,
báo gấm, cu li, gà lôi lam mào đen và gà lôi lam mào trắng)
nên chúng càng có nguy cơ bị tác động bởi biến đổi khí hậu.
Thêm vào đó, Trisurat và đồng sự (2009) nhận thấy rằng cùng
với tác động lên sự phân bố sinh vật ở vùng Bắc Thái Lan, cấu
trúc của các hệ sinh thái cũng thay đổi. Họ cũng tìm thấy rằng
10 loài thực vật sẽ bị xếp vào loại gần tuyệt chủng và mất sinh
cảnh sống.


Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vì các loài cây rụng
lá theo mùa thường bền vững trước tác động của
biến đổi khí hậu hơn các loài cây thường xanh,
các loài cây thường xanh sẽ bị thay thế bởi các
loài cây rụng lá theo mùa. Sở dĩ cây rụng lá theo
mùa chống chịu tốt hơn các loài cây thường xanh
đối với các điều kiện khí hậu khô hạn là vì khả
năng sử dụng nước một cách có hiệu quả làm
cho chúng có thể sống tốt hơn trong điều kiện
khô hạn (Trisurat và đồng sự 2009). Tuy nhiên,
không phải là cây rụng lá theo mùa sẽ không
phải chịu tác động. Số ngày nắng tăng lên cùng
với sự gia tăng về nhiệt độ sẽ làm thay đổi các
khu rừng khô giàu, các diện tích khu vực cây
thường xanh, các khu đất ngập nước theo mùa,
các ao hồ độc lập, là những nguồn nước quan
trọng và là nơi sinh sống của sinh vật trong mùa
khô bị giảm xuống. Hơn nữa, trong điều kiện
thời tiết khô hạn, số vụ cháy rừng sẽ tăng lên.

Tóm lại là động thực vật sẽ đối mặt với sự
suy thoái, nhiều loài đối diện với nguy cơ
tuyệt chủng nếu không thực hiện các biện
pháp nào kịp thời. Tuy nhiên, nếu chúng
ta có những biện pháp mạnh mẽ nhằm giữ
gìn sự khoẻ mạnh cho các hệ sinh thái và
làm giảm các nguy cơ phi khí hậu khác, các
loài đăc hữu, quí hiếm và những hệ sinh
thái rừng quan trọng sẽ được bảo tồn và
phục hồi. Duy trì và phục hồi các hệ sinh

thái rừng sẽ làm tối ưu hóa sức chịu đựng
đối với sự tác động của khí hậu, giữ gìn tài
nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Sông Mê-Kông: Nguồn nước của khu vực
Hệ thống sông Mê-Kông là một trong những hệ thống sông lớn thế giới và là
hệ thống sông lớn nhất Đông Nam Á. Lưu vực sông Mê-Kông là nơi sinh sống
của hơn 65 triệu người. Hộ sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên giàu có
của sông Mê-Kông. Sông Mê-Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng chảy
qua các thung lũng hẹp của tỉnh Yunnan Trung Quốc. Dòng sông chảy qua và
hình thành ranh giới tự nhiên của các nước Burma, Thái Lan, và Lào trước khi
chảy vào Cam-pu-chia. Sông Mê-Kông chảy qua vùng đồng bằng rộng lớn của
Cam-pu-chia và Nam Việt Nam trước khi chảy vào Biển Đông. Chế độ thuỷ
văn của sông Mê-Kông khá đặc biệt. Trong suốt thời gian gió mùa Tây Nam,
từ tháng Năm đến tháng Chín, sông Mê-Kông làm cho sông Tonle Sap của
Lào chảy ngược dòng, làm cho diện tích mặt nước tăng lên gấp sáu lần và thể
tích nước sông tăng lên 38 lần (Kummu và đồng sự 2008). Chế độ thủy văn
này tạo ra sức sản xuất của hệ sinh thái thuộc sông Mê-Kông và sông Tonle
Sap (Lamberts và Koponen 2008).
Sông Mê-Kông là một trong những hệ thống sông có mức độ đa dạng sinh học
vào bậc nhất trên thế giới (Cruz và đồng sự 2007).
Hệ thống sông Mê-Kông có là cơ sở cho hệ thống sản xuất thủy sản nội địa
phát triển nhất thế giới với tổng trị giá thương mại khoảng 3 tỷ USD một năm
(MRC 2009). Một nghiên cứu của IUCN, IWMI, RAMSAR và WRI (2003) cho
thấy rằng lưu vực sông Mê-Kông có mật độ loài trên đơn vị diện tích (ít nhất
là 1 300 loài) lớn hơn sông Amazon. Hệ thống sông Mê-Kông có nhiều loài cá

lớn hơn bât kỳ một hệ thống sinh thái nước ngọt nào trên thế giới. Sự đa dạng
sinh học này là cơ sở cho sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên của
người dân sống dọc theo hai bờ sông. Người dân sống dọc theo hai bờ sông
Mê-Kông sống dựa vào thủy sản làm nguồn đạm thực phẩm, vi chất dinh
dưỡng khác và là nguồn thu nhập chính cho gia đình.

Lưu vực sông Mê-Kông là một trong số 9 lưu vực sông lớn nhất thế giới và
nhạy cảm đối với sự biến đổi của khí hậu. Các tác động về mặt thủy văn trong
thế kỷ tới sẽ lớn hơn những thay đổi mà hệ thống này đã từng trãi qua do
những dao đông về thời tiết trong suốt 9000 năm qua (Aerts và đồng sự 2006).
Tác động tổng hợp của biến đổi khí hậu, các áp lực phi khí hậu, và các đáp
ứng đối với sự biển đổi khí hậu tạo ra nguy cơ đối với chính lưu vực sông và
người dân sống bên trong lưu vực này. Sự biến đổi khí hậu sẽ làm cho các
nguy cơ phi khí hậu hiện tại càng nghiêm trọng hơn. Các nguy cơ này bao gồm
việc phát triển các đập thủy điện, sự mở rộng của hệ thống thủy lợi, và sự thay
đổi dòng chảy. Các đợt bão trong mùa mưa cộng với hiện tượng nước biển
dâng và sóng do gió có thể là nguyên nhân của những đợt ngập lụt kéo dài tại
các vùng hạ lưu của lưu vực (Keskinen 2008, Penny 2008). Đồng Bằng sông
Mê-Kông được xem là khu vực đồng bằng có nguy cơ cao nhất trên thế giới
đối với sự biến đổi khí hậu (Parry và đông sự 2007, Dasgupta 2007) bởi vì hàng
triệu người dân sống ở đây sẽ chịu sự tác động và bởi vì khu vực này có tầm
quan trọng to lớn trong sản xuất gạo. Các thay đổi trong nguồn dinh dưỡng và
độ mặn của sông Mê-Kông do nước biển dâng sẽ là nguy cơ đối với các ngành
công nghiệp sản xuất lúa gạo, thủy sản và cây ăn quả (Jacobs 1996, Kakonen
2008). Hơn nữa, nếu mực nước biển dâng lên 1m, sẽ nhấn chìm 9 khu vực đa
dạng sinh học quan trọng của đồng bằng sông Mê-Kông (Hình 10, Carew-Reid
2008).


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:

RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hình 10: 1 mét mực nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến 9 khu vực quan trọng về đa dạng
sinh học của đồng bằng sông Mê-Kông

HỘP 3: VIỆT NAM SẼ CHỊU TÁC ĐỘNG NGHIÊM TRỌNG
CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Việt Nam đạt được một tốc độ tăng trưởng lớn nhất thế giới
trong những năm gần đây. Đây là một trong số ít những nước
có thể đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ cho đến
năm 2015. Tỷ lệ người đói đã được giảm từ 58% vào năm 1993
xuống còn 18% vào năm 2006. Thành tựu này cũng đang có
nguy cơ bị tác động vì Việt Nam được xem như là một trong
những quốc gia bị tác động bởi biển đổi khí hậu nhiều nhất.
Sự gia tăng dần mực nước biển, nhiệt độ cao và các hiện
tường thời tiết bất thường, ví dụ như hạn hạn, bão tố, là
những nguy cơ thường xuyên sẽ tác động đến con người và
nền kinh tế.
Nguồn: Oxfam (2008)

Nguồn: Carew-Reid 2008


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Biến đổi khí hậu sẽ làm thay đổi các hệ sinh thái thủy sinh, và làm thay đổi
sự phân bố của các loài các và ngành sản xuất thủy sản. Các đường đi của
cá, các bãi đẻ và khu vực kiếm mồi cũng sẽ bị thay đổi và hoạt động của các
cộng động dân cư làm nghề thủy sản sẽ không còn hiệu quả. Các hoạt động

khai thac thủy sản nội địa rất dễ bị tác động bởi các thay đổi trong chế độ
thủy văn và các thành phần hóa học của nước. Các yếu tố này ảnh hưởng
đến các loài thủy sinh là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp thủy sản, và
thậm chí còn “phá vỡ các tiến trình hỗ trợ … [Tonle Sap] sự đa dạng sinh
học của hồ” (Penny 2008, trang 164). Biến đổi khí hậu theo dự báo sẽ tác
động đến các hệ sinh thái thủy sinh, và làm thay dổi sự phân bố các loài cá
cũng như công nghệp thủy sản. Đường đi của cá, bãi đẻ, khu vực tìm kiếm
thức ăn sẽ thay đổi và vì vậy năng suất sản xuất thủy sản của các cộng đồng
dân sống bằng nghề thủy sản sẽ khó đảm bảo. Công nghiệp thủy sản nội địa
sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi sự thay đổi của chế độ thủy văn và các thành phần
hóa học trong nước. Là các yếu tố làm thay đổi đáng kể các loài thủy sinh là
cơ sở cho sự phát triển công nghiệp thủy sản.
Hình 11: Nhu cầu thủy sản có nguồn gốc từ nuôi trồng sẽ gia tăng, đặc biệt
là ở châu Á và châu Phi

Nguồn WB 2009 / De Silva và Soto 2009

Trong vùng và thậm chí còn “phá vỡ các tiến trình hỗ trợ … [Tonle Sap] sự
đa dạng sinh học của hồ” (Penny 2008, trang 164). Sự dự báo gia tăng các hiện
tượng thời tiết bất thường sẽ kéo theo sự gia tăng các nguy cơ đối cơi các
cộng đồng dân cư khai thác thủy sản ở các vùng duyên hải và các hệ thống
nuôi trồng thủy sản (Trung Tâm Nghề Cá Thế Giới 2008). Nhu cầu thủy sản
đối với ngành nuôi trồng thủy sản sẽ tăng lên (Hình 11), tuy nhiên, theo dự
báo, biến đổi khí hậu sẽ có tác động xấu đến các hoạt động nuôi trồng thủy
sản trên toàn thế giới. Hiện tượng mực nước biển dâng cao, các cơn bão lớn,
và sự xâm nhập mặn vào các vùng đồng bằng sẽ phá hoại ngành công nghiệp
nuôi trồng thủy sản và ngành này dựa vào nguồn giống là các loài có khoảng
chống chịu sự thay đổi độ mặn khá hẹp, ví dụ như loài catfish tại khu vực
đồng bằng sông Mê-Kông. Một cuộc khảo sát gần đây tiến hành tại 130 quốc
gia đã kết luận rằng Cam-Pu-Chia và Việt Nam là các nước chịu ảnh hưởng

lớn nhất bởi vì các quốc giá này phục thuộc rất nhiều vào thủy sản, là nơi
chịu tác động trực tiếp của biển đổi khí hậu, nhưng khả năng ứng phó lại
kém (Allison và đồng sự 2009).


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Vựa lúa của châu Á sẽ bị tác động nghiêm trọng
Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng
của khu vực Greater Mê-Kông đối với đời sống của
cộng động dân cư trong khư vực, sự an ninh lương
thực và nền kinh tế của các quốc gia (WWF 2008a).
Nông nghiệp phụ thuộc phần lớn nguồn tưới vào
nước sông Mê-Kông và các nguồn nước ngầm (ADB
2009). Gạo là sản pẩm nông nghiệp quan trọng nhất
của vùng; đất sử dụng cho trồng lúa chiếm 88% ở
Thái Lan và 94% ở Lào trong tổng diện tích đất sản
xuất dùng cho cây lương thực có hạt (Chinvanno và
đồng sự 2008). Đồng bằng sông Mê-Kông cung cấp
một nữa sản lượng gạo hàng năm của Việt Nam. Nó
cũng là nơi cung cấp 60% sản lượng tôm cá và 80%
trái cây (Warner và đồng sự 2009). Thái Lan và Việt
Nam là hai quốc gia xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới.
Năm nay, Việt Nam xuất khẩu 7 triệu tấn gạo
(Reuters 2009). Hầu hết việc sản xuất lúa phụ thuộc
vào lượng nước mưa (chứ không phải thủy lợi).
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất lúa gạo
theo nhiều cách khác nhau và ngành này được xem
là ngành rất nhạy cảm vì những ảnh hưởng đến

sinh kế của người dân, an toàn thực phẩm, nền kinh
tế, thương mại và sự ổn định (Sivakumar
và đồng sự 2005). Theo dự báo sẽ có sự thay đổi dài
hạn trong phân bố lượng mưa và sự gia tăng nhiệt
độ cùng với các hiện thượng thời tiết bất thường,
biến đổi khí hậu sẽ làm ảnh hưởng đáng kể đến việc
sản xuất nông nghiệp ở khu vực Greater Mê-Kông

Mặc dù ngập lụt hàng năm vào các
ruộng lúa vẫn được đảm bảo, lượng
ngập lụt lớn bất thường và sự khô hạn
nghiêm trọng sẽ làm cho người nông
dân mất mùa và không thể tiếp cận với
thị trường và khả năng ứng phó với
biến đổi do sự mất mát về cơ sở vật
chất (TKK & SEA START RC. 2009).
Hình 12 thể hiện bản đồ của vùng chỉ
ra các khả năng tác động của biến đổi
thời tiết trong thế kỷ này. Điều này sẽ
làm ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm
và phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng
sản xuất nông nghiệp một cách khiêm
tốn (3.6%) là có thể, tuy nhiên sẽ có sự
gia tăng khan hiếm về lương thực trong
toàn khu vực (MRC 2009). Lúa mì nhạy
cảm với sự gia tăng nhiệt độ tối đa
trong khi lúa nước nhạy cảm với sự gia
tăng của nhiệt độ tối thiểu (Sivakumar
và đồng sự 2005).


Hình 12: bản đồ khu vực biểu thị các khả năng tác động của
biến đổi khí hậu trong thế kỷ này


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

NGUY CƠ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI, CỘNG ĐỒNG VÀ CÁC NỀN KINH TẾ
Nền kinh tế khu vực Greater Mê-Kông có liên hệ
mật thiết với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và
vì vậy bất kỳ thay đổi nào cũng sẽ có những tác
động dài hạn đối với người dân trong khu vực.
Sức chịu đựng của nhiều hệ sinh thái đã bị vượt
qua trong thế kỷ này dưới tác động kết hợp của
nhiều yếu tố bắt nguồn từ biến đổi khí hậu (thí dụ
ngập lụt, hạn hán) và những thay đổi mang tính
toàn cầu khác (thay đổi về sử dụng đất, ô nhiễm
môi trường, phân mảng các hệ thống sinh thái tự
nhiên, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên),
nhiều cộng đồng người dân và ngành kinh tế,
thường nằm trong các khu vực duyên hải và các
diện tích ngập của các sông lớn có nguy cơ dưới
tác động của sự biến đổi (xem hình 13). Nông dân
phụ thuộc hoàn toàn vào nông nghiệp có nguy cơ
lớn nhất khi các hiện tượng bất thường hay trái
với qui luật mùa về thời tiết ngập lụt hay hạn hán
xảy ra, phá hoại hoàn toàn mùa màng của họ.
Theo một gia đình lao động di cư Việt Nam,
“Thiên tai xảy ra quá thường xuyên – Gia đình tôi
mất mùa, chúng tôi phải mượn tiền để sinh sống.

Bây giờ, gia đình tôi không thể trả được nợ vì vậy
tôi phải đến đây làm việc để trả nợ” (Warner và
đồng sự 2009)1

Hình 13. Mật độ dân số tại khu vực Greater Mê-Kông.
Các cộng đồng dân cư lớn sống trong các khu vực duyên
hải đất thấp và các diện tích ngập lụt làm cho vùng này
có nguy cơ cao về ngập lụt, nhiễm mặn, và mực nước
biển dâng

1 Đây là một ví dụ về một gia đình ở Việt Nam đi nơi khác để
tìm sinh kế thay thế.

Nguồn: WWF


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Các cộng đồng dân cư đô thị cũng không tránh
khỏi các tác động của biển đổi khí hậu. Tốc độ đô
thị hóa cao và sự lan rộng của các khu vực ngoại ô
làm cho tính rủi ro của các đô thị đối với các tác
động của biến đổi khí hậu càng tăng cao, ví dụ
như thành phố Băng-Cốc và Hồ Chí Minh. Khi các
thành phố lớn nới rộng khu vực ngoại ô sang các
khu đồng ruộng và đất ngập nước, khả năng trữ
nước của các cảnh quan lân cận bị mất làm cho
ngập lụt trở nên nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, các
thành phố thí dụ như Băng Cốc đang trãi qua các

nguy cơ có thể dẫn đến tác động đối với nền kinh
tế. Vào năm 2005, Băng-Cốc thải vào bầu khí
quyển lượng CO2 tương đương với Luân đôn và
nhiều hơn Tô-ron-tô. Thành phố đang phải đối
mặt với hiên tượng lũ lụt và và lún đất do việc
khai thác quá mức nguồn nước ngầm. Mỗi năm
Băng-Cốc lún 5-10 mm và 30 mm tại những vùng
xa hơn (UNEP 2009). Sự di cư và dịch chuyển vị trí
sinh sống của người dân đang xảy ra với động cơ
chính là các nguyên nhân về kinh tế, tuy nhiên
người ta cũng đã bắt đầu thấy dấu hiệu ảnh hưởng
của các yếu tố biến đổi khí hậu (Warner và đồng
sự 2009). Mặc dù số lượng người chính xác tham
gia di cư vào giữa thế kỷ là chưa thể khẳng định
chính xác, nhưng có thể nói là phạm vi và qui mô
sẽ lớn hơn bất kỳ những gì đã từng xảy ra trước
đây. Người dân sống trong các vùng đất thấp sẽ bị
ảnh hưởng nghiêm trọng và trước hết. Trong khu
vực Greater Mê-Kông, nhiều người sống dựa vào
các hệ sinh thái tự nhiên làm nguồn sống, các tác
động của biến đổi khí hậu lên các hệ sinh thái tự
nhiên sẽ trở thành động lực chính của sự di cư của
người dân

Trong vòng hai, ba thập kỷ tới (Warner và
đồng sự 2009).
Trong tương lai, tại vùng đồng bằng sông MêKông một trong số mười người tại vùng đồng
bằng sông Mê-Kông của Việt Nam sẽ phải di
cư do hiện tượng dâng cao của của mực nước
biển. (Nguồn: Warner và đồng sự 2009 trên cơ

sở Dasgupta 2007)
Bản đồ ở hình 14 cho thấy nhiều người dân
sống ở khu vực đồng bằng sông Mê-Kông
nằm trong khu vực rủi ro và một vài địa
phương chắc chắn sẽ phải di dời. Họ sẽ phải
đi đâu và khi nào thì vẫn còn chưa biết được.
Chính điều này tạo ra các mâu thuẫn xã hội
tiềm tàng và có lẽ đây cũng là mối quan tâm
toàn cầu (Campbell và đồng sự 2007, Warner
và đồng sự 2009). Các cuộc di dân qui mô lớn
cũng sẽ là nguy cơ đối với các khu vực được
dành riêng cho mục đích bảo tồn đa dạng sinh
học.
Các cuộc di dân có nguyên nhân từ biến đổi
môi trường có nguy cơ trở thành các cuộc di
dân rất lớn cả về phạm vi lẫn qui mô. Tác
động của nó đối với nền kinh tế của thế giới,
sự phát triển quốc tế, và ngân sách của các
quốc gia có thể gây ra những hậu quả đối với
hầu hết các mặt của sự an toàn và thịnh
vượng của con người, ngoài các vấn đè về
chính trị và an ninh quốc gia (Warner và đồng
sự 2009).


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Hình 14: Đồng bằng sông Mê-Kông khi mực nước biển dâng lên 1 mét (màu xanh đậm) trên bản đồ mật độ dân số (bên trái) và trên bản đồ phân
bố đất nông nghiệp (bên phải).


Nguồn: Warner và đồng sự 2009, courtesy of CARE International và CIESIN tại viện Trái đất Đại học Columbia


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

KẾT LUẬN: HÀNH ĐỘNG KHẨN CẤP
Báo cáo này mô tả bức tranh của một khu vực điểm nóng
về đa dạng sinh học với những biển đổi nghiêm trọng
trong tương lai nếu như các tác động nghiêm trọng của
biến đổi khí hậu không được khắc phục theo một
phương cách tích hợp. Các quyết định hôm nay sẽ có tác
động vĩnh viễn đối với các hệ sinh thái và các tài nguyên
phục vụ mục đích sinh kế của các cộng đồng người dân
trong vùng. Nếu không kịp thời hành động để chuẩn bị
cho sự biến đổi khí hậu ngay bây giờ thì những hậu quả
đáng tiếc nghiêm trọng sẽ xảy ra
.
“Các giải pháp đối với vấn đề về biến đổi khí hậu nên
được thực hiện trong bối cảnh về phát triển bền vững theo
phương pháp tích hợp và củng cố của các bên.” Ts
Thongloun Sisoulith, Phó thủ tướng CHND Lào, Bộ
trưởng bộ ngoại giao, trích dẫn từ Vientiane Times
24/9/09.
Các thách thức chính đối với các chính phủ khu vực
Greater Mê-Kông là đã rõ ràng: làm sao để duy trì khả
năng thích ứng của vùng khi đối mặt với các tác động
thảm khốc của biển đổi khí hậu, để duy trì sự phát triển.
Các chính phủ và người dân các quốc gia cần phải xác

định được phương cách cho sự phát triển nền kinh tế của
họ, xóa bỏ đói nghèo, và bảo tồn các loài sinh vật và các
hệ sinh thái quan trọng. Thách thức này không phải là
không giải quyết được, nhưng các giải pháp sớm và có
hiệu quả phải được tiến hành để đảm bảo các hệ sinh
thái, các sản phẩm, và các dịch vụ sinh thái làm cơ sở
cho phát triển của vùng không bị suy giảm hay tránh
được những mất mát không thể phục hồi lại được. Các
biện pháp quản lý môi trường và công tác bảo tồn cần
được nâng cao hiệu quả để tối ưu được năng lực của
vùng nhằm thích ứng, giảm thiểu các tác động không
tránh khỏi của biển đổi khí hậu.

Sự cam kết rộng rãi nhằm giải quyết vấn đề biến
đổi khí hậu cần đạt được ở qui mô vùng nhằm
đảm bảo các hoạt động tại một quốc gia nào đó
không được làm ảnh hưởng đến hoặc làm giảm đi
hiệu quả các nổ lực của các nước láng giềng. Sự
hợp tác và năng lực của tất cả mọi cấp là cần thiết
để giải vấn đề biến đổi khí hậu một cách thân thiện
cho phép thực hiện cả biện pháp thích ứng và giảm
thiểu trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và con người trong vùng. Chính phủ của các quốc
gia cần tôn trọng các chiến lược chung của vùng,
thí dụ như đầu tư cho phát triển các nguồn năng
lượng tái tạo và công nghệ sử dụng năng lượng
hiệu quả giúp các nước tránh được nguy cơ về
kinh tế và sinh thái, trong khi vẫn đảm bảo được
sự phát triển kinh tế một cách thân thiện với môi
trường. Các giá trị về môi trường không nên được

xem là các trở ngại đối với sự phát triển về kinh tế.
Chúng cần được xem là các cơ hội để chuyển đổi
sang một tương lại bền vững thật sự của vùng.
Cuối cùng, vùng cần phải chuẩn bị cho các kịch
bản trong đó tác động vượt quá sự thích nghi của
vùng. Nếu sự phát thải tiếp tục như hiện tại, không
tăng, không giảm trước năm 2020 và các biện pháp
thích ứng với biển đổi khí hậu không được thực
hiện, sự thích ứng sẽ không còn là một biện pháp
có thể được lựa chọn đối với các quốc gia, cộng
đồng, và các hệ sinh thái có nguy cơ cao. Các nhà
thương thảo cần phải nghĩ xa hơn và cần xem xét
đến sự chuẩn bị an toàn, có thể là các cơ chế về tài
chính cho những người phải di cư, các nhóm người
bị tác động nghiêm trọng, hoặc các hình thức

khác đối với những người bị tác động sâu
sắc không khắc phục được” (WWF 2008b).
Nếu không kịp thời hành động để giảm thiểu
các nguy cơ, sự đối với một tương lai tồi tệ
về kinh tế và xã hội đối với khu vực Greater
Mê-Kông và con người ở đây.


CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN

Báo cáo này kêu gọi các chính phủ và người dân trong
khu vực Greater Mê-Kông nhanh chóng hành động để
đẩy lùi các nguy cơ trong những năm tới. Tác động kết

hợp của các nguy cơ bao gồm đói nghèo, không ổn định
về tài chính, và biến đổi khí hậu cần được giải quyết
bằng các chiến lược thích ứng một cách có hiệu quả đảm
bảo được sự an toàn và tối ưu được sự khả năng chống
chịu đối với các tác động không lường trước được trong
tương lai. WWF tin tưởng rằng, các khuyến nghị dưới
đây, nếu được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ duy trì
được hoặc cải thiện được khả năng thích ứng của vùng.
THỐNG NHẤT VỀ THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU VÙNG
Nhiệm vụ đầu tiên để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu
đối với các chính phủ trong khu vực Greater Mê-Kông là
đi đến một thống nhất chung về thích ứng. Thống nhất
này có tác dụng là khung chung cho các khuyến nghị
bên dưới được triển khai thực hiện.
Sự phát triển của khu vực Greater Mê-Kông đã được trả
giá bằng sự khai thác tài nguyên thiên nhiên phong phú
của vùng. Các thành tựu đạt được về xóa đói và phát
triển kinh tế trong vùng đang bị đe dọa bởi sự biến đổi
khí hậu. Vì vậy, một cơ chế mang tính vùng làm cơ sở
cho các hoạt động chung về thích ứng với biến đổi khí
hậu là một ưu tiên đối với các chính phủ trong vùng.
Một thỏa thuận như vậy cần tập trung vào các ưu tiên
hiện tại về bảo tồn thiên nhiên và phát triển bằng cách
tích hợp các yếu tố về thích ứng với biến đổi khí hậu vào
các kế hoạch phát triển và quá trình thực thi các kế hoạch
này.
.

Thỏa thuận này sẽ là một cơ sở cho các giải pháp quản

lý công bằng liên biên giới nơi các bên liên quan cùng
chia sẽ các nguồn tài nguyên và các khu vực bảo tồn
chung. Trong trường hợp xảy ra các mâu thuẩn xuyên
biên giới, thỏa thuẩn này sẽ là cơ sở mang tính vùng
để các bên cùng thảo luận và tìm giải pháp. Thêm vào
đó, thỏa thuận này sẽ cho phép các biện pháp thích
ứng có thể được nhân lên qui mô vùng, trong đó các
biện pháp thích ứng của một quốc gia bổ sung, không
mâu thuẫn, đối với các lựa chọn biện pháp thích ứng
của các quốc gia lân cận khác. Sự hợp tác chính trị
vùng này sẽ tăng cường thêm sự tự tin của các nhà
đầu tư nhằm đảm bảo được sự an toàn về mặt tài
chính cho hoạt động thích ứng với biển đổi khí hậu,
đảm bảo các cơ chế phân bổ nguồn tài chính một cách
chặt chẽ, có hiệu quả, và công bằng.


TĂNG CƯỜNG CẤU TRÚC QUẢN LÝ VÀ ĐẢM BẢO
SỰ THAM GIA CỦA CÁC BÊN LIÊN QUAN TRONG
GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Các cấu trúc quản lý hiện tại trong khu vực Greater
Mê-Kông cần được tăng cường để đảm bảo các hoạt
động nhằm giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu sẽ
được thiết kế và quản lý một cách hiệu quả với sự phối
của các bên. Các kế hoạch thích ứng không thể thực hiện
một cách độc lập theo từng ngành. Nhiệm vụ thích ứng
với biến đổi khí hậu phải được tích hợp vào quá trình lập
kế hoạch phát triển và bảo tồn. Nếu các công việc liên
quan đến thích ứng biến đổi khí hậu không được giải
quyết một cách hợp tác thì các biện pháp tạo ra có thể chỉ

giải quyết được một vấn đề trong khi có thể làm cho vấn
đề khác trở nên không thích ứng. Sự phối hợp là cần
thiết. Cần thiết phải thiết kế các kế hoạch một cách hợp
tác nhằm đảm bảo rằng các cấu trúc quản lý có thể hỗ
trợ, thực thi và giám sát kế hoạch. Hơn nữa, việc lập kế
hoạch giải quyết các vấn đề biển đổi khí hậu, cả thích
ứng và giảm thiểu, cần đến sự hiểu biết của các nhà lãnh
đạo và các nhà triển khai hiện tại và trong tương lai. Các
cơ chế phải được tạo ra nhằm tạo điều kiện cho các đào
tạo xây dựng năng lực về biến đổi khí hậu cùng với tiến
trình quyết định làm sao có thể tích hợp các giải pháp về
biến đổi khí hậu vào trong tất cả các bước và các cấp của
quá trình lập kế hoạch. Sự phối hợp giữa các biên liên
trong quản lý các hoạt động giải quyết vấn đề về biến
đổi khí hậu là rất quan. Nhiều nhà hoạt động đã bắt đầu
tham gia vào tiến trình tìm giải pháp giải quyết vấn đề
biến đổi khí hậu trong vùng. Các hoạt động của họ bao
gồm các nghiên cứu, các hoạt động nhằm đến quá trình
thích ứng hay giảm thiểu tác động của biển đổi khí hậu,
các nghiên cứu thí điểm, xây dựng năng lực và nhiều
hoạt động khác.

CÁC QUỐC GIA VÙNG CHÂU THỔ SÔNG MÊ KONG VÀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
RỦI RO CHO ĐA DẠNG SINH HỌC, DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN
Sáng kiến về biến đổi khí hậu ủy ban sông MêSử dụng một tiến trình gồm nhiều bên tham gia,
qua nhiều cấp quyết định với sự tham gia của cộng Kông, mạng lưới quản lý M-POWER, Trung
tâm Đông Nam Á về phân tích, nghiên cứu và
đồng người dân địa phương trong qua trình ra
đào tạo về hệ thống biển đổi toàn cầu (SEA
quyết định có thể đảm bảo được tính hiệu quả của

START RC), Viện DRAGON, và nhiều cơ quan
các giải pháp cho các hệ thống xã hội và sinh thái
trong khu vực Greater Mê-Kông. Kiến thức bản địa khác. Các diễn đàn kiến thức này có thể giúp
cho các nhà quản lý tài nguyên cải thiện các hệ
sẽ giúp tạo ra sự đổi mới và tính hiệu quả cho các
thống giám sát của họ góp phần làm cho quá
chiến lược thích ứng và giảm được tác động của
trình hiểu biết về biến đổi khí hậu tại vùng
các yếu tố địa phương lên các hệ sinh thái duyên
Greater Mê-Kông ngày một chính xác hơn.
hải, nước ngọt và các hệ sinh thái trên đất làm cho
chúng có đủ khả năng tồn tại trong điều kiện tác
động của biến đổi khí hậu. Các chính phủ của các
quốc gia trong vùng cùng với các nhà tài trợ, các tổ
chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế khác cần
phải cùng nhau xây dựng một tiến trình hợp tác
các bên liên quan và chia sẽ thông tin.
HÀNH ĐỘNG NGAY BÂY GIỜ ĐỂ TẬN DỤNG
KIẾN THỨC BẢN ĐỊA ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC
VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Đã có nhiều báo cáo và tài liệu góp phần tăng thêm
thêm sự hiểu biết về biến đổi khí hậu trong khu
vực Greater Mê-Kông. Các tài liệu này dù không
thể khẳng định là hoàn chỉnh, kiến thức về vấn đề
biển đối khí hậu trong khu vực này đã khá nhiều.
Các thông tin này sẽ là cơ sở cho các hoạt động giải
quyết vấn đề biến đổi khí hậu trong khu vực, cùng
với việc cải thiện các cấu trúc quản lý nhằm xây
dựng khung quản lý thích ứng với biến đổi khí hậu
cho phép tích hợp các thay đổi khi kiến thức mới

được cập nhật. Ngoài các cấu trúc quản lý, có rất
nhiều các sáng kiến cấp quốc gia và vùng để thảo
luận về các kiến thức hiện có và kiến thức mới như
các nền kiến thức của UNEP/SENSA/SEI về biến
đổi khí hậu,


×