Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Phát triển năng lực tổ chức hợp tác trong dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài ở trung tâm GDTX tỉnh…

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.3 KB, 143 trang )

Tên đề tài: : PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỔ CHỨC HỢP TÁC TRONG DẠY
HỌC TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ" CỦA TÔ HOÀI Ở TRUNG
TÂM GDTX TỈNH…..

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 29NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI cũng xác định: “Đối với giáo dục
phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực
công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng,
truyền thống, đạo đức, lối sống, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến
thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập
suốt đời”. Và để thực hiện những yêu cầu trên, toàn ngành Giáo dục – Đào tạo
cần: “Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học,
các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người
học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy
cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và
đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong dạy và học”.


1.2. Dạy học hợp tác là kiểu dạy học bám sát với đặc trưng bộ môn phát
huy được tính chủ động tích cực của người học. Nó đem lại hiệu quả làm việc
tốt hơn so với cách dạy thông thường; đặc biệt với bài học đòi hỏi kỹ năng, sự
đánh giá, kinh nghiệm phức tạp. Nhóm hợp tác là cách tốt hơn để khai thác năng


lực cá nhân vừa làm tăng sự gắn kết các thành viên trong nhóm với nhau. Không
có biện pháp nào tốt hơn là HS được hợp tác, được học tập trong hoạt động
và bằng hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo. Nó còn là cơ hội rèn luyện kỹ
năng mềm cho sinh viên để sau này các em có thể mang theo hành trang ấy tự
tin bước vào đời. Do đó, mỗi HS cần trang bị ngay từ khi đang theo học trong
nhà trường cách học hợp tác để có thể sống và làm việc trong các tổ chức một
cách tích cực. Đồng thời, GV cũng phải biết hướng dẫn HS học tập theo phương
pháp mới này.
1.3. Ở bậc THPT, dạy học hợp tác gần đây đã được đưa vào giảng dạy như
một phương pháp hiện đại, góp phần đổi mới dạy học Ngữ văn.
Tác phẩm văn học bao giờ cũng tồn tại trong đối thoại. Tận dụng đối thoại là
đi đúng bản chất của vấn đề dạy học hiện đại. Mà thực hiện hoạt động đối
thoại thì không gì tốt bằng tổ chức hoạt động hợp tác. Qua đó HS được nói
tiếng nói của cá nhân, được thể hiện suy nghĩ của bản thân. Đồng thời, văn
chương cũng được gắn hơn với cuộc sống và tính thiết thực của văn chương
cũng được thể hiện một cách rõ nét hơn.
1.4. Nhà văn Tô Hoài được đánh giá là cây bút văn xuôi tiêu biểu của đất
nước ta, đặc biệt trong thời kỳ văn học kháng chiến chống Pháp. Những năm
trước cách mạng, đề tài của Tô Hoài tập trung vào đời sống người lao động ven
đô và đề tài thiếu nhi. Trong đó có cuốn sách “bất tử” Dế mèn phiêu lưu ký.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Tô Hoài cho ra đời khối lượng
tác phẩm đồ sộ với những O Chuột; Vợ chồng A Phủ; Mường Giơn giải
phóng…Nhưng đến giai đoạn đổi mới, Tô Hoài cho ra mắt bạn đọc ba tác phẩm


rất xuất sắc: Cát bụi chân ai; Chiều chiều; Ba người khác. Ông được nhà nước
Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1
(1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu
ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào
lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn

Thụ. Trong hơn 60 năm viết, ông thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm
nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Vì thế ông đã để lại nhiều tác
phẩm viết về vùng Tây Bắc vô cùng đặc sắc. Nó như cái chất yêu đời, yêu người
của ông nhưng lại cũng vì yêu cầu của công chúng, của cách mạng.
1.5. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được đưa vào giảng dạy ở
chương trình Ngữ văn lớp 12 là tác phẩm độc đáo về nội dung và nghệ thuật,
tiêu biểu cho phong cách nhà văn Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện
ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay
sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội
Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài
nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh
chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo
miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca
về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là
hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ.
1.6. Đối tượng học viên ở trung tâm GDTX tỉnh …..rất đa dạng: tỉ lệ
học viên là dân tộc miền núi chiếm đa số (dân tộc Thái, H.Mông, Kinh), độ
tuổi không đồng đều, trình độ nhận thức của nhiều em còn hạn chế. Các giờ
học văn hầu như mang tính thụ động. Do vậy, cần phải có một phương pháp
dạy học tích cực nhằm thay đổi thực trạng này. Dạy học hợp tác là một giải
pháp khả thi trong số đó.


Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học
“Phát triển năng lực tổ chức hợp tác trong dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài ở trung tâm GDTX tỉnh…” nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy và góp phần thêm vào công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo theo Nghị Quyết số 29 – NQ/TW.
2. Lịch sử vấn đề
Vận dụng hình thức dạy học hợp tác vào giờ dạy học Ngữ văn là một vấn

đề đã được nhiều người nghiên cứu.
Các tác giả: Phan Trọng Luận, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt,
Nguyễn Duy Bình cũng đề cập đến hình thức này. Các tác giả đều có điểm
chung là nhìn nhận hợp tác “công cụ xúc tác” để hỗ trợ cho việc dạy học. Nhưng
các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ khám phá một loại hình thức dạy học mới
nhằm phát huy vai trò của HS mà thôi.
Giáo trình giảng dạy “Giáo dục 2”, thạc sĩ Nguyễn Thị Cúc có đề cập đến
hình thức hợp tác nhưng sự trình bày của thạc sĩ lại khá khái quát: nêu định
nghĩa, chỉ ra các loại nhóm, những chú ý khi thực hiện các loại nhóm. Cho nên
người đọc chưa thể hình dung một cách cụ thể về hình thức này. Tuy nhiên, thạc
sĩ cũng chỉ ra được những tác dụng tích cực khi sử dụng nó: phát huy vai trò tích
cực của HS, giúp HS chủ động trong học tập.
Ông Đồng Xuân Quế thì nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn: tác giả đi sâu
phân tích từng khía cạnh của vấn đề, chỉ ra tác dụng và vai trò của hình thức
này; đồng thời ông còn đưa ra những trường hợp sử dụng hợp tác khi dạy học.
Ông Nguyễn Trọng Sửu có sự nhìn nhận về hình thức hợp tác như: tác giả
cũng trình bày khá rõ, nhiều chỗ tác giả còn phân tích, bình giá vấn đề thật rõ.
Bài viết có giá trị vận dụng rất cao, đặc biệt là tác giả còn chỉ ra được những
nhược điểm của hình thức này: “dạy học nhóm đòi hỏi nhiều thời gian. 45 phút
của một tiết học cũng là một trở ngại trên con đường thành công cho công việc


nhóm… Nếu tổ chức và thực hiện kém, nó thường dẫn đến kết quả ngược lại với
những dự định sẽ đạt. Bên cạnh đó, trong các nhóm chưa được luyện tập sẽ dễ
gây ra hỗn loạn…”[17; 22]
Các tác giả: Hoàng Thảo Nguyên, Trịnh Xuân Vũ, Lê Thị Xuân Liên nhìn
nhận hình thức này trên phương diện lý luận học, các tác giả chưa đưa ra một
cách cụ thể về hình thức hợp tác.
Tóm lại, trong những năm gần đây, mặc dù đã có một số công trình
nghiên cứu về hoạt động hợp tác trong dạy học nhưng chưa có công trình nào

nghiên cứu một cách cụ thể về hoạt động hợp tác trong dạy học tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ”
Thứ hai, chúng ta xét về việc nghiên cứu tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
Tác phẩm được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 12, vì thế có rất nhiều bài
viết, sách nghiên cứu nói về nó song chỉ dừng lại ở bài viết dành cho học sinh
với kiến thức cơ bản. Việc nghiên cứu chuyên sâu đa số đan lồng vào việc nhận
định cả về sự nghiệp và phong cách sáng tác của Tô Hoài. Người đầu tiên
nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại, khi giới thiệu về Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đã có
những đánh giá rất thiết thực và ý nghĩa về phong cách viết tiểu thuyết của Tô
Hoài. Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công trình
nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng không ngừng gia tăng. Những nhà phê
bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như: Phong Lê, Nguyễn Đăng
Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh, Nguyễn Văn Long, Vương Trí
Nhàn, Trần Hữu Tá, Nguyễn Đăng Điệp… đã có những đánh giá thật tinh tế
khách quan về các tác phẩm và văn chương của ông.
Có thể nói, nhìn chung, các tác giả nói trên đã chỉ ra những nghiên cứu rõ
ràng , cụ thể về hoạt động hợp tác trong dạy học. Trong đó có cả nghiên cứu
chung về phương pháp này và cả nghiên cứu riêng về cách dạy này trong một
bài học, một tác giả, tác phẩm cụ thể. Bên cạnh đó, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”


cũng như tác giả Tô Hoài cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới. Tuy
nhiên, hầu hết những công trình này vẫn nghiêng về truyền đạt kiến thức như thế
nào cho tốt. Còn phát triển năng lực tổ chức hợp tác trong dạy học truyện ngắn
này thì chưa có. Nhất là ở miền núi hay ở Trung tâm GDTX tỉnh ….. thì càng
vắng. Do vậy, chúng tôi muốn hoàn thành luận văn như góp thêm một sáng kiến
giúp nâng cao chất lượng dạy Ngữ văn ở trung tâm GDTX tỉnh ….và để tìm
hiểu sâu hơn về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học hợp tác
cho HS trung tâm GDTX tỉnh……..
- Phải tìm hiểu về thi pháp truyện ngắn kháng chiến của Tô Hoài trong
tương quan với các nhà văn cùng thời. Phát hiện và phát triển năng lực so sánh
và liên tưởng tưởng tượng theo chiều ngang và chiều dọc trong tiếp nhận truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” với các đối tượng học viên đặc biệt ở trung tâm GDTX
tỉnh ….
- Tìm ra những biện pháp thích hợp và tiến hành thực nghiệm trong việc
tổ chức hợp tác khi dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” ở trung tâm GDTX
tỉnh …..
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp nghiên
cứu sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Sưu tầm, đọc, tra cứu, nghiên cứu tài liệu, sách báo có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu, phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu của
đề tài.


4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4.2 1. Phương pháp quan sát
Theo dõi quá trình học tập trên lớp, ngoài giờ lên lớp, đặc biệt là theo dõi
các buổi học tập và thảo luận nhóm của sinh viên nhằm đánh giá thực trạng,
tìm nguyên nhân và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả học tập nhóm của
sinh viên.
4.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Tiến hành xây dựng phiếu hỏi dành cho đối tượng là sinh viên nhằm thu
thập những thông tin cần thiết phục vụ cho cho việc phân tích và đánh giá thực
trạng học tập theo nhóm trong sinh viên
4.2.3. Phương pháp chuyên gia

Xin ý kiến các chuyên gia để xây dựng công cụ điều tra và khẳng định giá
trị của các giải pháp nâng cao hiệu quả học tập nhóm trong sinh viên.
4.2.4. Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích thực trạng vấn đề
nghiên cứu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển năng lực tổ chức hợp tác trong dạy học truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài ở trung tâm GDTX tỉnh…
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: biện pháp phát triển năng lực tổ chức hợp tác
trong dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài ở trung tâm
GDTX tỉnh…”


- Địa điểm: Trung tâm GDTX tỉnh…..
- Thời gian nghiên cứu: tháng 12/2014 đến tháng 4/2015
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kiến nghị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Biện pháp tổ chức hoạt động hợp tác trong dạy học
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Hoạt động hợp tác trong giáo dục
1.1.1.1. Cơ sở khoa học của hoạt động hợp tác
a. Quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm

Quan điểm dạy học lấy HS làm trung tâm là cơ sở khoa học đầu tiên

của

hoạt động hợp tác. Tư tưởng dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một tư
tưởng giáo dục hiện đại và mang tính nhân văn sâu sắc. Để thực hiện được tư
tưởng này, cần tiến hành kiên trì và có kế hoạch lâu dài nhằm đưa việc đổi mới
phương pháp dạy học trong nhà trường nước ta tiến lên một cách vững chắc và
có hiệu quả.


Dạy học truyền thống và dạy học đổi mới theo tư tưởng lấy học sinh làm
trung tâm có những điểm khác nhau dưới đây:

DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG

DẠY HỌC ĐỔI MỚI

- Trong quá trình dạy học,

- Phần thảo luận của học sinh

giáo viên nói nhiều hơn học

tương đương, thậm chí nhiều hơn

sinh.

phần giảng của thầy giáo.


- Giảng dạy chủ yếu bằng

- Các hoạt động học tập được cá

cách giáo viên thuyết trình cho

nhân tiến hành hoặc được thực

cả lớp.

hiện trong các nhóm nhỏ.

- Sách giáo khoa là tài liệu

- Sử dụng nhiều loại tài liệu

học tập chủ yếu.

trong dạy học và cho phép học

- Giáo viên quyết định quy
trình dạy học.

sinh sử dụng các tài liệu này một
cách độc lập hay theo nhóm.

- Học sinh đưa ra ý kiến của cá
nhân, của nhóm về bài học thông
qua sự hướng dẫn của giáo viên.


- Bàn ghế trong lớp được sắp
- Bàn ghế được sắp xếp hướng

xếp sao cho học sinh có thể hoạt
động độc lập hoặc nhóm được


về

thuận lợi.

bảng và giáo viên.

- Học sinh có thể đi lại khi đang

- Học sinh không được tự do

học trong trường hợp cần thiết.

di chuyển chỗ ngồi.

b. Dạy học bằng hoạt động và qua hoạt động
Cở sở khoa học thứ hai là tư tưởng: Dạy học bằng hoạt động và qua hoạt
động. Tư tưởng này được thể hiện trong nguyên lí giáo dục được quán xuyến
trên toàn bộ các nền giáo dục và xuyên suốt trong hệ thống giáo dục của nước
ta. Nguyên lí ấy được ghi rõ trong luật giáo dục: “Hoạt động giáo dục phải được
thực hiện theo nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội” (Luật Giáo dục 2005, điều 3) []. Theo nguyên lí này,
hoạt động học phải có hoạt động cụ thể, có phần áp dụng thực tế, vận dụng

những điều đã học vào giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Học sinh tiếp
thu bài học không chỉ qua việc nghe giảng mà còn qua hoạt động thực tế. Cần
coi hoạt động của học sinh là trung tâm của quá trình học. Trong quá trình học
tập “hành” có tính chất toàn diện với mức độ khác nhau. Đó là sự vận dụng
những hiểu biết để giải quyết bài tập , thực hành trong phòng thí nghiệm, ở vườn
trường, thảo luận, trao đổi bài học,… Dựa vào thực tế của trường và các mối
quan hệ với gia đình, và cộng đồng xã hội mà chúng ta xác định nội dung nào sẽ
được tổ chức phối hợp. Hoạt động này không những nâng cao hiệu quả giảng
dạy mà còn có ý nghĩa trong cuộc sống nhằm nâng cao ý thức, thái độ và kỹ
năng sống cho học sinh.


1.1.1.2. Hoạt động hợp tác
a. Khái niệm:
Hợp tác nghĩa là tất cả mọi người cùng hợp sức để tìm ra cách giải quyết
vấn đề chung một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất; cùng nhau chia sẻ các ý
tưởng và đem lợi thế của từng cá nhân nhằm phục vụ cho mục đích chung của
nhóm với trách nhiệm tập thể và sự hợp tác qua lại giữa các thành viên. Hoạt
động hợp tác có thể hình thành trong quá trình học tập và rèn luyện. Nó cần có
những năng lực để hoàn thành mục tiêu chung của một tập hợp người một cách
hiệu quả nhất.
Còn trong giáo trình “Tổ chức hoạt động hợp tác trong dạy học Ngữ văn”
- (Nguyễn Thị Hồng Nam - Cần Thơ - 2002), tác giả cho rằng hình thức học tập
hợp tác “yêu cầu sự tham gia, đóng góp trực tiếp của học sinh vào quá trình học
tập, đồng thời yêu cầu HS phải làm việc cùng nhau để đạt được kết quả học
tập chung. Trong quá trình hợp tác, mỗi cá nhân tìm thấy lợi ích cho chính
mình và cho tất cả các thành viên trong nhóm” [tr1]. Và trong quá trình hợp
tác, học sinh học bằng cách làm chứ không phải bằng cách nghe giáo viên
giảng. Trong hình thức học hợp tác này, việc tổ chức cho HS thảo luận nhóm
đóng vai trò then chốt. Nếu mức độ tham gia thảo luận của HS càng lớn thì

hiệu quả học tập càng cao. HS sẽ trở thành nhân vật trung tâm của giờ học.
b. Đặc điểm của hoạt động hợp tác
 Có một mục tiêu chung rõ ràng và thuyết phục:
- Các mục tiêu cụ thể của nhóm phải rõ ràng, mang tính thử thách, được thông
qua bởi các thành viên và không xa rời mục đích chung.
- Vai trò của từng cá nhân phải cụ thể, để mọi thành viên đều hiểu được mối
quan hệ giữa cá nhân họ và các mục tiêu của nhóm.


 Có quan hệ giao tiếp tốt
- Các thành viên trong nhóm tích cực lắng nghe nhau để thấu hiểu sự việc thay
vì phán xét nhau.
- Những ý kiến chân thành, thể hiện sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên
giúp cho mỗi cá nhân nhận ra đâu là thế mạnh và đâu là điểm yếu cần phải khắc
phục của mình.
 Nhóm có sự linh hoạt
- Các thành viên tự nguyện chia sẻ trách nhiệm trong việc phát triển và lãnh đạo
nhóm.
- Cả nhóm hoàn toàn có khả năng đương đầu với mọi thử thách.
- Nhóm sẵn sàng tìm kiếm những phương pháp làm việc khác nhau và điều
chỉnh cho thích ứng với mọi thay đổi.
 Năng suất làm viêc tối ưu
- Nhóm đáp ứng được những tiêu chuẩn cao về năng suất và chất lượng.
- Nhóm luôn học hỏi từ những thất bại và hướng đến sự tiến bộ liên tục.
- Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định được sử dụng hiệu quả để nhóm có
thể vượt qua các khó khăn và phát huy tính sáng tạo.
 Có sự công nhận và trân trọng thành quả đạt được
- Mọi thành quả của nhóm hay của thành viên trong nhóm đều được trưởng
nhóm và các thành viên ghi nhận.
- Các thành viên của nhóm luôn ý thức gắn liền thành quả cá nhân với nhiệm vụ

chung của cả nhóm.
- Sự đóng góp của cả nhóm được đánh giá và ghi nhận bởi các cấp lớn hơn.


 Có tinh thần nhiệt huyết trong công việc
- Mỗi thành viên luôn tự tin và hăng hái trước những nỗ lực của nhóm và quyết
tâm đạt được mục tiêu.
- Mọi người trong nhóm luôn tin tưởng và hỗ trợ lẫn nhau.
- Các thành viên phát huy tốt mối quan hệ hỗ trợ và quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau.
 Có một trưởng nhóm có năng lực
- Trưởng nhóm là người định hướng cho nhóm đó hoạt động và đạt được mục
đích. Trưởng nhóm có năng lực sẽ giúp nhóm hoạt động hiệu quả và đạt được
các mục đích.
c. Cấu trúc của hoạt động hợp tác
Hoạt động hợp tác này có cấu trúc tương tự như mọi hoạt động khác song
phần hoạt động của học sinh là trung tâm và quan trọng nhất. Tất cả các yếu tố,
hoạt động khác phải hướng tới hoạt động này. Thường cấu trúc của hoạt động
hợp tác bao gồm nhiều thành tố như : mục đích và nhiệm vụ bài tập, nội dung
bài tập, phương thức thực hiện: giáo viên hướng dẫn, học sinh học tập và giúp
đỡ lẫn nhau trong quá trình thực hiện bài tập do giáo viên đề ra.
Mục đích và nhiệm vụ bài tập là những yêu cầu cần đạt được về kiến thức
và kĩ năng sau khi hoàn thành nhiệm vụ học tập. Thường với hoạt động học tập
hợp tác, ngoài yêu cầu đạt chuẩn kiến thức, học sinh còn phải tăng cường thêm
kĩ năng làm việc nhóm, tăng cường tinh thần đoàn kết. Phần mục đích này được
thể hiện rõ trong giáo án của giáo viên.
Tiếp theo là nội dung bài tập. Nó có sự gắn bó chặt với kiến thức đang
được học. Với hoạt động hợp tác, nội dung nên có sự phân chia cụ thể cho từng
nhóm trong lớp, chứ không nên chung chung cho cả lớp.



Đi kèm là phương thức thực hiện. Đây chính là phần quan trọng giúp thay
đổi cách dạy học văn. Thay vì chỉ đưa ra các phương pháp cũ, GV cần đưa ra
phương pháp thảo luận nhóm, biến giờ học thành nơi cho HS trao đổi. Nó giúp
người học tiếp thu được một nội dung tri thức thông qua quá trình chủ động tìm
hiểu, khám phá tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, giúp học sinh phát
triển được một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng tổ
chức, lãnh đạo, kỹ năng tri thức mà người học phải nắm được trong quá trình
dạy học. Những tri thức này thường được giáo viên xác định từ trước.
Trong quá trình thực hiện học tập hợp tác, người thầy có chức năng điều
khiển, tổ chức quá trình làm việc nhóm của học sinh. Giáo viên cũng là người có
vai trò tổng kết, đánh giá kết quả làm việc của học sinh. Người học trong quá
trình học tập hợp tác có điều kiện tốt để phát huy tính chủ động tích cực, độc lập
sáng tạo, khả năng phối kết hợp với các thành viên khác.
d. Hiệu quả của hoạt động hợp tác
Hoạt động hợp tác có vai trò quan trọng và ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình học tập cũng như sư phát triển của mỗi cá nhân. Sự cần thiết của làm việc
theo nhóm thể hiện rõ trong hai khía cạnh: công việc sẽ được thực hiện tốt hơn
và hiệu quả hơn khi được thực hiện trong nhóm; sản phẩm được làm ra là rất
phức tạp và đòi hỏi nhiều kỹ năng và kiến thức chuyên môn khác nhau. Cụ thể:
- Nó góp phần xây dựng tinh thần đồng đội. Tạo cơ hội để giúp nhau hoàn
thành các nhiệm vụ, cải thiện mối quan hệ trong nhóm và tăng cường sự tôn
trọng dành cho nhau.
- Đáp ứng nhu cầu học tập cá nhân, khuyến khích tính độc lập tự chủ trong
học tập. Quá trình trao đổi nhóm trong hợp tác nhóm đã làm tăng khả năng
khám phá và phát triển các thao tác tư duy trong quá trình nhận thức ở mức độ
cao. Trong phương pháp học hợp tác nhóm, luôn luôn nảy sinh những yếu tố


sau: mâu thuẫn giữa các tư tưởng, quan điểm, đưa ra kết luận, cơ sở lí luận và
những thông tin tiếp nhận được của các thành viên trong nhóm. Sự trao đổi

giữa các thành viên trong học tập hợp tác nhóm sẽ tạo điều kiện cho các
thông tin xuất hiện nhiều lần, được nói ra, được giải thích, được tích hợp và
được cung cấp hợp tác. Những thông tin được nhắc đi nhắc lại nhiều lần sẽ
được lưu giữ trong trí nhớ lâu dài.
- Giúp phát triển tư duy độc lập và trao đổi lẫn nhau trong nhóm bởi các
thành viên được đưa ra quan điểm riêng của mình về chủ đề thảo luận. Tăng
cường khả năng tư duy phê phán vì HS phải nắm bắt, kiểm tra, đánh giá
thông tin một cách hợp lí, áp dụng chúng một cách phù hợp và sáng tạo. Học
hợp tác nâng cao khả năng tần số thực hành các thao tác tư duy cao hơn nhiều
so với các phương pháp khác.
- Tăng cường khả năng hòa nhập, tinh thần học hỏi, hợp tác, sự lắng nghe
cũng như khả năng phản biện thông qua phần trình bày của mình và phản hồi
của thành viên khác.
- Giúp phát triển các kỹ năng khác như: kỹ năng thuyết trình trước đám
đông, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức các buổi họp,... ; tạo tiền đề cho làm
việc trong môi trường tập thể đạt hiệu quả.
- Phát huy được tính sáng tạo cao từ sự phối hợp các bộ óc sáng tạo của
nhóm.
- Giúp cho bản thân hoàn thành nhiệm vụ nhanh hơn và hiệu quả hơn so
với việc giải quyết nhiệm vụ một mình.
Có thể nói, việc thể hiện được khả năng hợp tác theo nhóm là vấn đề rất
quan trọng. HS s ẽ đ ư ợ c cùng nhau làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
giải quyết các bài tập hiệu quả hơn. Từ đó, tìm hiểu và chiếm lĩnh một cách


vững vàng tri thức, hoàn thiện khả năng bản thân, đáp ứng tốt những yêu cầu
của công việc.
1.1.1.3. Quy trình tổ chức hoạt động dạy học hợp tác
a. Chuẩn bị:
a1. Mục đích hợp tác nhóm:

Trong khi soạn giáo án phục vụ cho bài dạy, giáo viên cần xác định rõ mục
tiêu về tri thức, kĩ năng và thái độ được xác định ở mức độ vừa phải đối với
học sinh, đồng thời phù hợp với yêu cầu chung của bài học.
Điểm khác trong thiết kế giáo án có hoạt động hợp tác là bên cạnh mục
đích chung ở trên, GV cần xác định thêm mục tiêu về kĩ năng hợp tác được thể
hiện bằng các kĩ năng hợp tác cụ thể và yêu cầu học sinh tiến hành trong quá
trình học bài đó. Hoạt động này thường để áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố
một chủ đề đã học hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới tương đối hóc búa.
Cần chú ý thêm: chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân
để hoàn thành nhiệm vụ nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn hoạt động động cá nhân
thì mới nên sử dụng phương pháp này. Vì thế, không phải tiết học nào, nội dung
kiến thức nào, GV cũng cho hoạt động hợp tác vào. Trong tiết dạy học hợp tác,
không phải giáo viên dành toàn bộ giờ học cho việc thảo luận nhóm mà chỉ
thảo luận những vấn đề phức tạp, trọng tâm, lí thú… Cần lựa kiến thức, thời
gian phù hợp với học sinh. Để kiểm tra sự phù hợp này, GV có thể trả lời các
câu hỏi dùng cho việc chuẩn bị dạy học nhóm như sau:
- Chủ đề có hợp với dạy học nhóm không?
- Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống hay khác nhau?
- HS đã có đủ kiến thức điều kiện cho công việc nhóm chưa?
- Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm như thế nào?


- Cần chia nhóm theo tiêu chí nào?
- Cần tổ chức phòng làm việc, kê bàn ghế như thế nào?
a2. Thiết kế bài tập thảo luận
Với hoạt động hợp tác, bài tập v ừ a nối kết các quan hệ HS - HS; GV HS vừa là định hướng, vừa là công cụ giúp HS tự tìm hiểu khám phá, vận
dụng kiến thức, kĩ năng đúng hướng, đúng cách. Bài tập đóng vai trò là khởi
nguồn cho hoạt động của nhóm và là yếu tố hàng đầu quyết định đến hiệu quả
của giờ dạy học theo hình thức thảo luận nhóm.
Khi thiết kế bài tập thảo luận, GV phải đầu tư đ ể b ài tập thiết kế phải

đạt được các yêu cầu:
- Vấn đề nêu trong bài tập nên thú vị, ẩn chứa những thách thức đối với
HS, buộc HS phải tư duy và cùng nhau hợp tác để tìm tòi cách giải quyết. Chỉ
khi bài tập có tính chất thách thức đối với HS, một HS không thể hoàn
thành được thì mới có thể buộc HS hợp tác, giúp HS có nhiều cơ hội học tập,
mở rộng tầm nhìn, hiểu kiến thức sâu sắc và có khả năng vận dụng tri thức linh
hoạt. Có như vậy mới phát huy được tối đa năng lực, trí tuệ và khả năng sáng
tạo của HS và giúp HS hiểu vấn đề được sâu sắc.
Nếu GV ra các bài tập, vấn đề có sẵn câu trả lời trong SGK thì việc tổ
chức thảo luận nhóm thất bại. HS không cần suy nghĩ, h ợ p t á c thì không
thể phát huy được năng lực trí tuệ của HS.
- Tuy nhiên, độ khó của bài tập không nên vượt quá tầm trình độ của HS.
Để giúp HS thuận tiện trong việc tiến hành thảo luận theo đúng định hướng
của GV, tránh được những băn khoăn không cần thiết; các câu hỏi giao cho HS
thảo luận phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để HS nắm được yêu cầu của bài tập
trước khi thảo luận.


- Để kết quả của thảo luận nhóm thực sự có ý nghĩa, b ài tập thảo luận
nhóm phải bàn về những vấn đề trọng tâm và phải có tính hệ thống trong mối
quan hệ gắn bó với nội dung của bài học.
a3. Xác định loại hình nhóm hợp tác
Ngay trong thiết kế giáo án của GV, GV đã phải hình dung trước nhóm
hợp tác của HS. Nhóm phải phù hợp với số học sinh, nội udng bài học, thời
gian,…
Có t h ể s ử d ụ n g c á c loại nhóm cơ bản sau: đó là nhóm cố định và
nhóm không cố định.
- Nhóm cố định là loại hình gồm những HS được chia nhóm cố định trong
khoảng thời gian từ một tuần đến vài tuần lễ để cùng nhau hoàn thành một bài
tập lớn, phức tạp.

- Nhóm không cố định là loại hình nhóm gồm những học sinh cùng
nhau làm việc từ vài phút đến một tiết học để giải quyết một vấn đề không quá
phức tạp. Nó có các loại nhóm nhỏ sau: 2 HS, 4-5 HS, ghép nhóm hai lần, kim
tự tháp và hoạt động trà trộn.
+ Nhóm 2 học sinh: Đây là hình thức HS trao đổi với bạn ngồi kế bên để
giải quyết tình huống do GV nêu ra.
+ Nhóm 4 - 5 HS: GV chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm gồm 4-5
HS và thảo luận các bài tập, câu hỏi, tình huống do GV nêu ra.
+ Ghép nhóm hai lần: Trong hình thức ghép nhóm hai lần, số thành viên
trong nhóm bằng số vấn đề cần giải quyết cùng lúc. Việc tổ chức các thành
viên trong nhóm có tính chất lưu động. Trong lần đầu, mỗi nhóm có nhiệm
vụ giải quyết các vấn đề khác nhau của một bài học, mỗi thành viên trong
nhóm phải ghi chép. Sau khi giải quyết xong vấn đề, tất cả các thành viên


trong nhóm được tách ra để thành lập nhóm mới. Các thành viên này trở
thành đại sứ cho nhóm của mình trong nhóm mới, họ phải thông báo nhiệm vụ
và cách giải quyết nhiệm vụ của nhóm mình cho nhóm mới. Hình thức ghép
nhóm có ưu điểm rất lớn là việc báo cáo công việc của các nhóm sẽ do tất cả
các thành viên trong nhóm đảm nhận chứ không phải chỉ do một HS khá, giỏi
đảm nhận. Cách học này góp phần làm tăng sự tự tin cho các thành viên
trong nhóm.
+ Nhóm kim tự tháp: Đây là cách tổ chức ý kiến của tập thể lớp học về một
vấn đề của bài học. Hoạt động theo hình thức này, HS sẽ ghép nhóm nhiều lần.
Đầu tiên, GV nêu lên một vấn đề cho các HS làm việc độc lập, sau đó, ghép 2
HS lại thành một cặp để các HS chia sẻ các ý kiến của mình. Kế đến, các
cặp sẽ kết hợp lại thành nhóm 4 người, tiếp tục trao đổi ý kiến. Các nhóm 4
thành viên sẽ họp lại thành các nhóm 8, nhóm 16... thành viên. Cuối cùng,
cả lớp sẽ có một bảng tổng kết các ý kiến hoặc một giải pháp tốt nhất để giải
quyết một vấn đề. Kiểu nhóm kim tự tháp rất phù hợp với các giờ ôn tập khi

HS cần phải nhớ các định nghĩa, khái niệm, công thức,… đã học trong một
chương.
+ Nhóm hoạt động trà trộn: Trong hình thức này, tất cả các HS trong lớp
phải đứng dậy và di chuyển trong lớp để thu thập thông tin từ các thành viên
khác, giống như các khách mời trong một buổi tiệc đứng gặp gỡ, tiếp xúc với
nhau. Sự di chuyển khỏi chỗ ngồi cố định làm cho các HS cảm thấy thích thú,
năng động hơn. Đối với HS trung bình hoặc kém thì đây là cơ hội cho họ hỏi
nhiều người khác nhau cùng một câu hỏi mà không cảm thấy xấu hổ. [Nguyễn
Thuần, Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác vào dạy Ngữ văn lớp 10P ở
trường THPT chuyên Lý Tự Trọng - Thành phố Cần Thơ, ĐH Cần Thơ, 2008,
tr20-21]
b. Tiến hành


b1. Hình thành nhóm
Khi hình thành nhóm, GV cần lưu ý cách chia nhóm và sự phát triển của các
nhóm
* GV cần lưu ý về cách chia nhóm:
+ Thành viên trong mỗi nhóm gồm các HS giỏi, khá, trung bình, yếu, có
cả HS nam và nữ.
+ Việc sử dụng loại nhóm nào tùy thuộc vào nội dung bài học, vào thời
lượng của tiết học.
+ Để bảo đảm thời gian của tiết học, GV phải xác định rõ lượt thời gian
cho mỗi lần thảo luận. Thời gian thảo luận ngắn thì số lượng HS trong nhóm
phải ít, nội dung bài tập đơn giản.
+ Mỗi thành viên trong nhóm phải được phân công nhiệm vụ rõ ràng và
phải cùng hợp tác để giải quyết nhiệm vụ chung của cả nhóm.
+ Không nên lạm dụng quá nhiều việc thảo luận nhóm mà chỉ nên cho HS
thảo luận những vấn đề phức tạp.
+ GV cần sắp xếp các thành viên khác nhau về tính cách và năng lực vào

một nhóm sao cho các thành viên của nhóm càng đa dạng càng tốt. Kinh
nghiệm cho thấy, nhóm hoạt động có hiệu quả là nhóm gồm các thành viên có
năng lực đa dạng: trình độ nhận thức cao, trung bình và yếu, đa dạng về thành
phần xuất thân, điều kiện kinh tế, điều kiện môi trường sống... Với nhóm như
vậy, mỗi vấn đề cần giải quyết sẽ chứa đựng sự cân nhắc, tính toán toàn diện
hơn. Nhóm đồng nhất cũng có thể được tổ chức với mục tiêu cung cấp một
vài kĩ năng đặc biệt, đáp ứng những mục tiêu chuyên biệt nào đó.
+ Xác định thời gian duy trì nhóm: cần duy trì các nhóm đến thời điểm đủ


độ ổn định và nhóm đạt được thành công nhất định. Giải tán nhóm và thành
lập nhóm mới khi nhóm này có vấn đề về hoạt động kém hiệu quả để đảm
bảo HS sẽ học được các kĩ năng cần thiết cho việc giải quyết vấn đề trong quá
trình hợp tác với bè bạn. Việc HS được lần lượt ở cùng một nhóm với tất cả
các bạn trong lớp sau một học kì hay năm học sẽ giúp cho HS cảm nhận tính
tích cực, lành mạnh về sự hợp tác và tạo cho các em nhiều cơ hội để thực
hành các kĩ năng cần thiết cho việc hoạt động trong các nhóm mới. Tránh
việc đánh giá thấp tác dụng của các nhóm học tập đa dạng trong việc nâng
cao chất lượng dạy học.
+ Tổ chức lớp học: Cần bố trí các thành viên trong mỗi nhóm học tập ngồi
gần nhau sao cho các em có thể dễ dàng chia sẻ tài liệu học tập, duy trì được sự
liên hệ với nhau bằng ánh mắt và trao đổi nhỏ, đủ nghe trong nhóm mà không
làm ảnh hưởng đến hoạt động của các nhóm khác. Tốt nhất cho các thành viên
của nhóm ngồi đối mặt nhau bằng cách cho HS bàn trên quay xuống bàn
dưới. Điều này sẽ làm cho HS tích cực hơn, chủ động hơn, trách nhiệm
hơn trong mọi hoạt động. Với cách sắp xếp như vậy, HS cũng có cơ hội để
khuyến khích, động viên, ủng hộ lẫn nhau trong quá trình hợp tác. Cần có
khoảng trống làm lối đi để GV có thể dễ dàng di chuyển từ nhóm này sang
nhóm khác nhằm quản lí và hỗ trợ khi cần thiết.
+ Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm: các thành viên trong

nhóm cần có nhiệm vụ, vai trò rõ ràng. Sau mỗi lần hoạt động nhóm, các thành
viên cần thay đổi vị trí cho nhau, tránh tình trạng mỗi thành viên đóng một vai
trò trong thời gian quá lâu. Nhiệm vụ của các thành viên trong một nhóm có
thể bao gồm:
. Điều khiển nhóm có nhiệm vụ hướng dẫn các thành viên tham gia vào
hoạt động, giải thích rõ nhiệm vụ hoạt động của nhóm, tóm tắt, kiểm tra lại
xem mọi thành viên đã hiểu vấn đề chưa, thống nhất ý kiến của nhóm, giải


quyết các “mâu thuẫn” trong quá trình hoạt động nhóm. Với vai trò này, HS
cần có nhiều năng lực hơn, đặc biệt là năng lực quản lí, giám sát và hướng
dẫn bạn.
. Thư kí ghi chép mọi ý kiến, biên tập, tóm tắt các ý kiến.
. Người báo cáo thay mặt nhóm báo cáo kết quả.
. Khuyến khích động viên mọi thành viên tham gia, nhắc nhở những thành
viên “lắm lời” trong nhóm, bảo đảm trong quá trình trao đổi, mọi thành viên
phải có quyền và nghĩa vụ đóng góp vào bài học.
. Người theo dõi đánh giá sự tham gia của mọi thành viên.
. Phân bố thời gian theo dõi và thông báo thời gian cho hoạt động nhóm,
cùng các thành viên trong nhóm phân phối thời gian thích hợp cho từng vấn
đề, tránh hiện tượng “cháy thời gian”.
* GV lưu ý về quá trình làm việc, phát triển của một nhóm
Nó có thể chia ra 5 giai đoạn:
 Giai đoạn hình thành.
- Giai đoạn này các thành viên nhóm bắt đầu tập hợp lại, nhóm có nhiều điểm
khác biệt nhau từ tính cách đến cách làm việc, kiến thức và kỹ năng.
- Tâm lý thường thấy là các thành viên còn rụt rè, và tìm kiếm những vị trí của
mình trong nhóm, chưa bộc lộ nhu cầu cũng như năng lực cá nhân
 Giai đoạn hỗn loạn.
- Các thành viên trong nhóm làm việc đã bắt đầu hiểu rõ về nhau hơn.

- Các cá nhân bộc lộ tính cách, thói quen, sở thích và bắt đầu có những mâu
thuẫn nảy sinh.


- Trưởng nhóm phải là người cứng rắn, gương mẫu, gần gũi các thành viên,
tránh để xảy ra căng thẳng quá, tổ chức tốt công việc và làm cho công việc có
hiệu quả
 Giai đoạn định hình.
- Giai đoạn này các thành viên tin tưởng lẫn nhau, cùng gắn kết bởi mục tiêu
chung.
- Lãnh đạo nhóm tạo điều kiện để các thành viên hỗ trợ nhau. Bảo đảm các kênh
thông tin trong nhóm thông suốt, xây dựng được cơ chế phản hồi tích cực.
 Giai đoạn hoạt động.
- Đặc trưng giai đoạn này là các thành viên hoàn toàn hòa hợp nhau, tạo ra năng
suất làm việc cao, mọi tiềm năng của cá nhân và tập thể nhóm được phát huy,
các mâu thuẫn không còn xảy ra.
- Các thành viên tự hoàn thiện mình trong nhóm, thích ứng với thay đổi, chấp
nhận sự khác biệt, hướng mục tiêu chung.
- Ở giai đoạn này nhóm có thể phát triển theo hai hướng:
+ Hướng thứ nhất: nhóm tiếp tục học hỏi và phát triển từ những kinh nghiệm đã
thu nhận được và trở nên có hiệu quả hơn.
+ Hướng thứ hai: những nhóm có quy tắc hoạt động không mang lại hiệu quả thì
hoạt động ở mức vừa đủ để tồn tại.
 Giai đoạn kết thúc.
- Giai đoạn này liên quan tới việc kết thúc các vai trò, hoàn thành các mục tiêu
và giảm mức độ phụ thuộc.
- Các thành viên của nhóm hoàn thành các nhiệm vụ, sau đó lại tan rã, để tập
hợp thành các nhóm mới theo nhu cầu.



b2. Giải thích mục tiêu và giao bài tập cho nhóm thảo luận
- GV giải thích để HS rõ về mục tiêu và nhiệm vụ học tập được giao. Trong
quá trình giải thích, GV cần lưu ý một số điểm dưới đây:
+ Giải thích mục tiêu và nhiệm vụ của bài học cần phải dựa trên những
kiến thức và thông tin HS đã được học, đã trải nghiệm trước đó.
+ Giải thích tiến trình cần tuân thủ, đưa ra các ví dụ giúp HS hiểu kiến
thức, kĩ năng phải học và thực hành để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
+ Giao nhiệm vụ sao cho HS hiểu rõ việc mình phải làm.
+ Cần có những câu hỏi phụ để kiểm tra xem HS đã hiểu nhiệm vụ được
giao chưa.
- Giao bài tập cho nhóm thảo luận:
Công việc này tưởng chừng như đơn giản nhưng nó đòi hỏi người GV cần
phải biết cách thực hiện để đảm bảo độ nhanh và tính chính xác. Đối với
những bài tập ngắn, GV đọc đi đọc lại 2 lần hoặc ghi lên bảng cho HS chép.
Đối với những bài tập dài, GV chuẩn bị trước ở bảng phụ hoặc photo phát cho
từng nhóm. Ngoài ra, GV cần nêu rõ các chuẩn mực cần đạt của bài tập nhóm
giúp HS xác định được đích cần đạt trước khi tiến hành thảo luận nhóm.
Các loại hình bài tập dành cho nhóm rấ t đa dạ ng. Có t hể ví dụ m ột
s ố lo ạ i bà i tậ p sa u :
+ Bài tập cho hoạt động trao đổi: Trong hoạt động trao đổi, mỗi nhóm
giải quyết một vấn đề khác nhau (nhưng cùng một chủ đề), sau đó trao đổi
vấn đề và cách giải quyết vấn đề của nhóm mình với các nhóm khác. Loại
hoạt động trao đổi thường được sử dụng cho những bài học có dung lượng
kiến thức lớn mà thời gian trên lớp lại hạn hẹp.


+ Bài tập cho hoạt động so sánh: Trong hoạt động so sánh, tất cả các
nhóm cùng giải quyết một vấn đề, sau đó so sánh cách giải quyết khác nhau
giữa các nhóm. Loại hoạt động so sánh thường dành cho những bài học có
dung lượng kiến thức không lớn.

+ Bài tập lỗ hổng thông tin cho HS. Điều này có nghĩa là: HS A nắm
giữ một số thông tin này, HS B nắm giữ một số thông tin khác. Chỉ bằng cách
hợp tác với nhau, chia sẻ, thảo luận những thông tin mình có, nói cách
khác là ghép các mảnh kiến thức lại với nhau, 2 HS mới có thể tạo nên một bức
tranh hoàn chỉnh.
b3. Rèn cho học sinh kĩ năng làm việc hợp tác trong nhóm
Các kỹ năng được được dùng trong suốt quá trình của các thành viên làm
việc nhóm:
- Kỹ năng lắng nghe: Kỹ năng này phản ánh sự tôn trọng (hay xây dựng) ý
kiến giữa các thành viên.
- Xây dựng vai trò chính trong nhóm
- Chất vấn: Qua cách thức mỗi người đặt câu hỏi, chúng ta có thể nhận biết
mức độ tác động lẫn nhau, khả năng thảo luận, đưa ra vấn đề cho các thành viên
khác của họ.
- Phát triển quá trình làm việc nhóm
- Thuyết phục: Các thành viên phải trao đổi, suy xét những ý tưởng đã đưa
ra. Đồng thời họ cần biết tự bảo vệ và thuyết phục người khác đồng tình với ý
kiến của mình.
- Kỹ năng quản lý hội họp.


×