Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Kinh tế tư nhân ở thành phố long xuyên, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.06 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
--X W---

ĐÀO THỊ ĐIỆP

KINH TẾ TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ LONG
XUYÊN

(2005-2010) THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC.

Khóa học: 2006 - 2010.

An Giang, 2010


LỜI CẢM ƠN
#"
Trước tiên em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban chủ
nhiệm khoa Lý Luận Chính Trị, Thư viện Trường Đại Học An Giang
cùng với các ban ngành, công ty, doanh nghiệp tư nhân tại thành phố
Long Xuyên đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa
luận tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đối với sự hướng dẫn khoa học
và giúp đỡ tận tình của Thạc sĩ Trần Văn Hùng - Giảng viên chính
môn Kinh tế chính trị - đã hướng dẫn và giúp đỡ để em hoàn thành
khóa luận.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian nghiên cứu quá ngắn
và trình độ của người nghiên cứu còn hạn chế nên khóa luận khó
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được sự góp ý


của quý Thầy cô và bạn đọc để bài khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Long Xuyên ngày 03 tháng 05 năm 2010.
Đào Thị Điệp


i

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
KTTN: Kinh tế tư nhân.
TPLX: Thành phố Long Xuyên.
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
CNH,HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
KT - XH : Kinh tế - Xã hội.
CN - TTCN: Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp.
CN: Công nghiệp.
VPĐD: Văn phòng đại diện.
TDTT: Thể dục thể thao.
TTVS: Trật tự vệ sinh.
THCS: Trung học cơ sở.
CNTT: Công nghệ thông tin.
VH: Văn hóa.
GTGT: Giá trị gia tăng.
GTSX: Giá trị sản xuất.
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long.
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh.
KD: Kinh doanh.
UBND: Ủy ban nhân dân.
QHSX: Quan hệ sản xuất.
LLSX: Lực lượng sản xuất.

GDP: Tổng sản phẩm trong nước.
XNK: Xuất nhập khẩu.


ii

MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................... ii
3.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................... 3
CHƯƠNG 1....................................................................................................... 4
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân. .............. 5
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế tư nhân
hiện nay. ........................................................................................................ 9
CHƯƠNG 2..................................................................................................... 22
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở thành phố Long xuyên ảnh hưởng đến
kinh tế tư nhân............................................................................................ 22
Thứ nhất về Phát triển kinh tế:..................................................................... 23
Thứ hai về lĩnh vực văn hóa - xã hội: ........................................................... 24
2.2. Thực trạng hoạt động của kinh tế tư nhân về sản xuất, thương mại dịch vụ ở TPLX........................................................................................... 28
2.2.1. Trong lĩnh vực sản xuất. .............................................................. 32
Thứ nhất : Quá trình thành lập và phát triển của công ty:........................ 33
Thứ hai: Hoạt động sản xuất chính của công ty:......................................... 34
Thứ ba: Số lượng lao động, trình độ lao động và hoạt động của công đoàn:
.......................................................................................................................... 34
Thứ tư: Cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh của công ty: .......................... 34
Thứ năm: Chức năng, nhiệm vụ của công ty:.............................................. 37
Thứ sáu: Những thuận lợi và khó khăn. ...................................................... 37
Thứ bảy: Định hướng phát triển của công ty: ............................................. 38
2.2.2. Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ.......................................... 42

Thứ nhất: Những thành tựu đạt được: ........................................................ 46
Thứ hai: Nguyên nhân những thành tựu. .................................................... 48
Thứ ba: Những hạn chế. ................................................................................ 49
Một là: phát triển còn mang tính chất tự phát. ........................................... 49
Thứ tư: Nguyên nhân của hạn chế................................................................ 51
CHƯƠNG 3..................................................................................................... 53
3.1. Phương hướng. .................................................................................... 53
Thứ sáu: nâng cấp, mở rộng các tổ chức hiệp hội sản xuất KD. ............... 61
Thứ bảy: Mở rộng nâng cao năng lực sản xuất - hướng mạnh vào xuất
khẩu. ................................................................................................................ 62
3.2. Giải pháp. ................................................................................................. 63
Một là : Chính sách đất đai: .......................................................................... 73
Hai là: Chính sách thuế, tài chính, tín dụng. ............................................... 74
Ba là: chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư, chính sách kích cầu. ....... 75
Thứ sáu: Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực........................................... 78
Thứ tám: Xã hội hóa dịch vụ tư vấn cho KTTN TPLX. .............................. 81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................ 82
1. kết luận. ................................................................................................... 82
2. Kiến nghị. ................................................................................................ 83


1

PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
Thành phố Long Xuyên là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và
khoa học kỹ thuật của tỉnh An Giang. Thành phố nằm bên bờ sông hậu
có diện tích tự nhiên 106,87 km2, dân số 247,281 người, gồm 9 phường
và 3 xã.
Tháng 02 năm 1976. Long Xuyên gồm các xã: Bình Đức, Mỹ Bình,

Mỹ Long và Mỹ Phước. Ngày 01 tháng 03 năm 1977, theo quyết định số
239/TCUB của UBND tỉnh, thị xã Long Xuyên gồm 4 phường và 2 xã
là: phường Bình Đức, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Phước, xã Mỹ Hòa và Mỹ
Thới với 13 khóm, 10 ấp. Năm 1979 tiếp tục sáp nhập thêm phường Mỹ
Xuyên và hai xã Mỹ Khánh và Mỹ Thạnh theo Quyết định 08/HĐBT của
Hội Đồng Bộ Trưởng [15, tr.61- 62].
Từ sau khi giải phóng, dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ, cùng với
UBND tỉnh, đã có những chủ trương, biện pháp phát triển KT-XH mang
lại sự ổn định trong cuộc sống cho mọi người dân. Trên cơ sở đó, nhân
dân đã tích cực đầu tư phát triển kinh tế gia đình, xây dựng đời sống văn
hóa mới, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, xã hội lên một bước đáng kể.
Vì vậy, ngày 01 tháng 3 năm 1999, theo Nghị định 09/1999/NĐ.CP của
chính phủ, TPLX, theo dạng đô thị loại III [15, tr.62].
Đó là thành quả của quá trình phấn đấu và nỗ lực của Đảng bộ và
toàn dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
Sau hơn mười năm phấn đấu và phát triển. TPLX đã đạt được
những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực: kinh tế phát triển ổn
định, với tốc độ tăng trưởng ở mức bình quân mỗi năm hơn 13%, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng dịch vụ - thương mại chiếm
hơn 70%, CN xây dựng chiếm 25%. Đặc biệt ở lĩnh vực xây dựng đô thị,
đã có tiến bộ rõ nét, đô thị Long Xuyên phát triển rộng hơn với tốc độ đô
thị hóa cao, kết cấu hạ tầng đô thị hoàn chỉnh, góp phần thay đổi diện
mạo thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Để ghi nhận và đánh dấu
bước phát triển toàn diện của TPLX, ngày 14 tháng 4 năm 2009 Thủ
tướng chính phủ có Quyết định số 474/QĐ-TTg về việc công nhận
TPLX, tỉnh An Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang. Khẳng
định vị thế TPLX là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học -kỹ thuật, hành
chính, giáo dục - đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển KT-XH của tỉnh An Giang vùng tứ giác Long



2

Xuyên. Là một đô thị loại II, Long Xuyên sẽ phát huy hơn nữa vai trò
trung tâm giao dịch với nước bạn Campuchia và các tỉnh trong khu vực.
TPLX từ lâu là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh
An Giang. Góp phần quan trọng trong việc phát triển KT-XH của tỉnh
nhà. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của TPLX tương đối cao, ổn định và cao
hơn mức tăng chung của tỉnh An Giang, năm 2007 tốc độ tăng trưởng
kinh tế của TPLX là 15,48% và dự kiến năm 2010 tăng 16%. Đời sống
của nhân dân TPLX hiện nay đã được cải thiện khá nhiều, số hộ nghèo
năm 2007 giảm còn 4,22% (so với năm 2006 số hộ nghèo là 7,8%), số hộ
dùng nước sạch được nâng lên 99,8%, số gia đình đạt chuẩn gia đình văn
hóa chiếm khoảng 85%. Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục và y tế cũng
được nâng lên đáng kể. Việc thực hiện phổ cập giáo dục phổ thông đạt
hiệu quả cao, năm 2007 tỷ lệ học sinh phổ thông là 152 em/1000 người,
chất lượng phục vụ y tế cho người dân cũng đã được cải thiện đáng kể.
Nhân dân TPLX, giàu truyền thống cách mạng, năng động, tích cực
trong việc phát triển ngành nghề, năng động trong KD, mạnh dạn đầu tư
và có nhiều doanh nhân KD phát đạt là điều kiện thuận lợi cơ bản để
KTTN phát triển. Hiện nay KTTN ở TPLX ngày càng phát triển với tốc
độ cao và chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN của tỉnh nhà.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để KTTN TPLX phát triển đúng
hướng, đúng mục tiêu và tăng trưởng bền vững. Nhìn chung, nhiều năm
qua việc nghiên cứu KTTN ở tỉnh An giang có nhiều công trình như:
“Thực trạng và giải pháp phát triển KTTN huyện chợ mới đến năm
2010” của T.S Trần Văn Hiển; “KTTN huyện Thoại Sơn - tỉnh An Giang
thực trang và giải pháp” của Phan Thị Hồng Nga DH3CT…Tuy nhiên,
việc nghiên cứu về thành phần KTTN ở TPLX chưa có.

Do vậy, “KTTN ở TPLX-Thực trạng và giải pháp”, là vấn đề
mang tính cấp thiết, cần phải được nghiên cứu cẩn trọng. Đây là vấn đề
vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn, nếu nghiên cứu thành
công sẽ góp phần thúc đẩy CNH, HĐH của TPLX đạt tốc độ nhanh và
bền vững.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nhằm mục đích: Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển
KTTN ở TPLX giai đoạn 2005-2010. Từ đó đề xuất ra một số giải pháp
cần thiết phát triển KTTN của thành phố trong thời gian tới.


3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Khảo sát thực trạng hoạt động sản xuất - kinh doanh của KTTN ở
TPLX.
- Tìm ra những giải pháp nhằm phát triển khu vực kinh tế này trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Một số công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, các hộ cá thể về hoạt
động sản xuất KD, thương mại và dịch vụ dưới các loại hình: Lớn, vừa,
nhỏ, trên địa bàn TPLX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Các công ty, doanh nghiệp loại lớn, vừa, nhỏ ở TPLX.
- Thời gian từ 2005-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu Tôi sẽ sử dụng phép biện chứng duy
vật, phương pháp phân tích và tổng hợp, sơ đồ hóa,…

5. Đóng góp của khóa luận.
Nếu đề tài được nghiệm thu :
- Khóa luận có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các cấp ủy
Đảng của thành phố trong việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách
phát triển KT-XH ở TPLX.
- Khóa luận cũng có thể là tài liệu tham khảo cho quí thầy cô, sinh
viên trường Đại Học An Giang trong quá trình giảng dạy và học tập.
6. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Một số quan điểm cơ bản trong việc phát triển kinh tế tư
nhân.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về KTTN.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KTTN hiện
nay.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố Long
Xuyên trong giai đoạn (2005 -2010).
2.1. Tình hình KT-XH ở TPLX ảnh hưởng đến KTTN.
2.2. Thực trạng hoạt động của KTTN về sản xuất, thương mại - dịch
vụ ở thành phố Long Xuyên.
2.2.1. Trong lĩnh vực sản xuất.
2.2.2. Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ.


4

Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở
thành phố Long Xuyên.
3.1. Phương hướng.
3.2. Giải pháp.


PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN.


5

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân.
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là một phạm trù kinh tế phản ánh
sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là điều kiện của sản
xuất (Pháp lý), với sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế trong quá trình
sản xuất. Theo đó, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất ra đời khi xã hội có
giai cấp và có Nhà nước. Từ chế độ sở hữu hình thành nên nhiều hình
thức sở hữu khác nhau, tương ứng với mỗi hình thức sở hữu là một thành
phần kinh tế. Vì vậy, trong một nền kinh tế tất yếu tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, trong đó có KTTN.
KTTN là mô hình kinh tế ra đời, tồn tại và phát triển lâu dài trong
những thời kỳ lịch sử của xã hội loài người. Sở hữu tư nhân đã xuất hiện
trong các nền kinh tế trước tư bản chủ nghĩa và trở nên phổ biến, phát
triển dưới nhiều hình thức mới trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản - giai đoạn tự do cạnh
tranh, với những dự báo của Mác - Ăngghen về chủ nghĩa cộng sản và sự
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đã đòi hỏi cần có cách
nhìn mới về sở hữu tư nhân. Ở đây đặt ra vấn đề; sở hữu tư nhân còn tồn
tại hay không trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản ?
Bản chất của chủ nghĩa tư bản là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về các tư liệu sản xuất. Ngược lại, là chế độ sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất trong chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy sự thắng lợi tất yếu của

chủ nghĩa xã hội và sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa tư bản không kéo
theo sự biến mất của hình thức tư hữu trong thời kỳ quá độ. Lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: Trong thời kỳ quá độ, không thể thủ
tiêu hình thức tư hữu ngay lập tức được mà chỉ có thể thực hiện dần dần.
Điều này đã khẳng định sự tồn tại khách quan của hình thức tư hữu trong
thời kỳ quá độ. Bởi vì chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất
hiện đại, xã hội hóa sản xuất thực tế với năng suất lao động rất cao thì
khi đó mới có thể xóa bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất. khi đó, “ Sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả
mọi người” [4, tr.79].
Vì chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời từ trong chế
độ chiếm hữu nô lệ và lần lượt chuyển tiếp qua nhiều phương thức sản
xuất cho đến nay; mặt khác cùng với quá trình phát triển của chế độ sở
hữu tư nhân thì phân công lao động xã hội ngày càng được củng cố và
phát triển.


6

Do vậy, KTTN là mô hình kinh tế ra đời, tồn tại và phát triển lâu
dài trong những thời kỳ lịch sử của xã hội loài người.
KTTN gắn chặt với sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng
hóa và ngược lại sự hình thành kinh tế hàng hóa phụ thuộc vào sự phát
triển của nền KTTN.
Trong bộ Tư bản, Mác đã phân tích rõ qui luật hình thành và phát
triển của nền kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân và kết thúc quá trình nghiên
cứu của mình Mác Khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
tất yếu sẽ diệt vong, việc ra đời phương thức sản xuất mới cộng sản chủ
nghĩa là một hiển nhiên. Từ xã hội nọ sang xã hội kia tất yếu phải trải
qua một thời kỳ lịch sử nhất định. Thời kỳ cải biến cách mạng - Thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa cộng sản.
Sự tồn tại khách quan của hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo Mác lý giải thì đó là
một xã hội mà về phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang
những dấu vết của xã hội cũ mà nó lọt lòng ra. Chủ nghĩa xã hội là xã hội
thoát thai từ chủ nghĩa tư bản nên vẫn mang trên mình “ những vết tích”
của xã hội cũ trong đó KTTN là một trong những vết tích đó mà chủ
nghĩa xã hội không thể xóa ngay tức khắc được [8, tr.6].
Quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là những bước đi phức tạp với sự
đan xen, lẫn lộn giữa cái cũ và cái mới. Vì thế trong thời kỳ quá độ khó
tránh khỏi sự thiếu công bằng khi việc phân phối sản phẩm tiêu dùng
theo số lượng và chất lượng lao động. Bởi vì, nó mặc nhiên thừa nhận sự
không ngang nhau về năng lực lao động của những người lao động. Ở
đây, cái quyền ngang nhau cũng là cái quyền tư sản tức là vẫn thừa nhận
chế độ tư hữu trong khâu phân phối ở thời kỳ quá độ [8, tr.6].
Những luận điểm của Mác - Ăngghen về vai trò của giá trị và
những quan hệ giá trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng đề
cập đến vấn đề tư hữu. Mác và Ăngghen dự báo rằng sẽ không còn tồn
tại nền sản xuất hàng hóa trong xã hội cộng sản nhưng lại không phủ
nhận sự tồn tại của những quan hệ giá trị trong thời kỳ quá độ. Trong bộ
“Tư bản” Mác cho rằng: “….Sau khi xóa bỏ phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nhưng vẫn còn duy trì nền sản xuất xã hội, thì sự qui định giá
trị vẫn sẽ có tác dụng chi phối, theo ý nghĩa là việc điều tiết thời gian lao
động và phân phối lao động xã hội giữa những nhóm sản xuất khác nhau,
và cuối cùng việc ghi chép tất cả những khoản đó vào sổ kế toán sẽ trở
thành quan trọng hơn bao giờ hết [8, tr.6].


7


Như vậy Mác và Ăngghen đều thừa nhận sự tồn tại khách quan của
hình thức tư hữu trong thời kỳ quá độ. Trên cơ sở đó Lênin đã phát triển
thành lý luận về thành phần kinh tế, đặc biệt trong chính sách kinh tế mới
(NEP). Nói về đặc trưng của thời kỳ quá độ, trong đó đặc biệt đề cập đến
sự quá độ của nền kinh tế, trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”
Lênin đã viết:…“danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào kinh tế,
có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những
bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ?
Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận
điều ấy đều suy nghĩ xem thành phần của kết cấu KT-XH khác nhau hiện
có là như thế nào ?”.
Trước hết Lênin đã khẳng định tính tất yếu của sự tồn tại các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, trong đó bao gồm cả “những” thành
phần lấy lại của tư bản chủ nghĩa và XHCN. Song điều quan trọng mà
Lênin muốn nhấn mạnh ở đây chính là sự phân định các thành phần kinh
tế và từ đó nhận thức được sự khác nhau về bản chất giữa các thành phần
kinh tế này. Theo Lênin mỗi một thành phần kinh tế phải được xem xét
như một thành phần, một bộ phận, một “ mảnh” thống nhất biện chứng
trong một kết cấu KT-XH. Thực tế đã khẳng định điều này.
Xét dưới gốc độ kinh tế, mỗi thành phần kinh tế đều có những đặc
trưng riêng, vốn có đó là sự khác biệt về trình độ và tính chất xã hội hóa
lao động, trình độ phát triển lực lượng sản xuất, hệ thống quan hệ sản
xuất và các lợi ích kinh tế v.v…trong đó đặc biệt là quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất. Vì vậy, mặc dù trên thực tế các thành phần kinh tế không
tách biệt nhau, quan hệ tác động lẫn nhau, đan kết với nhau trong các
hình thức tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế vẫn không bị hòa tan,
mà giữ nguyên bản chất của nó. Do đó muốn hay không muốn, giữa các
thành phần kinh tế vẫn có sự phân định. Sự phân định này hoàn toàn
mang tính khách quan, do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quy định.
Từ sự phân định này quyết định khả năng phát triển, vị trí, vai trò của

mỗi thành phần kinh tế trong nền KT-XH và cũng từ sự phân định này
dẫn đến sự khác biệt về thái độ chính trị của mỗi giai cấp trong từng
thành phần kinh tế, vì vậy việc phân định thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó vừa mang tính khách quan
do những đặc trưng vốn có của mỗi thành phần kinh tế qui định, nhưng
đồng thời là sự cần thiết mang tính chủ quan của giai cấp cầm quyền để
quản lý và lãnh đạo xã hội hoạt động một cách hiệu quả trong thời kỳ


8

quá độ. Ở đây không chỉ cần thiết dưới gốc độ kinh tế, mà đặc biệt dưới
gốc độ chính trị, Lênin đã cho thấy rõ điều này [4, tr.164-165].
Theo Lênin các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ gồm có :
1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng. Nghĩa là một bộ phận lớn có
tính chất tự nhiên
2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó đại đa số nông dân).
3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5) Chủ nghĩa xã hội.
Nhận xét về các thành phần kinh tế này Lênin đã chỉ ra:...“trong
một nước tiểu nông thì tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu thế và không thể
không chiếm ưu thế. Số đông thậm chí là đại đa số nông dân đều là
những người sản xuất hàng hóa nhỏ” cuộc đấu tranh hiện đang mở rộng
chính là ở lĩnh vực đó…cuộc đấu tranh đó diễn ra giữa ai với ai ? có phải
là giữa thành phần thứ tư và thành phần thứ năm theo thứ tự mà tôi kể
trên hay không ? đương nhiên là không. Ở đây không phải là chủ nghĩa
tư bản Nhà nước đấu tranh với chủ nghĩa xã hội, mà là giai cấp tiểu tư
sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả
chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội” [4, tr.165].

Thật vậy, trước bối cảnh nước Nga xô viết vừa mới ra đời còn non
yếu, trước 14 nước tư bản bao vây, cấm vận, cộng thêm bọn bạch vệ bên
trong thổi phồng lên cuộc nội chiến, buộc Lênin phải thực hiện chính
sách cộng sản thời chiến, sau khi kết thúc chính sách này tỏ ra lỗi thời,
tháng 3 năm 1921 Đảng cộng sản Nga thông qua chính sách kinh tế mới
NEP do Lê nin khởi xướng.
Nội dung của NEP là áp dụng chính sách thuế lương thực thay cho
“chính sách cộng sản thời chiến”, khôi phục và phát triển sản xuất hàng
hóa trong nông nghiệp thông qua trao đổi hàng hóa giữa CN và nông
nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp, nông dân, đổi mới quá
trình lưu thông hàng hóa và ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô viết…Mặt quan trọng của NEP là những phương pháp mới trong kinh
doanh, trong tổ chức sản xuất và lao động. Lênin chỉ ra rằng, tiến trình
phát triển khách quan của cách mạng đã chứng minh tầm quan trọng
sống còn của việc kết hợp những nhân tố kích thích về cả tinh thần và vật
chất, vì vậy, việc áp dụng một chính sách kinh tế mới phù hợp với điều
kiện khách quan mới là việc làm cấp thiết.
NEP ra đời trên cơ sở xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc
khủng hoảng, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ bên trong, đó


9

là những sai lầm về lãnh đạo, quản lý mà trước hết và chủ yếu là trên
lĩnh vực kinh tế. Do đó, có thể thấy, NEP không chỉ là chính sách kinh tế
mà còn là đường lối chính trị đúng đắn và dũng cảm để Nhà nước Nga
Xô-viết tháo gở khó khăn, điều hành sự phát triển KT-XH theo con
đường XHCN. Chỉ sau một thời gian ngắn thực hiện NEP, KT-XH nước
Nga Xô - viết được cải thiện nhanh chóng. Ngay trong năm 1921, vụ
thuế lương thực đầu tiên đạt 90% (mặc dù bị hạn hán và nạn đói nghiêm
trọng); Từ năm 1922 đến 1925, sản lượng lương thực tăng từ 56,3 triệu

tấn lên 74,7 triệu tấn, nông nghiệp được phục hồi và phát triển, kéo theo
sự khôi phục của CN, thương nghiệp và giao thông vận tải, đời sống
nhân dân lao động được cải thiện rõ rệt, tình hình chính trị - xã hội dần
được ổn định.
Sự thành công của NEP ở nước Nga Xô Viết trong những năm
đầu khôi phục, phát triển KT-XH theo con đường XHCN, đã để lại
những bài học kinh nghiệm quý báu, có thể áp dụng cho những nước có
hoàn cảnh, điều kiện KT-XH tương tự.
Một là, xác định đúng vai trò quyết định của nông dân đối với
thành công của sự nghiệp cách mạng XHCN, đặc biệt là đối với những
nước có nền kinh tế tiểu nông, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư.
Hai là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa CN và nông nghiệp,
xây dựng liên minh công nông trên cơ sở cả chính trị và kinh tế.
Ba là, con đường đi từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa phải qua những bước trung gian, những hình thức
quá độ.
Bốn là, đổi mới quản lý kinh tế theo hướng chuyển từ biện pháp
hành chính thuần túy sang biện pháp kinh tế.
Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Lênin cùng với chính sách kinh
tế mới đã đưa nước Nga thoát khỏi cuộc khủng hoảng KT-XH, hàn gắn
được vết thương chiến tranh, nhất là cuộc nội chiến (1918-1920) đưa nền
kinh tế Nga phát triển vượt bậc. Điều này khẳng định tính đúng đắn trong
quan điểm của Lênin về hình thức tư hữu nói chung và KTTN nói riêng.
Rất tiếc, sau khi Lê nin qua đời, NEP không được sử dụng, nền
kinh tế Liên Xô chuyển sang mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế
tư nhân hiện nay.
Mô hình KT-XH tập trung đã phát huy tác dụng tích cực trong giai
đoạn đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, song dần dần đã bọc
lộ khuyết tật, hạn chế, yếu kém, là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng



10

hoảng toàn diện của hệ thống XHCN trên thế giới. Trước tình hình này
các Đảng cộng sản ở các nước XHCN buộc phải xem xét lại mô hình
KT-XH đang áp dụng và đã nhận ra những khuyết tật của nó cùng những
sai lầm trong công tác lãnh đạo, quản lý.
Sự vận dụng NEP như thế nào, điều đó phụ thuộc vào sự nhận thức
và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Đối với Việt Nam, mặc dù
điều kiện, lịch sử không hoàn toàn giống nước Nga Xô viết, song có nét
tương đồng: Nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, nông dân
chiếm đại đa số trong dân cư,…Vì vậy, chính những bài học kinh
nghiệm của NEP có thể được áp dụng linh hoạt với Việt Nam. Nhận thức
được vấn đề này, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo, tài tình NEP
vào công cuộc đổi mới đất nước. Trước hết có thể thấy rằng, Đảng ta đã
đặt đúng vị trí vấn đề nông dân và kinh tế nông nghiệp. “tập trung sức
phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” [3, tr.26].
Là quan điểm chính trị nhất quán được thực hiện từ Đại hội V của Đảng
đến nay.
Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta cũng đã khẳng định: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu
khách quan và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Tuy nhiên trước Đại hội VI, do nôn nóng tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội bằng con đường quá độ trực tiếp, nên trong quá trình triển khai
đường lối phát triển kinh tế chúng ta đã vấp phải một sai lầm khi đặt
KTTN vào vị trí là đối tượng cải tạo, nên xem nhẹ và có phần muốn xóa
bỏ thành phần kinh tế này chỉ đến Đại hội VI KTTN được Đảng ta chính
thức thừa nhận cùng với quan điểm nhất quán phát triển của nền kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Quá trình đổi mới
và phát triển kinh tế của đất nước cũng là quá trình đổi mới tư duy lý
luận - thực tiễn của Đảng về KTTN, từ chỗ còn dè dặt thận trọng, chỉ cho
phát triển có giới hạn trong một số ngành lĩnh vực cụ thể, đến bảo đảm
quyền tự do KD, khuyến khích tạo điều kiện để KTTN phát triển trong
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Đó là một quá trình phát
triển cả về tư duy lý luận và thực tiễn vận động, phát triển của KTTN
gắn liền với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện dân chủ hóa kinh tế và nhận thức
ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện quan điểm này Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, xây


11

dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân, trong đó tiêu biểu là
chỉ thị 100-CT/TW, Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
các hợp tác xã nông nghiệp; Nghị quyết 10-NQ/Tw của bộ chính trị khóa
VI về quản lý nông nghiệp và tiếp theo đó là Nghị quyết trung ương 6
khóa VI về chủ trương CNH, HĐH phải phục vụ cho nhiệm vụ phát triển
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và tiến hành CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn…
Vận dụng bài học kinh nghiệm NEP vào công cuộc đổi mới ở
nước ta còn thể hiện ở đường lới phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
đã được nhận thức từ đại hội VI của Đảng, và tư tưởng này được các kỳ
Đại hội VII, VIII, IX và X của Đảng tiếp tục tái khẳng định, bổ sung và
hoàn thiện với nhiều nội dung, biện pháp, chính sách mới như: giữ vững
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, khuyến khích phát triển và định
hướng thành phần KTTN theo quỹ đạo chủ nghĩa xã hội, sử dụng chủ

nghĩa tư bản Nhà nước và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài…Trong quản lý kinh tế cương lĩnh của Đảng lại một lần nữa
khẳng định tính chất lâu dài và vững chắc của đường lối của Đảng về
phát triển kinh tế: “Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”.
Sự vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của NEP đã góp
phần quan trọng vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Trong
hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH, có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng nhanh; sự nghiệp
CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được
đẩy mạnh; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang
được củng cố và tăng cường; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng và an
ninh được giữ vững.
Qua đó, khẳng định được hình thức tồn tại của KTTN: “KTTN
gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới
hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân”. [1, tr.25]
KTTN là những đơn vị kinh tế được tổ chức dựa trên sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa sở hữu tư nhân có nhiều hình thức như: sở hữu của hộ gia
đình, sở hữu của hộ tiểu chủ, trang trại và sở hữu của tư bản tư
nhân…đây là khu vực kinh tế bao gồm các hộ KD cá thể, tiểu chủ và các
loại hình doanh nghiệp như: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công


12

ty hợp doanh, công ty cổ phần phát triển trong các ngành nghề nông,
lâm, ngư nghiệp, CN-TTCN, thương mại - dịch vụ ở nông thôn và thành

thị. Kinh tế trang trại, kinh tế hộ nông dân cũng được đưa vào kinh
KTTN, mặc dù có mang đặc điểm riêng của nó. Việc đưa kinh tế hộ
nông dân vào cùng với khu vực KTTN là để đảm bảo tính hệ thống của
tổng thể kinh tế cá thể tiểu chủ ở cả thành thị và nông thôn, không có gì
thay đổi về mặt chính trị của nông dân - quân chủ lực của cách mạng.
Khu vực kinh tế này đã và đang phát triển mạnh mẽ, thu hút được đông
đảo tầng lớp dân cư tham gia và ngày càng chứng tỏ vị trí, vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Từ quan niệm trên, vị trí của KTTN cũng được Đảng và Nhà nước
xác định : KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh với các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định “ kinh tế tư bản tư nhân có khả
năng góp phần xây dựng đất nước, khuyến khích KTTN đầu tư vào sản
xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp và
tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn
theo pháp luật, có lợi quốc kế dân sinh”.[15, tr.5].
Quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta có tầm quan trọng đặc
biệt, tạo điều kiện ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của KTTN
trong sự nghiệp CNH, HĐH. Văn kiện Đại hội IX, đặc biệt là Nghị quyết
Trung ương 5, khóa IX xác định: “ Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược
lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN góp
phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát
triển kinh tế, CNH, HĐH, nâng cao năng lực của đất nước trong hội nhập
kinh tế quốc tế” [8, tr.8].
Đây là kết quả của quá trình phát triển KTTN trong thực tiễn, đồng
thời cũng là quá trình nhận thức về KTTN và sự khẳng định vị trí, vai trò
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng từ đổi mới đến
nay. Từ Đại hội IV đến Đại hội IX KTTN từ chỗ không được thừa nhận

đến được thừa nhận; từ chỗ thừa nhận có mức giới hạn cả về qui mô lẫn
thời gian đến sự mở rộng và lâu dài. Từ chỗ được phát triển nhưng không
được hỗ trợ giúp đỡ tiến tới được Nhà nước hỗ trợ, giúp đỡ, khuyến
khích, cỗ vũ, tôn vinh. Từ phân biệt đối xử trong chính sách, pháp luật
dần chuyển sang quan hệ bình đẳng, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử giữa các thành phần kinh tế.


13

Sự khẳng định trên của Đảng cũng ngày càng được Nhà nước thể
chế hóa, vị trí của KTTN được ghi trong Hiến pháp nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa việt Nam (1992) và các luật như: Luật công ty, Luật doanh
nghiệp tư nhân (1990) và có hiệu lực từ ngày 15 - 4 - 1991 và một số các
luật khác. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản quan trọng
như Nghị quyết 27 - HĐBT (9-3-1988) quy định về chính sách đối với
KTTN, cá thể. Nghị định 66-HĐBT (1992) đối với các cơ sở, kinh doanh
dưới vốn pháp định. Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 3-2-2000 của chính
phủ hướng dẫn thi hành luật doanh nghiệp, quyết định 1253/QĐ-TTg
ngày 19-12-1999 của Thủ Tướng chính phủ về bãi bỏ các giấy phép trái
với qui định của luật doanh nghiệp (12-6-1999) một số luật, Nghị định,
quyết định nêu trên là những cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định vị trí
pháp lý của KTTN ở nước ta, quyền tự do KD và bảo hộ sở hữu tư nhân
hợp pháp.
Sự thừa nhận cả về mặt chính trị và pháp lý đã tạo cơ sở quan
trọng cho thành phần KTTN phát huy hết vai trò của mình trên tất cả các
lĩnh vực KT-XH, trở thành lực lượng quan trọng thúc đẩy sự phát triển
toàn diện trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Trước hết là khả năng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực địa phương.

Việc thành lập các hộ KD cá thể, các doanh nghiệp thuộc KTTN
không đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là các doanh nghiệp quy mô nhỏ.
Cùng với sự khuyến khích của Nhà nước đã tạo cơ hội cho đông đảo dân
cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động các loại
hình doanh nghiệp tư nhân có thể dễ dàng huy động vốn vay từ quan hệ
họ hàng, bạn bè…Cho nên việc đẩy mạnh phát triển các loại hình doanh
nghiệp tư nhân được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động
các khoảng tiền đang phân tán, nằm im trong dân cư thành nguồn vốn
đầu tư. Do KD trên tài sản của mình nên các chủ cơ sở KD vừa phải thận
trọng, vừa chớp thời cơ, không để mất cơ hội KD sao cho đồng vốn được
luân chuyển và sinh lời nhiều nhất. Điều này đã tạo cho KTTN có ưu thế
rất rõ nét về sự năng động, nhạy bén cũng như việc huy động và sử dụng
hiệu quả nguồn vốn xã hội.
Hòa cùng chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta, các
địa phương lần lượt triển khai, cụ thể hóa thành những biện pháp phát
triển kinh tế ở các địa phương, trong đó có An giang.
Năm 2000 được xem là dấu mốc quan trọng với sự ra đời của
luật doanh nghiệp mới (có hiệu lực từ 1/1/2000) đã tạo đà cho thành


14

phần KTTN có bước chuyển biến nổi bật. Tính đến ngày 30/9/2009 đã
cấp giấy chứng nhận đăng ký KD cho 724 doanh nghiệp (so với cùng
kỳ năm 2008, doanh nghiệp đăng ký tăng 245 doanh nghiệp; tỷ lệ tăng
51,15% ); tổng số vốn đăng ký KD 3.691 tỷ đồng (so với cùng kỳ năm
2008, tổng số vốn đăng ký tăng 60 tỷ đồng; tỷ lệ tăng 1,65%). Cấp thay
đổi bổ sung 691 doanh nghiệp và 114 chi nhánh/VPĐD. Bình quân vốn
đăng ký KD của một doanh nghiệp gần 5,1 tỷ đồng. Nâng tổng số doanh
nghiệp có trên địa bàn tỉnh lên 4.865 doanh nghiệp, bao gồm: 2.191

doanh nghiệp tư nhân, 1.099 công ty TNHH hai thành viên trở lên, 397
công ty TNHH một thành viên, 141 công ty cổ phần và 1.037 chi
nhánh/VPĐD. Tổng số vốn đăng ký KD của 3.828 doanh nghiệp là
16.636 tỷ đồng.
Quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta có tầm quan trọng đặc
biệt, tạo điều kiện ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của KTTN
trong sự nghiệp CNH, HĐH. Kinh tế cá thể tiểu chủ xuất hiện và phát
huy tác dụng ở thành thị lẫn nông thôn, cả trong CN-TTCN lẫn thương
mại và dịch vụ. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa gắn với thị trường
thì nó có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Còn kinh tế tư bản tư nhân có vai trò
quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát
triển nền sản xuất hàng hóa, về giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy Đại
hội VIII của Đảng khẳng định “kinh tế tư bản tư nhân có khả năng đóng
góp phần xây dựng đất nước, khuyến khích KTTN đầu tư vào sản xuất,
yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp và tạo
điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn theo
pháp luật, có lợi quốc kế dân sinh”.[15, tr.5].
Như vậy, về lý luận cũng như qua sự vận động thực tiễn hơn 20
năm đổi mới đã chứng minh sức sống và vai trò to lớn của các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội ở nước ta. Nhưng để
khẳng định và xem xét vai trò quan trọng của KTTN cần xem xét các
hoạt động của nó trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên một số nét
chủ yếu sau:
Thứ nhất phải tăng vốn đầu tư xã hội để phát triển sản xuất KD.
Để sản xuất, KD, mọi chủ thể đều phải đầu tư, mà trước hết là đầu
tư vốn tiền tệ. Với sự khuyến khích của Nhà nước đã tạo cho KTTN tự
bỏ vốn và huy động mọi nguồn vốn trong dân để đầu tư KD. Khi tiến
hành các hoạt động đầu tư, do luôn phải chịu sức ép gay gắt của cạnh
tranh, cho nên KTTN phải có khả năng phản ứng linh hoạt trước những



15

biến động để đối phó với những rủi ro. Vì thế, đa phần là họ tự bỏ vốn,
tự tích lũy hoặc bằng việc tự huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Để
đồng vốn trên luân chuyển sinh lời nhiều nhất, KTTN rất linh hoạt trong
lựa chọn yêu cầu của khách hàng và “tín hiệu” của thị trường. Do đó,
KTTN luôn tăng đầu tư vốn trong quá trình phát triển sản xuất KD và
góp phần vốn không nhỏ cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
Từ năm 2005 đến năm 2009, vốn đầu tư của KTTN chiếm tỷ trọng
đáng kể trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Vốn sử dụng, vốn
đầu tư phát triển và vốn đăng ký KD đều tăng, năm 2009 vốn đăng ký
KD của doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh, đạt 15,831 tỷ đồng gấp 5,5
lần so với năm 2005.
Ở tỉnh An Giang, vốn đầu tư tư nhân chiếm tỷ lệ khoảng 35% so
với tổng số vốn đầu tư trên địa bàn của tỉnh. Nhiều hơn khoảng 10 lần so
với đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, hơn 28 lần so với đầu tư FDI.
Thứ hai, đóng góp tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập góp phần
xóa đói giảm nghèo.
Chúng ta đều biết lao động là một trong những yếu tố đầu vào cơ
bản của nền sản xuất xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm không chỉ có ý
nghĩa về mặt xã hội mà luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của Nhà nước, là một trong những điều kiện để đảm bảo tăng trưởng,
phát triển kinh tế nhanh chóng, bền vững.
Hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, điều quan trọng là phải sắp xếp lại nguồn lao động. Theo Nghị
quyết hội nghị trung ương 5 về KTTN, năm 2000, lao động trong khu
vực KTTN chiếm tới 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong
cả nước. Trong ngành phi nông nghiệp, trong 4 năm (1997-2000), đã

thu hút thêm lao động có việc làm gấp 6,6 lần so với khu vực Nhà nước
(=977.019 lao động). Ngành nông nghiệp, giải quyết việc làm chiếm tới
63,9% trong tổng số lao động nông nghiệp toàn quốc [15, tr.7].
Ở An Giang từ năm 2000 đến tháng 6/2004 KTTN đã góp phần
gải quyết việc làm cho người lao động trên 40.000 người, trong đó các
loại hình doanh nghiệp đã tạo việc làm cho trên 12.000 lao động, hộ KD
cá thể 30.000 lao động.
Thực tế cho thấy KTTN không những đã góp phần rất lớn trong
việc tạo ra nhiều việc làm cho người lao động mà còn cùng với Nhà nước
thực hiện tốt vấn đề xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Những doanh
nghiệp ở địa phương trước hết sẽ tạo ra việc làm; riêng những doanh
nghiệp, cơ sở KD tập trung ở các thành phố lớn thu hút được đông đảo


16

lực lượng lao động ở nông thôn muốn chuyển sang các ngành nghề phi
nông nghiệp. Nếu bình quân một doanh nghiệp tư nhân sử dụng 6 lao
động, một công ty TNHH 31 lao động, một hộ KD cá thể 2 lao động thì
với hàng trăm nghìn cơ sở tư nhân ở tỉnh đã giải quyết một áp lực lớn về
việc làm cho người lao động, thực hiện xóa đói giảm nghèo có hiệu quả.
Mặt khác, KTTN còn từng bước tạo ra một lực lượng lao động
giỏi. Bởi vì muốn đứng được vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp tư
nhân, cơ sở kinh doanh cá thể phải luôn có biện pháp tổ chức lao động,
quản lý nhân sự hiệu quả nhất. Do vậy kỷ luật lao động được thực hiện
rất sát sao từ khâu tuyển chọn đến bố trí, sử dụng lao động sao cho thích
hợp. Bản thân người lao động cũng phải có ý thức tự nâng cao trình độ
chuyên môn, góp phần nâng cao sức cạnh trạnh cho doanh nghiệp. Điều
này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Riêng ở TPLX, trong 2 năm (2007- 2008) KTTN đã giải quyết
việc làm cho người lao động khoảng 15.932 người, trong đó các loại
hình doanh nghiệp đã tạo việc làm cho khoảng 15.816 lao động. Trong
đó doanh nghiệp tư nhân đã giải quyết việc làm cho 384 lao động, công
ty TNHH, công ty cổ phần 15.432 lao động
Thứ ba, KTTN đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và
tăng ngân sách Nhà nước.
Khu vực KTTN có mặt hầu hết các ngành nghề: CN chế biến,
nông, lâm, ngư, nghiêp, xây dựng, thương mại, dịch vụ. Góp phần hình
thành nên những doanh nghiệp đa dạng, phong phú, khai thác mọi tiềm
năng kinh tế của đất nước. Thương mại - dịch vụ dù không trực tiếp tạo
ra của cải vật chất nhưng là tác nhân quan trọng thúc đẩy các ngành sản
xuất công nông nghiệp tăng trưởng. Từ đó đóng góp to lớn vào tăng
trưởng kinh tế và ngân sách Nhà nước.
Năm 2000, cả nước có gần 9,8 triệu hộ KD cá thể và đến năm
2001 66.780 doanh nghiệp đăng ký KD với các loại hình doanh nghiêp
tư nhân chiếm 58,75%, công ty TNHH 38,68%, công ty cổ phần 2,25%,
công ty hợp doanh 0,01%. Chỉ trong vòng 2 năm từ tháng 1/2000 đến
tháng 3/2002, cả nước có trên 42.000 doanh nghiệp và hơn 300.000 hộ
KD mới đăng ký, tương đương với số doanh nghiệp đăng ký trong 10
năm trước đó. Năm 2000, GDP KTTN chiếm 42,3% GDP toàn quốc.
Trong đó các ngành phi nông nghiệp có mức đóng góp chiếm tỷ lệ khá
cao bằng 63,6% khu vực KTTN, hay bằng 26,87% GDP toàn quốc, tăng
25,94% so với năm 1995, mức tăng bình quân 7%/năm. Còn đối với các


17

ngành phi nông nghiệp, KTTN chiếm 15,4% GDP cả nước hay chiếm
62,3% GDP của nông nghiệp nói chung. [15, tr.8].

Đến 2005 cả nước có 12.793.878 hộ KD cá thể. Trong đó có
9.656.165 hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã, 3.137.713 hộ kinh doanh
phi nông nghiệp.
Thứ tư, KTTN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, thúc đẩy cạnh tranh và làm lớn mạnh đội ngũ doanh
nhân Việt Nam.
Hiện nay, KTTN đã tham gia hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực
sản xuất KD. Trong đó, nhiều lĩnh vực, ngành nghề KTTN chiếm tỷ
trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nuôi trồng thủy sản,
hàng hóa, bán lẻ, thủ công mỹ nghệ, giày dép, dệt may…đã mang về
hàng tỷ USD cho nền kinh tế. Riêng năm 2005, KTTN đã đóng góp tới
48,5% kim ngạch xuất khẩu. Chính sự phát triển phong phú đa dạng các
cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các hình thức KD…của khu vực KTTN
đã giúp cho các doanh nghiệp đững vững trên thị trường. Qua đó thúc
đẩy sự cạnh tranh gữa các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN làm cho nền kinh tế càng trở nên năng động. Bởi vì
khi tham gia thị trường, các doanh nghiệp đều phải chịu tác động của quy
luật cạnh tranh. Cho nên cạnh tranh vừa là quy luật vừa là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển trong KD của KTTN. Các doanh nghiệp phải
không ngừng mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng hàng hóa để thích
ứng với thị trường và nâng cao sức cạnh tranh.
Sự phát triển của khu vực KTTN góp phần mở mang ngành nghề
và lưu thông hàng hóa. Sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, đưa
đến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng địa phương và trên cả nước.
Với khả năng phát triển trên nhiều ngành nghề, sản phẩm, trong
những năm gần đây KTTN có xu hướng phát triển mạnh trong những
ngành CN, may mặc. Những năm đầu đổi mới, KTTN chủ yếu đầu tư
vào các ngành thương mại, dịch vụ chiếm hơn 70% tổng số vốn đầu tư
của khu vực KTTN .
Tham gia thị trường phải tuân thủ luật chơi, chịu tác động của quy

luật cạnh tranh. Cạnh tranh vốn là đặc tính của kinh tế thị trường, đồng
thời cũng là yếu tố chi phối, điều tiết trực tiếp hoạt động của doanh
nghiệp tư nhân. Nói cách khác, cạnh tranh vừa là động lực vừa là nhân tố
quyết định sự tồn tại, phát triển nói chung và sự vận động của KTTN nói
riêng. Vì vậy KTTN phải tận dụng ưu thế riêng có của mình để góp phần
mở rộng ngành, nghề sản xuất và khâu lưu thông hàng hóa, sản phẩm


18

ngày càng đa dạng, phong phú với sự cạnh tranh ngày càng cao. Một số
sản phẩm đã góp phần chặn đứng, đẩy lùi sự xâm nhập của hàng ngoại
nhập. Đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động tốt, tạo
được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, sản phẩm hàng hóa được
người tiêu dùng tín nhiệm. KTTN đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. [15, tr.9].
Bên cạnh đó KTTN còn góp phần dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH đất nước. Như vậy, các hộ KD cá thể, tiểu chủ hay các loại
hình doanh nghiệp tư nhân đều có xu hướng đầu tư vào lĩnh vực thương
mại - dịch vụ. Nguyên nhân là do vốn đầu tư không lớn, vòng quay vốn
nhanh, nhanh chóng thu hồi vốn, đảm bảo mục tiêu sinh lợi nhanh. Xu
hướng này không chỉ thể hiện qua số lượng, cơ cấu, các loại hình doanh
nghiệp mà còn thể hiện qua cơ cấu vốn đầu tư, số lao động sử dụng,
doanh thu nộp thuế…Sự tập trung của KTTN vào lĩnh vực thương mại,
dịch vụ…cũng góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống vật chất,
văn hóa của nhân dân. Từ đó đã kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong cả nước theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng dần tỷ
trọng CN, thương mại, dịch vụ trong nền kinh tế.
Nhờ đổi mới và phát triển khu vực KTTN, chúng ta từng bước
hình thành được đội ngũ doanh nhân hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực,

các ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân, với số lượng ngày càng lớn,
chất lượng ngày càng cao.
KTTN trong tỉnh An Giang cũng đã tham gia xuất khẩu trực tiếp,
chủ yếu là hàng thủy sản, lúa gạo và sản phẩm may mặc. Trong hai năm
gần đây kim ngạch xuất khẩu và sản lượng của KTTN chiếm khoảng 2/3.
KTTN còn đóng góp vào phát triển du lịch của tỉnh chiếm tỷ lệ 93%,
trong khi đó đóng góp của liên doanh nước ngoài chiếm tỷ lệ 2% và của
doanh nghiệp Nhà nước là 5%. Và đã hình thành một số gương tiêu biểu
điển hình, nhân tố mới của KTTN tại địa phương như:
+ Công ty Nam Việt, tên viết tắt NAVIFISHCO. Là đơn vị KTTN
đầu tiên trong tỉnh đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thủy sản, bắt đầu
hoạt động từ năm 2002 với tổng số vốn đầu tư ban đầu khoảng 50 tỷ
đồng. Đến nay tổng giá trị đầu tư của công ty hơn 500 tỷ đồng, giải quyết
việc làm cho hơn 2.500 lao động.
+ Công ty TNHH may xuất khẩu Đức Thành, tên viết tắt
DUCTHANH GARMENT IMPORT & EXPORT Co.Ltd. Vốn đăng ký
kinh doanh 4 tỷ đồng, hiện tổng giá trị đầu tư hơn 49 tỷ, giải quyết việc
làm cho hơn 1.116 lao động.


19

Từ sự phân tích trên cho thấy vai trò quan trọng ngày càng tăng
của KTTN trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN. Đặc biệt là trong các lĩnh vực tăng vốn đầu tư và sử dụng vốn
đạt hiệu quả cao, giải quyết việc làm và đào tạo nguồn lao động, tăng sức
cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế v.v…KTTN thật sự trở thành yếu
tố năng động của nền kinh tế quốc dân và tồn tại lâu dài trong cơ cấu của
nền kinh tế quốc dân và tồn tại lâu dài trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần. Do đó, Đảng, Nhà nước cần có một chiến lược để KTTN thật sự

hòa nhập vào cộng đồng với tinh thần công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã
hội trong tiến trình CNH, CNH đất nước.
KTTN tồn tại khách quan và phát triển lâu dài trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Nó vận động và biến đổi theo sự phát triển
của lực lượng sản xuất và chịu sự tác động của các quy luật thị trường và
sự quản lý của Nhà nước. Những tác động này thúc đẩy KTTN vận động
và phát triển trên các hướng chủ yếu sau:
- KTTN phát triển đa dạng dưới nhiều hình thức và quy mô khác
nhau, trong đó phần lớn sẽ hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một
bộ phận phát triển theo qui mô kinh tế gia đình và có thể là hộ kinh tế gia
đình của nhiều thế hệ, một số ít có năng lực và có khả năng quản lý tốt,
có thể trở thành tư bản tư nhân và sẽ liên doanh với Nhà nước, hình
thành kinh tế tư bản Nhà nước.
- KTTN tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực sản xuất
KD ở cả thành thị và nông thôn với số lượng ngày càng tăng và ngày
càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội, tổng
sản phẩm trong nước, kim ngạch xuất khẩu, góp phần tăng tốc độ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh, trở thành một khu vực
kinh tế mạnh trong cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tạo nhiều việc làm,
tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân và xóa đói giảm nghèo.
- Trong quá trình vận động và phát triển, tất yếu sẽ diễn ra sự liên
kết, hợp tác giữa các đơn vị KTTN với nhau và với các đơn vị thuộc các
thành phần kinh tế khác hình thành các loại kinh tế đa dạng, hỗn hợp
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTN
được Đại hội IX xác định: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế KD theo pháp luật
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong



20

đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân”; kinh tế tư bản tư nhân “được khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất, KD mà pháp luật không cấm”.[15, tr.11].
Với quan điểm nhất quán về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN trong suốt thời kỳ quá độ. Với chủ
trương khuyến khích KTTN đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài,
với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho
quốc kế dân sinh. Đảng và Nhà nước cần có chiến lược và chính sách
phát triển KT-XH của đất nước.
KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân
phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, CNH, HĐH, nâng
cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên tinh thần đó Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN. Đặc biệt
xác định rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa IX).
Hội nghị Trung ương 5 có quan điểm chỉ đạo: Nhà nước tôn trọng
và đảm bảo quyền tự do KD theo pháp luật; tạo môi trường KD thuận
lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp tư nhân
phát triển rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm,
không hạn chế quy mô nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà
nước. Đảng và Nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ lợi ích chính đáng
của cả người lao động và người sử dụng lao động. Chăm lo bồi dưỡng,

giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của các tổ chức chính trị - xã
hội và các hiệp hội đối với phát triển KTTN.
Để cụ thể hóa các quan điểm của Đảng trong phát triển KTTN
không thể không tăng cường sự quản lý của Nhà nước nhằm xây dựng và
hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với
các đơn vị sản xuất, KD; xây dựng quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ
quản lý cho doanh nghiệp, giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật, chế độ, chính sách Nhà nước của doanh nghiệp cũng như nắm
chắc tình hình đăng ký KD và hoạt động của các cơ sở KD. Nhà nước có
trách nhiệm hỗ trợ, hướng dẫn, tạo điều kiện, để KTTN phát triển trong


21

mối quan hệ bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Việc hỗ trợ này
cũng là để dẫn dắt thành phần KTTN phát triển theo định hướng XHCN.
Trong quá trình chỉ đạo, triển khai phát triển KTTN. Tỉnh ủy An
Giang có chỉ thị số 09-CT/TU. AG ngày 24/7/2002, xác định KTTN giữ
vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh, góp phần rất lớn trong việc
phát huy nội lực; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; giải quyết việc
làm và là nguồn đóng góp chủ yếu cho ngân sách thành phố nói riêng
cho ngân sách của tỉnh An Giang nói chung; góp phần quan trọng cho
tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Các cấp, các ngành có
trách nhiệm tạo điều kiện và giúp đỡ KTTN phát triển không hạn chế
quy mô. Nghiêm cấm mọi biểu hiện đối xử không bình đẳng, hoặc cản
trở hoạt động hợp pháp của KTTN. UBND tỉnh cũng ban hành các
chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển
KTTN như: chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư đối với một số

lĩnh vực, ngành nghề trên địa bàn tỉnh; chính sách ưu đãi đầu tư đối với
xây dựng khu dân cư và nhà ở đô thị; chính sách ưu đãi đầu tư vào các
khu CN; khu kinh tế cửa khẩu; chính sách khen thưởng xuất khẩu; khen
thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong kêu gọi đầu tư.
Bên cạnh đó trong báo cáo chính trị tại Đai hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ VII cũng đã đề cập đến vấn đề KTTN: “Chính sách ưu đãi
đầu tư để KTTN phát triển”: có chính sách và sử dụng tốt các công cụ
quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi cho KTTN phát triển, được bình
đẳng, đúng pháp luật. Áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư về vốn, tín
dụng, thuế, thuê mướn đất đai,…cho các tổ chức, các ngành hàng xuất
khẩu, giải quyết được nhiều lao động. Bồi dưỡng nâng cao trình độ quản
trị KD cho các nhà quản lý doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ tư
nhân. Cải tiến nhanh các thủ tục về đầu tư, quyền sử dụng đất, đăng ký
KD, cho vay, thuế…được thuận lợi. Khuyến khích việc hợp tác đan xen
các thành phần kinh tế thông qua hợp đồng với nhiều phương thức giữa
người sản xuất - doanh nghiệp - ngân hàng, tạo sự gắn kết về lợi ích và
liên đới trách nhiệm từ sản xuất, vay vốn, chế biến đến tiêu thụ sản
phẩm. Qua đó khắc phục được tình trạng bất ổn định về nguyên liệu làm
ra khi thừa khi thiếu.
Để phát huy vai trò KTTN, trước hết cần phải xóa bỏ hết định kiến
giữa các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư bản tư nhân; phải nhận
thức đúng đắn về vị trí, vai trò, xu hướng vận động và phát triển của nó
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; nhất quán về quan điểm
chỉ đạo và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để


×