Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Tìm hiểu phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã an nông, huyện tịnh biên, tỉnh an giang từ năm 2006 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.47 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

---›---

NGUYỄN THỊ ÚT
DH8CT

TÌM HIỂU PHONG TRÀO XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở XÃ AN NÔNG, HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Khóa học: 2007-2011

An Giang, 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

---›---

NGUYỄN THỊ ÚT
DH8CT

TÌM HIỂU PHONG TRÀO XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở XÃ AN NÔNG, HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Khóa học: 2007-2011
Ngành học: Sư phạm Giáo dục chính trị
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Vân

An Giang, 2011


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám Hiệu Trường Đại học An Giang, quý thầy cô trong
Khoa Lý luận chính trị đã truyền thụ kiến thức và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm.
- Cô Nguyễn Thị Vân đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp
đỡ em rất nhiều trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
- Đảng ủy xã An Nông, Ủy ban nhân dân xã An Nông, Phòng
Văn hóa-Thông tin xã An Nông đã cung cấp những số liệu và thông tin
cần thiết giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Út


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................4
5. Đóng góp của khóa luận..................................................................................4
6. Kết cấu của khóa luận ....................................................................................4

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ GIA ĐÌNH VÀ XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA.........................................................................6
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và việc xây dựng
gia đình ...............................................................................................................6
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về gia đình ..............................................6
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và xây dựng gia
đình…..................................................................................................................8
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam .....................................14
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay .................................................14
1.2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình văn hóa....14
1.2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính
sách của Nhà nước về xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay .............17
1.2.2. Vai trò của gia đình và việc xây dựng gia đình văn hóa trong xã hội
hiện nay..............................................................................................................21
1.2.3. Thực trạng của việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay24
CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU PHONG TRÀO XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN
HÓA Ở XÃ AN NÔNG, HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG TỪ
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 ...........................................................................31
2.1. Sơ lược về vị trí địa lý, tình hình kinh tế-xã hội ở xã An Nông, huyện
Tịnh Biên, tỉnh An Giang.................................................................................31


2.1.1. Vài nét về vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên của xã An Nông,
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang .......................................................................31
2.1.2. Tình hình kinh tế-xã hội của xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh
An Giang từ năm 2006 đến năm 2010 ..............................................................32

2.2. Thực trạng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An
Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010 .........35
2.2.1 Thực trạng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An
Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010 ...............35
2.2.1.1. Những nội dung xây dựng gia đình văn hóa của xã An Nông,
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang .......................................................................35
2.2.1.2. Tổ chức thực hiện......................................................................38
2.2.1.3. Đăng ký, bình xét, công nhận và khen thưởng các danh hiệu:
“Gia đình văn hóa”, “Khóm-Ấp văn hóa” ........................................................40
2.2.2. Những thành tựu và hạn chế của phong trào xây dựng gia đình văn
hóa ở xã an Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm
2010…...............................................................................................................43
2.2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân của thành tựu trong phong trào xây
dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm
2006 đến năm 2010 ...........................................................................................43
2.2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong phong trào xây
dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm
2006 đến năm 2010.…….. ................................................................................48
2.3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phong trào
xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An
Giang trong những năm tiếp theo..................................................................51
2.3.1. Phương hướng nhiệm vụ chung trong xây dựng gia đình văn hóa.51
2.3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phong trào xây dựng
gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang trong những
năm tiếp theo .....................................................................................................53
2.3.2.1. Tập trung huấn luyện cán bộ xã về kiến thức, kỹ năng cần thiết
để hỗ trợ gia đình làm kinh tế ...........................................................................53
2.3.2.2. Tiếp tục vận động các nguồn vốn trong xã, huyện, tỉnh để tăng
nguồn vốn vay cho hộ nghèo ............................................................................54



2.3.2.3. Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục về ý nghĩa và nội
dung của phong trào xây dựng gia đình văn hóa đến từng cá nhân và cộng
đồng…...............................................................................................................55
2.3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong
việc đề ra những chủ trương chính sách về công tác gia đình nhằm đưa hoạt
động của phong trào ngày càng hiệu quả hơn...................................................56
2.3.2.5. Xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia
đình và cộng đồng; tạo điều kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức
pháp luật, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và phúc lợi xã hội .........57
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................61


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường
quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn
và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hòa thuận, hạnh phúc và tiến bộ
là cơ sở, là nguồn lực để phát triển xã hội; xây dựng gia đình văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa có tính chiến lược, vừa có tính cấp bách trong sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân
tộc và phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta

đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng gia đình văn hóa.
Cốt lõi của việc xây dựng gia đình văn hóa là xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh và xây dựng con người mới, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Mặt khác, xây dựng gia đình văn
hóa chính là sự bồi đắp cho những giá trị tốt đẹp đã và đang tồn tại, phát triển,
hạn chế, đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực, làm cho phong trào xây dựng gia đình
văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu, khơi gợi được tinh thần, ý thức tự giác
tham gia của người dân, trong đó chú ý các gương gia đình vượt khó vươn lên,
làm kinh tế giỏi, gia đình hiếu học, gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc. Tuy
nhiên, hiện nay, do cơ chế mở cửa hội nhập cũng khiến nhiều mặt trái phát
sinh ảnh hưởng không ít đến tư tưởng, đạo đức trong nhân dân, vấn đề bạo lực
gia đình đã và đang trở thành nỗi lo của xã hội.
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt Nam (tháng 4 năm 2006) đã nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nội dung phong trào xây dựng gia đình văn hóa hỗ trợ tích cực và hiệu
quả cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, xây dựng nếp sống văn hóa,
Trang 1


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

là điều kiện tốt đẹp nhất để tạo ra những mảnh đất màu mỡ vun trồng tài năng

cho đất nước trên cơ sở đoàn kết xây dựng đạo đức, lối sống, đời sống văn hóa
lành mạnh, chống lại cuộc xâm lăng văn hóa độc hại, đẩy lùi các tệ nạn xã hội
đang có chiều hướng gia tăng ở nước ta hiện nay. Chúng ta tiến hành xây dựng
gia đình văn hóa, là xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại trong thời kỳ hội
nhập, song vẫn gìn giữ những yếu tố tích cực của gia đình truyền thống, phù
hợp và đáp ứng yêu cầu của phát triển trong thời kỳ mới để gia đình thực sự là
tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người, mang lại hạnh phúc và
bình yên cho mỗi cá nhân.
Trong những năm qua, phát huy nét đẹp truyền thống của gia đình Việt
Nam, phong trào xây dựng gia đình văn hóa được triển khai trên phạm vi toàn
quốc đã đóng góp tích cực vào phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở,
tạo nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển bền vững của gia đình Việt Nam. Trên
cơ sở các tiêu chí gia đình văn hóa theo Quy chế của Bộ Văn hóa-Thông tin,
các địa phương đã chỉ đạo và tiến hành tốt việc tuyên truyền phổ biến tiêu
chuẩn công nhận gia đình văn hóa, có điều chỉnh nội dung tiêu chí phù hợp
với điều kiện từng vùng, miền. Ngành Văn hóa-Thông tin và Mặt trận Tổ quốc
các cấp đã chỉ đạo bình xét công nhận gia đình văn hóa công khai, dân chủ bảo
đảm nội dung, tiêu chí đã được quy định nên chất lượng phong trào xây dựng
gia đình văn hóa ngày càng nâng lên cả về số lượng và chất lượng.
Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang
lần thứ VIII, nhiệm kì 2005-2010 đã nhấn mạnh một trong những giải pháp
chủ yếu để phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần xã hội, đó là: “Xây
dựng môi trường xã hội lành mạnh, nếp sống văn minh, gia đình văn hóa và có
lối sống hòa thuận với cộng đồng”, và để làm được điều đó cần phải: “Đa dạng
hóa các hình thức vận động để lôi cuốn mọi người tham gia và nâng chất
lượng phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” một cách
thiết thực chống hình thức. Trong đó chú ý văn hóa gia đình là hạt nhân, nền
tảng làm chuyển đổi đời sống văn hóa của cộng đồng”.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp giữa các cấp, các
ngành, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên,

tỉnh An Giang đã được triển khai, phát động sâu rộng, đáp ứng được yêu cầu,
nguyện vọng của nhân dân và được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình
hưởng ứng thực hiện. Hơn thế nữa, phong trào này cũng đã thu được nhiều kết
quả có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc giúp cho người dân có ý thức tự quản,
gắn kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm ngày càng tốt đẹp, giúp nhau xóa đói
giảm nghèo.
Trang 2


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

Tuy nhiên phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện
Tịnh Biên, tỉnh An Giang vẫn còn một số tồn tại trong quá trình triển khai
thực hiện như phong trào từng lúc, tưng nơi chưa nhận được sự quan tâm đồng
bộ của các cấp, các ngành. Một số đơn vị tổ chức của địa phương chưa thực sự
gắn bó và quan tâm đến phong trào. Chương trình phối hợp giữa các ban,
ngành, đoàn thể trong việc triển khai thực hiện phong trào thiếu đồng bộ, chưa
kịp thời dẫn đến hiệu quả chưa cao và bền vững. Công tác tuyên truyền, vận
động đã có đổi mới, nhưng chưa thường xuyên, sâu rộng đến các tầng lớp
nhân dân, cơ sở vật chất còn khó khăn, thiếu thốn nên không đạt được tiêu
chuẩn mà Quy chế đề ra. Đặc biệt là việc đánh giá, bình xét danh hiệu gia
đình, khóm, ấp văn hóa còn mang nặng tính hình thức nên không tạo được
động lực thúc đẩy phong trào, nguồn kinh phí và chế độ khen thưởng cho các
đơn vị cơ sở đạt tiêu chuẩn văn hóa còn hạn chế, nhiều cơ sở không có nguồn
kinh phí hoạt động nên chưa khuyến khích, động viên phong trào.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, tôi đã mạnh dạn chọn và thực hiện
khóa luận tốt nghiệp Sư phạm chuyên ngành Giáo dục chính trị với đề tài:
“Tìm hiểu phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện

Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu thực trạng phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An
Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phong trào xây
dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang trong
những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lí luận về gia đình và xây dựng gia đình văn hóa.
- Tìm hiểu thực trạng của phong trào xây dựng Gia đình văn hóa ở xã
An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010 để làm
rõ những đóng góp tích cực của phong trào đối với đời sống của các hộ gia
đình trong xã.
- Phương hướng nhiệm vụ chung trong xây dựng gia đình văn hóa và đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phong trào
xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng
Trang 3


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

Tìm hiểu phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện
Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An
Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình tìm hiểu tôi sử dụng một số phương pháp sau đây:
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa xã hội khoa học, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp logic, lịch sử, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh.
5. Đóng góp của khóa luận.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ là nguồn tư liệu cho Mặt trận Tổ
quốc huyện Tịnh Biên và Mặt trận Tổ quốc xã An Nông tham khảo trong việc
triển khai thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở địa phương.
- Góp phần cung cấp những căn cứ cho Đảng bộ, chính quyền xã An
Nông tham khảo trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào xây dựng gia đình văn hóa
ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang trong những năm tiếp theo.
6. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về gia đình và xây dựng gia đình văn hóa.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và việc
xây dựng gia đình.
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về gia đình.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và xây
dựng gia đình.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt
Nam về gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam.
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Vai trò của gia đình và việc xây dựng gia đình văn hóa
trong xã hội hiện nay.

1.2.3 Thực trạng của việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 2: Tìm hiểu phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông,
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
Trang 4


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

2.1. Sơ lược về vị trí địa lí và tình hình kinh tế-xã hội ở xã An Nông,
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
2.1.1. Vài nét về vị trí địa lí và đặc điểm tự nhiên của xã An
Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
2.1.2. Tình hình kinh tế-xã hội của xã An Nông, huyện Tịnh
Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
2.2. Thực trạng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã
An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
2.2.1 Thực trạng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã
An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến năm 2010.
2.2.2 Những thành tựu và hạn chế của phong trào xây dựng gia
đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang từ năm 2006 đến
năm 2010.
2.3. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả phong
trào xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An
Giang trong những năm tiếp theo.
2.3.1. Phương hướng, nhiệm vụ chung trong xây dựng gia đình
văn hóa.
2.3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phong trào

xây dựng gia đình văn hóa ở xã An Nông, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
trong những năm tiếp theo.

Trang 5


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HÓA.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và việc xây
dựng gia đình.
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về gia đình.
Mỗi ngành khoa học khác nhau lại có những quan điểm khác
nhau về gia đình:
Dưới góc độ Xã hội học nhà nghiên cứu người Nga A.Phanaxeva
cho rằng: “Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội liên kết với nhau bởi một ngân
sách chung, bằng một chỗ ở và bằng mối quan hệ huyết thống”; “Gia đình là
một nhóm nhỏ xã hội mà các thành viên bố mẹ, con cái của một vài thế hệ.
Các thành viên này có mối liên hệ ràng buộc về mặt vật chất và tinh thần theo
những nguyên tắc, mục đích sống như nhau về các vấn đề chủ yếu trong sinh
hoạt như: văn hóa, kinh tế, tình cảm, lao động, vui chơi, học tập, sinh con và
dạy con”.
Với tư cách là một tổ chức quốc tế phụ trách vấn đề chung của
thế giới, gia đình được tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc coi là một giá

trị vô cùng quý báu của nhân loại. Theo UNESCO: “Gia đình là một nhóm xã
hội gồm hai hay nhiều người gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ nhận con nuôi nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội và tái
sản xuất theo cả nghĩa thể xác và tinh thần. Gia đình là nơi đầu tiên đặt nền
móng cho sự phát triển nhân cách của trẻ em và có ảnh hưởng lâu dài suốt
cuộc đời cá nhân”.
Khi bàn về gia đình Liên Hiệp Quốc nhấn mạnh: gia đình là một
thể chế có tính chất toàn cầu nhưng có những hình thức vai trò khác nhau thay
đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, dân tộc này so với dân tộc
kia. Do đó không thể đưa ra một định nghĩa chung về gia đình có thể áp dụng
cho toàn cầu. Và: “Gia đình là một đơn vị được quy định thông qua mối liên
hệ của các cá nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ, đặc biệt ở mức độ mà những
mối quan hệ này được quy phạm và thủ tục pháp lý phê chuẩn” [25, tr.86].
Các nhà kinh tế chính trị học cho rằng: “Gia đình là một cộng
đồng người đặc biệt được hình thành và phát triển và củng cố bởi hai mối quan
Trang 6


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Các thành viên trong
gia đình có chung một giá trị vật chất và giá trị tinh thần, có quyền lợi, nghĩa
vụ và trách nhiệm về tài sản cũng như người thân là mục tiêu cao nhất là sự
phát triển kinh tế, nuôi dưỡng các thành viên và xây dựng gia đình bền chặt”
[23, tr.135].
Theo điều 8, Luật hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2000: “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi

giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” [19, tr.290].
Dưới góc độ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu gia đình
trong tổng thể học thuyết về sự phát sinh, hình thành và phát triển của xã hội
xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu này chủ yếu nhằm làm rõ vị trí, vai trò của
gia đình và định hướng cơ bản để xây dựng gia đình mới vì sự nghiệp giải
phóng con người và xã hội: “Gia đình là một trong những hình thức tổ chức
căn bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa-xã hội
đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên”
[12, tr.246].
Các nhà nghiên cứu thuộc trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia ở Việt Nam cũng đã có nhiều cách định nghĩa về gia đình:
Theo Phó giáo sư Ngô Công Hoàn: “Gia đình là một nhóm nhỏ
xã hội có mối quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có
chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm nhất định”;
“Gia đình là một đơn vị, một nhóm nhỏ nhất của xã hội với số lượng thành
viên ít nhất là hai người vợ và chồng, sau đó sinh sôi, nảy nở thêm con cái
trong đó mối quan hệ vợ chồng là giường cột”
Giáo sư Trần Trọng Thủy quan niệm: “Gia đình là một nhóm
nhỏ xã hội, liên kết với nhau bởi những mối quan hệ hôn nhân, huyết thống
hay nhận con nuôi, tạo thành một hệ thống riêng biệt, tác động qua lại và giao
tiếp lẫn nhau qua vai trò xã hội của từng người: là chồng, là vợ, là cha, là mẹ,
là con trai, là con gái, anh em tạo thành một nền văn hóa chung”. Như vậy,
theo Giáo sư Trần Trọng Thủy, gia đình còn là một cộng đồng văn hóa thu nhỏ
trong nền văn hóa của dân tộc-đó là cái làm nên gia phong, gia lễ của gia đình.
Các quan điểm nêu trên đều tìm cách đưa ra một cách hiểu chung
nhất về gia đình, dù có khác nhau về hình thức ngôn từ, nhưng giữa chúng vẫn
có những điểm chung, đó là:

Trang 7



Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

- Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù của loài người, một
đơn vị xã hội cơ bản, là một tế bào của xã hội. Nói cách khác, gia đình chính
là một xã hội vi mô trong cái xã hội vĩ mô-cộng đồng, dân tộc. Gia đình chính
là cái gốc để tạo nên xã hội; cái nôi để hình thành và hoàn thiện con người.
- Gia đình nó vốn được liên kết trong mối quan hệ huyết
thống giữa các thế hệ, các thành viên; với những nét tương đồng về tình cảm.
- Gia đình là tế bào của cơ thể xã hội. Gia đình hạnh phúc sẽ
là nền tảng cho sự ổn định của cộng đồng, cho sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và xây
dựng gia đình.
Theo C.Mác và Ăngghen: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của
bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở đó
là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”.
Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa
gia đình và xã hội. Quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình
trao đổi chất duy trì sự sống giữa tế bào và một cơ thể sinh vật. Trong đó, có
thể ví xã hội là một cơ thể hoàn chỉnh và không ngừng biến đổi được sắp xếp,
tổ chức theo nhiều mối quan hệ mà gia đình là tế bào, một thiết chế cơ sở đầu
tiên.
Trong mối quan hệ mật thiết gữa gia đình và xã hội thì trình độ phát
triển về mọi mặt của xã hội quyết định hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô
của gia đình. C.Mác lưu ý rằng: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết
học, tôn giáo, gia đình, văn học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở phát triển kinh
tế” [5, tr.271].

Như chúng ta đã biết tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền,
đạo đức, khoa học còn tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nó
phản ánh tồn tại xã hội đồng thời cũng chịu sự tác động trực tiếp từ tồn tại xã
hội. Tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật
được Mác khẳng định là hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật
chung của sản xuất. Quy luật đó là: “Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
Thực tế lịch sử cho thấy, gia đình lần lượt biến đổi tương ứng
với những giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Như Moocgan từng nói: “Gia
đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng yên một chỗ mà chuyển
từ một hình thức thấp lên hình thức cao, khi xã hội phát triển từ giai đoạn thấp
lên giai đoạn cao” [20, tr.36].

Trang 8


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ nhất và cơ bản
nhất. Một xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cần phải giải quyết nhiều vấn
đề trong đó có vấn đề cơ bản như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nhà ở, các
đồ dùng cần thiết khác, bổ sung các thành viên mới bằng cách sinh đẻ các thế
hệ sau, chăm sóc và lưu truyền lại cho các thế hệ trẻ ngôn ngữ, kinh nghiệm,
xã hội, các giá trị mà xã hội coi trọng, chuẩn bị cho các thành viên trẻ tuổi có
thể đảm nhận vai trò của người lớn trong sản xuất và trong đời sống gia đình.
Nói cách khác, do nhu cầu sống còn, xã hội cần có nhóm người với sứ mệnh
chuyên trách thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với đời sống
cộng đồng mang ý nghĩa xã hội. Những nhóm người hoặc tổ chức, cơ quan đó

gọi là thể chế, thực hiện nhiệm vụ, công việc quan trọng nhằm đáp ứng các
nhu cầu của xã hội ấy chính là chức năng của xã hội của thể chế. Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho
đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Một mặt là sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, ra quần áo, nhà ở và công cụ cần thiết để sản
xuất ra những thứ đó. Mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự
truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội trong đó những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại
sản xuất đó quyết định: một là do trình độ phát triển của lao động, mặt khác là
trình độ phát triển của gia đình” [4, tr.26].
Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước”, Ăngghen đã có một nhận định sâu sắc về chế độ công xã
nguyên thủy, chế độ nô lệ, và trên một mức độ nhất định về chế độ phong
kiến. Nhờ vậy mà việc lí giải một cách thực sự khoa học, duy vật toàn bộ tiến
trình lịch sử toàn thế giới, đã có được một sự phát triển cụ thể hơn nữa. Trong
tác phẩm này, lần đầu tiên việc giải thích một cách khoa học, duy vật lịch sử
xã hội loài người ở các giai đoạn sớm nhất, đã được trình bày một cách có hệ
thống; nó đã chỉ rõ lịch sử phát triển của gia đình trong các hình thái kinh tếxã hội khác nhau, quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình
hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu, đã khám phá ra nguồn
gốc và bản chất của nhà nước, đã chứng minh tính tất yếu lịch sử của sự diệt
vong của nhà nước trong xã hội cộng sản không giai cấp.
Một trong những vấn đề vô cùng quan trọng mà Ăngghen dành
cho tác phẩm của mình để bàn đến là lịch sử của gia đình, vị trí và vai trò của
gia đình trong đời sống xã hội.
Ăngghen nhấn mạnh rằng trong những giai đoạn đầu tiên của sự
phát triển xã hội, những quan hệ gia đình, những mối dây thân tộc có ảnh
Trang 9


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm


SVTH: Nguyễn Thị Út

hưởng lớn đến chế độ xã hội, nhưng các lực lượng sản xuất càng phát triển thì
tình hình có thay đổi đi. Sự phát triển của sản xuất, sự phát triển của năng suất
lao động và việc sở hữu tư nhân xuất hiện đã phá vỡ xã hội cũ dựa trên những
quan hệ thị tộc, thay thế nó là một xã hội mới, “trong đó chế độ gia đình hoàn
toàn phục tùng những quan hệ sở hữu, và trong xã hội ấy từ nay tự do triển
khai những mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp tạo thành nội dung của
toàn bộ lịch sử thành văn cho đến tận ngày nay” [21, tr.215].
Là một nhà duy vật biện chứng triệt để, từng bước một Ăngghen
xét xem những hình thái gia đình đã phát triển và thay đổi như thế nào, tùy
theo những biến đổi trong phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
Trong thời kỳ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã từng tồn tại các
hình thức khác nhau của chế độ quần hôn, sau đó đã xuất hiện hôn nhân đối
ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một thời kỳ ít nhiều kéo dài. Cuối
cùng, chế độ một vợ một chồng xuất hiện.
Không hài lòng với những tài liệu của Moocgan, Ăngghen đã lấy
cả những công trình nghiên cứu của các nhà bác học khác, sử dụng rộng rãi
những tác phẩm văn học nghệ thuật cổ đại, đặc biệt là những trường ca của
Hôme, những tác phẩm của sáng tác dân gian. Ăngghen đã sử dụng những tác
phẩm của M.M.Côvalepxki, và đã nhận xét rằng khoa học chịu ơn nhà bác học
Nga này rất nhiều vì ông đã chứng minh công xã gia đình gia trưởng ở các dân
tộc Xlavơ và các dân tộc phương Đông đã tạo thành một bước quá độ từ gia
đình do chế độ quần hôn đẻ ra và dựa trên chế độ mẫu quyền, tới gia đình cá
thể hiện đại.
Nền kinh tế gia đình cộng sản nguyên thủy, trong đó người phụ nữ giữ
vai trò chủ yếu, là cơ sở kinh tế của các gia đình đầu tiên. Những người phụ
nữ thống trị trong nền kinh tế đó thường thuộc về một thị tộc, trong khi đó thì
đàn ông thuộc về những thị tộc khác nhau. Thân tộc chỉ được xác lập theo hệ

mẹ. Cùng với đà phát triển của các lực lượng sản xuất, ảnh hưởng của phụ nữ
trong đời sống kinh tế và quan hệ xã hội bị giảm sút. Với sự xuất hiện của chế
độ tư hữu, mẫu quyền bị sụp đổ và bước chuyển sang chế độ thừa kế theo hệ
cha được thực hiện. Thông qua hình thức trung gian của gia đình gia trưởng,
sự phát triển dẫn tới gia đình một vợ một chồng (chế độ hôn nhân cá thể), duy
trì cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, hôn nhân cá thể ra đời tuyệt nhiên không
phải với tính cách là sự liên kết tự nguyện giữa người đàn ông và người đàn bà
thỏa thuận với nhau và yêu nhau “nó xuất hiện với tính cách sự nô dịch của
một giới này đối với giới kia, là việc tuyên bố sự mâu thuẫn giữa hai giới, mà
toàn bộ lịch sử trước đó, chưa hề biết đến; chế độ hôn nhân cá thể là một tiến
Trang 10


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

bộ lịch sử vĩ đại, nhưng bên cạnh chế độ nô lệ và của cải tư nhân, nó đồng thời
mở ra một thời kỳ kéo dài cho đến ngày nay trong đó mỗi sự tiến bộ đồng thời
cũng có nghĩa là một sự thụt lùi tương đối, khi phúc lợi và sự phát triển của
những người này được thực hiện nhờ sự đau khổ và áp chế của những người
khác. Chế độ hôn nhân cá thể là cái tế bào của xã hội văn minh mà căn cứ vào
đó thì chúng ta đã có thể nghiên cứu được bản tính của những mặt đối lập và
những mâu thuẫn đã phát triển đầy đủ trong xã hội đó” [21, tr.217].
Ăngghen phê phán gay gắt gia đình tư sản hiện đại mà các tư tưởng gia
tư sản xem như là một hình thức gia đình lý tưởng, như là hiện thân cao nhất
của đạo đức. Trên thực tế, cơ sở gia đình loại ấy thường là một cuộc hôn nhân
có tính toán. Nhưng Ăngghen nhấn mạnh trong xã hội tư sản, trong các giai
cấp bị áp bức, trước hết là trong giai cấp vô sản, đang hình thành những cuộc
hôn nhân trong đó tình cảm yêu thương và kính trọng lẫn nhau giữ vai trò

quyết định. Đó là sự liên kết tự nguyện của những con người bình đẳng. Và
theo Ăngghen yếu tố quyết định nhất của hôn nhân và gia đình là phải trên cơ
sở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ coi tình yêu là cơ sở tinh thần chủ yếu,
Ăngghen cho rằng: “Tình yêu là trạng thái say mê rất thực nhưng không rơi
vào tầm thường dung tục” [20, tr.120].
Kết thúc sự phân tích toàn diện của mình về sự phát sinh và phát
triển của các hình thức gia đình khác nhau, Ăngghen đặt vấn đề là gia đình sẽ
biến đổi như thế nào “sau khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu”.
Ông nói rằng “ Một thế hệ mới sẽ lớn lên: một thế hệ đàn ông không bao giờ
phải dùng tiền hoặc dùng một quyền lực xã hội nào khác để mua người đàn bà,
và một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho người đàn ông vì một
lý do nào khác ngoài tình yêu chân chính hoặc phải từ chối không gần gũi
người đàn ông yêu quý vì sợ những hậu quả kinh tế” [21, tr.218]. Những con
người mới đó sẽ kiên quyết đoạn tuyệt với sự bẩn thỉu và dối trá của những
quan hệ gia đình tư sản.
Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen trong suốt tiến
trình xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, bao giờ các ông cũng dựa vào
những tiền đề hiện thực. Những tiền đề hiện thực này thường được các ông sử
dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để nghiên cứu, mổ xẻ các quá trình
xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn, các xu hướng vận động
và phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được biểu hiện một cách cụ
thể qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, phạm trù con người, phạm trù
sở hữu,… Ở đây, điều đáng nói là, tất cả các phạm trù này đều có liên quan
đến phạm trù gia đình. Bởi, trong quan niệm của các ông, gia đình là tế bào
Trang 11


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út


của xã hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu
thụ sản phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con
người; từ chỗ tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu.
Và ngược lại, các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao
động, giáo dục và đào tạo,… đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc làm
biến đổi hình thức và kết cấu của gia đình.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề gia đình như vậy, nên trong
các tác phẩm của mình khi nói đến gia đình C.Mác và Ph.Ăngghen thường
phân tích rất sâu sắc và thiết thực về vai trò, vị trí, nguồn gốc của gia đình.
Các ông đã xem xét gia đình với tư cách một xã hội thu nhỏ, xem xét các hình
thức lịch sử của gia đình, xem xét gia đình với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất; nghiên cứu mối quan hệ giữa gia đình và nhà nước, nghiên
cứu gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và gia đình dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa tương lai. Không chỉ thế, các ông còn nghiên cứu gia đình trong quan hệ
tín giao-vấn đề trong hôn nhân, và gia đình với tư cách yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất trong lịch sử phát triển xã hội.
Có thể nói, vấn đề gia đình trong di sản lí luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ dừng lại ở khái niệm “gia đình” thuần túy, mà còn
vượt qua hình thức gia đình để khám phá nguồn gốc gia đình, tác động của gia
đình tới xã hội và ảnh hưởng của những biến đổi xã hội tới gia đình, đặc biệt
là ảnh hưởng của sự biến đổi kinh tế, của tiến trình công nghiệp hóa.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ con người
đã được hình thành trong lịch sử nhân loại:
Mối quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa con người với tự nhiên,
quan hệ phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên, nghiên cứu tự nhiên để tồn
tại và cũng để nhằm thỏa mãn những nhu cầu không ngừng nảy sinh của con
người.
Mối quan hệ thứ hai là quan hệ giữa con người với con người

trong quá trình sản xuất, quan hệ phản ánh các quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động.
Mối quan hệ thứ ba là quan hệ gia đình. Theo các ông, quan hệ
gia đình tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển của lịch sử. Và các ông
cũng cho rằng ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng
tồn tại bên nhau: “Sự sản xuất ra đời sống-ra đời sống của bản thân mình bằng
lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái-biểu
Trang 12


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác
là quan hệ xã hội” [3, tr.42]. Khẳng định sự tồn tại đan xen của ba mối quan hệ
này, trong thư gửi Paven Vaxilievích Annencốp, ngày 28 tháng Chạp 1846,
C.Mác còn chỉ rõ: Khi xem xét “ một trình độ phát triển của sản xuất của con
người”, chúng ta “thấy được một hình thức nhất định của trao đổi và của tiêu
dùng”, và khi xem xét “một trình độ phát triển nhất định của sản xuất, của trao
đổi và tiêu dùng”, chúng ta “thấy một chế độ xã hội nhất định, một hình thức
tổ chức nhất định của gia đình, của các đẳng cấp và giai cấp”.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, nhờ
nghiên cứu các hình thức gia đình, chúng ta mới có thể hiểu rõ hơn nội dung
của lực lượng sản xuất (quan hệ thứ nhất), nội dung của quan hệ sản xuất
(quan hệ thứ hai) và ngược lại. Không chỉ thế, khi nhấn mạnh vai trò của gia
đình đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác
và Ph.Ăngghen còn cho rằng, thực ra, gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất”
trong buổi đầu của lịch sử xã hội. Nhờ quan hệ thứ ba này, với chức năng sinh

con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác.
Và, theo ý nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá
thể người, gắn kết các cá thể người thành xã hội và khi xã hội loài người được
hình thành thì những hoạt động của nó thường xuyên tác động tới gia đình làm
cho gia đình biến đổi cả về hình thức, cấu trúc cũng như vai trò của nó đối với
xã hội. Chính vì vậy, các ông luôn đòi hỏi nghiên cứu gia đình, nghiên cứu
lịch sử loài người phải gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của sự trao đổi
sản phẩm.
Và khi xem xét mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và sự phát triển
của nền công nghiệp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự tồn tại song
trùng của hai quá trình. Thứ nhất, quá trình tồn tại và phát triển của gia đình
với những nhu cầu vật chất và tinh thần đã thúc đẩy quá trình phát triển nền
công nghiệp. Thứ hai, quá trình phát triển nến công nghiệp đã tác động trở lại
gia đình, làm thay đổi kết cấu gia đình, thay đổi nhu cầu vật chất và tinh thần
của mỗi một thành viên trong gia đình.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khẳng định sự vận hành của mỗi quá trình đó đếu mang tính khách quan và
phổ biến. Các ông cho rằng, sự ra đời của nền sản xuất bằng máy móc hiện
đại-nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất mới đã dần
xóa bỏ toàn bộ hệ thống công trường thủ công , đã thay đổi sự phân bố dân cư
và kết cấu ngành nghề của xã hội và do vậy, sự “yên ấm” của từng gia đình
cũng bị phá vỡ theo dòng xoáy của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không chỉ
Trang 13


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

thế, nó còn làm thay đổi vị trí và điều kiện sinh sống của gia đình, thay đổi

nhu cầu sản xuất những giá trị vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong
gia đình. Nếu trước đây, nhu cầu tiêu dùng “được thỏa mãn bằng những sản
phẩm trong nước”, thì nay đã “nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được
thỏa mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về” và
một khi “sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém
như thế”, nó làm cho “những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân
tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc”. Nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa cũng xóa bỏ tình trạng cát cứ của các địa phương và các dân tộc để
thay thế nó bằng những quan hệ phổ biến giữa các dân tộc.
Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa cũng phá vỡ các quan hệ sản
xuất phong kiến, thay đổi kết cấu xã hội, thay đổi quan hệ giữa các giai tầng
xã hội. Sự thay đổi này khiến cho quan hệ giữa người tự do và nô lệ, quý tộc
và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả và thợ bạn bị xóa bỏ để nhường chỗ
cho sự hình thành và lớn mạnh của hai giai cấp lớn đối lập nhau là giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản. Trên hết, nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa còn tạo
ra một chế độ xã hội và chính trị thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở
hạ tầng mới. Nó xóa bỏ mọi phẩm chất và đức hạnh do chế độ phong kiến tạo
dựng; nó “tước hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay
vẫn được trọng vọng và tôn sùng”; nó biến đổi cả quan hệ gia đình vốn được
xem là thiêng liêng nhất, “xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ
gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn
thuần”.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam
về gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam.
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay.
1.2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình
văn hóa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình đã phát triển ở tầm cao mới.
Với Người: “Gia đình là hạt nhân của xã hội. Mọi gia đình đều đoàn kết cộng

lại thành xã hội đại đoàn kết: Đại đoàn kết là sức mạnh vô địch của nhân dân
ta trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trong
sự nghiệp đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà” [16, tr.662].
Điều này cho thấy gia đình không tồn tại một cách cô lập mà luôn có mối quan
hệ với xã hội, gia đình tốt thì xã hội tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Trong
mối quan hệ với xã hội, gia đình là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối, chủ
Trang 14


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

trương, chính sách của Đảng và nhà nước, gia đình còn là nơi bảo lưu, truyền
thụ nền văn hóa của dân tộc. Mặt khác sự phát triển của xã hội cũng trực tiếp
tác động đến sự phát triển của gia đình cả về kết cấu, chức năng, đời sống vật
chất và đời sống tinh thần.
Vì gia đình là hạt nhân của xã hội nên Bác nói: “Chính vì muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”, nghĩa là cần phải
quan tâm chăm lo đến gia đình và xây dựng đời sống gia đình sao cho gia đình
thật sự là “tổ ấm” của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Xây dựng
đời sống cho nhân dân phải được tiến hành từ xây dựng nếp sống văn hóa.
Ngay từ những năm 1946, trong công cuộc kháng chiến Kiến quốc, Người đã
viết tác phẩm: “Đời sống mới” rất sinh động, sâu sắc, nhằm động viên, kêu gọi
các tầng lớp nhân dân thực hành đời sống mới với tinh thần rất rõ là: “Làm thế
nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được khỏe
mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới” [14, tr.953]. Quan điểm xây dựng
đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức rõ ràng, cụ thể, thiết thực, có
kế thừa, bảo tồn, phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp mang tính truyền
thống, loại trừ những hủ tục lạc hậu, không phù hợp: “Đời sống mới không

phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì mới cũng làm. Cái gì cũ mà không
xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới
hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Thí
dụ: ta phải tương thân, tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân”, “Cái gì
mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có
ngăn nắp” [14, tr.95]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nếu mọi người đều
làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường.
Thực hiện theo quan điểm đó của Người, phong trào xây dựng
nếp sống mới đã được phát động rộng rãi trong quần chúng nhân dân, thực sự
có hiệu quả. Từ một hiện tượng ở thôn Ngọc Tĩnh, xã Ngọc Long, huyện Yên
Mỹ (Hưng Yên) xuất hiện cách đây 50 năm với việc xây dựng: “Gia đình văn
hóa mới”: các gia đình tự nhóm họp, bàn bạc thống nhất giúp đỡ tương trợ
nhau xây dựng gia đình văn hóa mới, sau đó phong trào được nhân rộng ra
trên miền Bắc rồi trong phạm vi cả nước. Chính vì vậy, nơi đây được gọi là
quê hương của phong trào: “Gia đình văn hóa”. Cuộc vận động xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa đến nay đã được thực hiện trên phạm vi cả
nước, tất cả các địa phương và cơ sở đã và đang thu được kết quả tốt. Nhiều
hủ tục trong việc cưới, việc tang, lễ hội và các sinh hoạt đã được loại bỏ. Một
số lễ thức mới được hình thành trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các nét đẹp của
phong tục tập quán truyền thống, phù hợp với đời sống xã hội ngày càng phát
Trang 15


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

triển. Phong trào xây dựng xã-phường văn hóa, khu dân cư, làng, bản, buôn,
thôn, ấp, khóm văn hóa đã mang lại hiệu quả to lớn, có tác động tích cực trở
lại cho phong trào xây dựng gia đình văn hóa, góp phần thúc đẩy kinh tế phát

triển, làm thay đổi diện mạo đời sống ở cơ sở, nhất là những vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa đang thấm sâu vào từng
người, từng gia đình, từng cộng đồng dân cư, làng, thôn, ấp, bản sâu rộng cả
nước, với sự tham gia của các bộ, ngành, tổ chức chính trị-xã hội và đoàn thể
trở thành cuộc vận động văn hóa rộng lớn chưa từng có. Niềm tin của dân với
Đảng ngày càng gắn bó. Thực hiện xây dựng nếp sống văn hóa và tham gia
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa là thực hiện đúng theo tư tưởng
Hồ Chí Minh: “Chúng ta đồng tâm mà làm, quyết tâm mà làm thì đời sống
mới nhất định thực hiện được. Mong toàn thể đồng bào gắng sức theo đời sống
mới, xây dựng một nước Việt Nam phú cường” [14, tr.110].
Để xây dựng đời sống cho gia đình tốt hơn theo Bác cần phải
xây dựng kế hoạch gia đình và cán bộ phụ trách công tác gia đình cần phải
đảm nhận trọng trách của mình cho tốt, Bác nói: “Từ trước đến nay, gia đình
nào cũng có kế hoạch thô sơ, như: chăn nuôi thứ gì, mùa nào trồng gì, mấy
sào, mấy mẫu. Nơi nào cán bộ hiểu biết tình hình, chịu khó giải thích cho đồng
bào rõ, thiết thực giúp đồng bào sắp xếp kế hoạch thô sơ ấy cho có ngăn nắp
hơn, để đồng bào tự giác tự động thực hành, và cán bộ luôn luôn theo dõi,
khuyến khích thì đều thu được kết quả tốt” [15, tr.574]. Kế hoạch gia đình
theo Bác là một điều rất hay, rất tốt, ích nước, lợi dân. Nhưng cán bộ phải biết
chuẩn bị, giải thích, đánh thông tư tưởng giúp đồng bào tự giác, tự động làm,
tránh bệnh quan liêu mệnh lệnh, biết theo dõi, đôn đốc, thì mới chắc chắn
thành công. Và để thực hiện được điều đó thì người lãnh đạo, người phụ trách
cần phải đi sâu, đi sát thực tế, Bác viết: “Nói đời sống thì phải nói cả đời sống
vật chất và đời sống tinh thần. Muốn thật sự cải thiện, thì lãnh đạo từ các bộ
đến các xí nghiệp và cơ quan cũng phải đi sâu, đia sát”. Phải làm cho mọi
người hiểu thật rõ ràng “sản xuất và tiết kiệm cũng như dòng nước, cải thiện
đời sống cũng như chiếc thuyền, nước càng sâu thì thuyền càng cao. Muốn cải
thiện không ngừng thì phải không ngừng tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm” và “một điều vô cùng quan trọng là giáo dục cho cán bộ và mọi người

dân thật thấm nhuần tinh thần trách nhiệm, tinh thần làm chủ, điều này làm
được tốt thì mọi việc đều giải quyết dễ dàng” [16, tr.660].
Trong điều kiện xã hội hiện nay, chúng ta càng tin tưởng rằng
phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở với nếp sống văn minh, lành
Trang 16


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

mạnh, thiết chế văn hóa thông tin cơ sở hoàn chỉnh và môi trường văn hóa
lành mạnh sẽ là nhân tố đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa đi
đến thành công. Đó sẽ là pháo đài vững chắc trước các thế lực thù địch, đánh
bại các biểu hiện phản văn hóa và chống lại các tệ nạn xã hội.
1.2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam và chính sách của Nhà nước về xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta
hiện nay.
Gia đình là một tập hợp người cùng sống chung thành một đơn
vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và huyết
thống, thường là vợ chồng, ông bà, cha mẹ, con cái. Trong quan hệ với xã hội,
gia đình là tế bào của xã hội, nơi sinh thành, tái tạo chính bản thân con người,
nơi lưu giữ bảo tồn những truyền thống sinh hoạt văn hoá tốt đẹp đã được hun
đúc qua nhiều thế hệ. Các cá nhân là thành viên của xã hội nhưng trước hết là
thành viên của gia đình. Thông qua gia đình và xã hội đều tác động đến từng
cá nhân. Khi xã hội thay đổi, nhất là khi những điều kiện sinh hoạt vật chất
thay đổi thường kéo theo sự thay đổi trong quan hệ gia đình về tình cảm cũng
như ý thức tư tưởng. Tuy nhiên, quan hệ gia đình, cũng có tính “độc lập tương
đối” vì khi đã trở thành gia phong, tập tục, truyền thống tốt đẹp thì nó có sức
sống riêng biệt, có sức đề kháng đối với cái xấu, cái ác.

Gia đình Việt Nam suốt mấy chục năm qua chịu ảnh hưởng của
những biến động lớn như: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo. Truyền thống tốt đẹp bao trùm mọi quan hệ gia đình và xã hội là truyền
thống yêu nước, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm và cần cù, sáng tạo
trong lao động xây dựng hoà bình đã trở thành nền tảng văn hoá tinh thần cao
đẹp của người Việt Nam.
Khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, sức mạnh to lớn của
truyền thống văn hoá đã được khơi dậy và phát huy. Cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nhận định: “Văn hoá là đổi mới, đổi mới là văn hoá”. Văn hoá thực
sự là cơ sở và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong quá trình thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cùng với thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước xuyên suốt qua
các thời kỳ, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề gia đình nói chung và xây dựng
gia đình văn hóa nói riêng, được thể hiện qua các kỳ Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng Cộng sản Việt Nam và qua các
văn bản pháp luật:
Trang 17


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1986) khẳng định: “Gia đình là tế bào của
xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền
kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần
đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây

dựng gia đình văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc cho gia đình” [6, tr.78].
Ở Đại hội VII (tháng 6 năm 1991) Đảng ta khẳng định: “Xây
dựng gia đình văn hóa mới có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay, góp
phần phát triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế
hoạch hóa dân số, giữ gìn phát huy truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của
dân tộc. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mỗi người, hình thành
nhân cách cao đẹp và nếp sống văn hóa” [7, tr.83].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội Đảng ta chủ trương: “Xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận và tiến
bộ, nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi người” [11].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm 1996) trong định hướng xây dựng nền văn
hóa đất nước Đảng ta đã nêu rõ: “Xây dựng gia đình bình đẳng, ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc, làm cho gia đình thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội là tổ
ấm của mỗi người, phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền
những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực hiện luật
hôn nhân và gia đình” [8, tr.112-113].
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
cộng sản Việt Nam (tháng 4 năm 2001): “Nêu cao trách nhiệm của gia đình
trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống văn hóa, làm cho
gia đình là tổ ấm của mỗi người, tế bào lành mạnh của xã hội” [9, tr.116].
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 4 năm 2006) Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh việc xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong đó có chú trọng đến phong
trào: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và xây dựng gia đình văn
hóa đóng vai trò hạt nhân” [10, tr.106].
Trong dự thảo về Chiến lược gia đình Việt Nam 2004-2010
Đảng ta đưa ra quan điểm: “Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc, bền vững là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát
triển đất nước và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội từng thời kỳ nhằm thực

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Và

Trang 18


Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm

SVTH: Nguyễn Thị Út

mục tiêu chung: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và
bền vững”.
Tại điều 31 chương III Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) quy định: “Nhà nước tạo điều kiện để
công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn
hóa, hạnh phúc có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có tinh thần quốc
tế chân chính, hữu nghị, hợp tác với các dân tộc trên thế giới” [17, tr.96].
Tại điều 64, chương V. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
“Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn
nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành người công dân tốt. Con
cái có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ. Nhà nước và xã hội
không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con” [17, tr.106].
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người Việt Nam gắn
với xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nhất
quán. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991) Đảng ta nêu nội dung: “Con người được giải phóng khỏi áp
bức bóc lột bất công, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VII) đã đưa
ra tiêu chí về con người Việt Nam: “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về

thể chất, trong sáng về đạo đức là động lực, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá VIII) của Đảng về xây dựng đường
lối phát triển văn hoá, nghệ thuật nước ta là “xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, là động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội; làm cho văn hoá thấm sâu vào mỗi người, mỗi gia đình, mỗi khu dân cư.
Để thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước như đã nói trên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có
ra thông tri số 04/MT.TWngày 03/05/1995, và công văn số 126 ngày
06/04/1996 của Chính phủ về xây dựng gia đình thời kỳ hiện nay ở nước ta:
gia đình “ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững” là mục tiêu, vừa
cấp bách, vừa lâu dài đòi hỏi mọi người, mọi ngành và mọi cấp đóng góp công
sức và có hành động thiết thực cho nhiệm vụ xây dựng gia đình theo mục tiêu
trên. Mỗi gia đình nên có nhiều hành động thiết thực hơn, vun đắp hạnh phúc
bền vững, để gia đình xứng đáng với vai trò là tế bào, là nền tảng của xã hội.
Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành
Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21/2/2005 về xây dựng gia đình thời kỳ công
Trang 19


×