Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

LUẬN VĂN: Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Hà tĩnh hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 104 trang )













LUẬN VĂN:

Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa
ở tỉnh Hà tĩnh hiện nay










Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, gia đình có
một vị trí và vai trò đặc biệt. Từ gia đình, con người được sinh ra và trưởng thành cả về
thể chất và nhân cách. Với hai chức năng cơ bản: tái sinh con người để duy trì nòi giống


và xã hội hoá cá nhân để hình thành nhân cách, gia đình sẽ tồn tại mãi trong đời sống của
nhân loại. Sức mạnh trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc, xã hội - phụ thuộc rất nhiều
vào sự tồn tại, phát triển của gia đình và văn hoá gia đình.
Từ lâu, vấn đề này được thế giới rất quan tâm. Liên Hợp Quốc đã lấy năm 1994 là
"Năm quốc tế gia đình". Các quốc gia trên thế giới cũng nhận thức rõ rằng, củng cố sự
vững chắc của gia đình là nhân tố quan trọng để ổn định và phát triển đất nước.
ở Việt Nam, vấn đề gia đình đang được đặt ra với vị trí mang tầm chiến lược quốc
gia. Từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả
đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các
chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ.
Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã bàn đến trách nhiệm của gia
đình trong việc giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nêu cao
vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ, coi trọng xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng
mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, giá trị gia đình một lần nữa được Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao trách
nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối
sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của
xã hội”. Sở dĩ gia đình có vai trò quan trọng đối với mỗi cuộc đời con người cũng như đối
với sự trường tồn và phát triển của xã hội như vậy, chính là do những giá trị của văn hóa gia
đình.

Trong vấn đề gia đình, văn hoá gia đình có vị trí quan trọng, là nền tảng cho gia
đình tồn tại và cơ sở bền vững của gia đình. Văn hoá gia đình vừa là mục tiêu, giá trị phải
hướng tới, vừa là cơ sở thúc đẩy sự phát triển bản thân gia đình, nhằm phát triển con
người và xã hội.
Với tư cách là một thiết chế xã hội văn hoá, gia đình Việt Nam trong truyền thống
và hiện đại, vẫn là nơi hội tụ, gắn kết mỗi thành viên trong gia đình với nhau. Khi vui
người ta luôn san sẻ cùng gia đình và khi buồn cũng tìm sự an ủi, chở che từ gia đình.

Bởi thế, đối với mỗi con người Việt Nam mang tâm hồn Việt, gia đình là nơi thiêng liêng
nhất, thực sự là nơi ẩn náu của sự yên ổn, sự kính trọng và tình thương yêu. Nét đẹp trong
văn hoá truyền thống của gia đình Việt Nam đã góp phần làm phong phú hơn lên bản sắc
văn hoá của dân tộc, ngày nay những giá trị đó cần được kế thừa và phát huy.
Tất yếu, cùng với quá trình vận động, phát triển về kinh tế, chính trị, văn hoá xã
hội của đất nước, những giá trị trong văn hoá gia đình Việt Nam truyền thống cũng đã có
sự biến đổi rất lớn. Đặc biệt, nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị
trường, những mặt trái của nó đã ảnh hưởng trực tiếp và có nguy cơ làm băng hoại các
giá trị văn hoá dân tộc nói chung, giá trị gia đình truyền thống nói riêng.
Nhà nước ta đã lấy ngày 28 tháng 6 làm Ngày Gia đình Việt Nam. Điều đó không
những nói lên sự nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về tầm quan trọng của gia đình và văn
hoá gia đình đối với vấn đề phát triển con người và xã hội trong quá trình phát triển đất
nước, mà còn là định hướng quan trọng cho việc xây dựng gia đình văn hoá. Trong các
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế và văn hoá xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến vấn đề xây dựng gia đình văn hoá và văn hoá gia đình.
Muốn có Gia đình văn hoá phải có văn hoá gia đình. Hay nói cách khác, gia đình
văn hoá chính là sự thể hiện mới của văn hoá gia đình, nhưng ở trình độ cao hơn và được
cụ thể hoá bằng các tiêu chí nhất định. Chủ trương xây dựng gia đình văn hoá được triển
khai thực hiện trên phạm vi cả nước, trở thành một phong trào thi đua sôi nổi, có ý nghĩa
thực tiễn vô cùng to lớn đối với cách mạng nước ta thời kỳ đổi mới.
Quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt phát triển kinh tế thị trường có định hướng
XHCN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đã tác động sâu sắc đến văn hoá gia đình,

đến vai trò, vị trí, nhân cách của các thành viên trong gia đình. Điều đó đòi hỏi chúng ta
phải có sự nghiên cứu tổng kết thực tiễn vận dụng chủ trương của Đảng về xây dựng gia
đình văn hoá, nhằm phổ biến cách làm mới với những quy trình hiệu quả tối ưu, tìm ra
những điểm chưa phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, từ đó đề xuất giải pháp hữu hiệu và
những kiến nghị kịp thời. Đây là việc làm cần thiết đối với các cấp, các ngành, các địa
phương.
Hà Tĩnh là một tỉnh vừa mới tái lập (1991) trên cơ sở tách ra từ tỉnh Nghệ Tĩnh.

Là một tỉnh miền Trung được mệnh danh là vùng đất "chảo lửa, túi mưa", thiên nhiên rất
khắc nghiệt, kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, tàn dư của chiến tranh Điều đó cũng
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Đặc biệt
trong quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế thị trường, việc xây dựng văn hoá gia
đình Hà Tĩnh cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, chịu ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội,
trẻ em hư hỏng, làm ăn bất chính. Những biểu hiện về sự sa sút đạo đức, lối sống, sự đảo
lộn về trật tự kỷ cương trong gia đình, bất bình đẳng giới , đó là những vấn đề cần được
quan tâm và đánh giá một cách nghiêm túc.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, một cuộc vận động xây dựng gia đình
văn hoá ở Hà Tĩnh đã tiến hành trong suốt một thời gian dài. Bên cạnh những thành tựu
đã đạt được, cũng còn nhiều hạn chế, rất cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá để có
những định hướng kịp thời, góp phần tổ chức, triển khai cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hoá trên địa bàn Hà Tĩnh thực sự có hiệu quả trong thời gian tới.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề đã nêu trên, nghiên cứu văn hoá gia đình
trong công tác xây dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh hiện nay rất có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn, nhất là bản thân tôi đang công tác ở Hội Phụ nữ của TP. Hà Tĩnh. Vì vậy, tôi
chọn đề tài: " Văn hoá gia đỡnh và xõy dựng gia đỡnh văn hoá ở tỉnh Hà Tĩnh hiện
nay " làm luận văn tốt nghiệp Cao học, chuyên ngành Văn hoá học. Hy vọng những kết
quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của bản
thân.
2. Tình hình nghiên cứu

Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan
tâm đến vấn đề gia đình và xây dựng gia đình mới- gia đình văn hoá. Từ đó đến nay,
cùng với nhiều chủ trương, chính sách về phát triển đất nước, xây dựng gia đình văn hoá
được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng văn hoá gia đình và gia đình văn hoá trở thành nhiệm
vụ quan trọng trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Trong
quá trình đổi mới đất nước, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản
lý, các nhà khoa học.

Thứ nhất, Những kết quả nghiên cứu về gia đình, văn hoá gia đình, xây dựng gia đình
văn hoá của các tổ chức: Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, Viện Nghiên cứu Phát
triển Xã hội, Viện nghiên cứu gia đình và giới, Viện Nghiên cứu Giáo dục, Trung tâm nghiên
cứu khoa học về gia đình và phụ nữ. Ví dụ:
- Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt Nam (1990), của tập thể tác giả Trung
tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ, thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Quốc gia. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu về vai trò, vị trí của
gia đình trong xã hội, nhưng mới chỉ đặt vấn đề và gợi ý là chủ yếu.
- Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam (1991), của tập thể tác giả
của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia phối hợp
với Khoa Xã hội học Trường Đại học Gothenburg (Thuỵ Điển), Nxb Khoa học xã hội
xuất bản. Trong công trình này, các tác giả Việt Nam và Thuỵ Điển đã tiến hành khảo sát
thực tiễn ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước về đặc điểm gia đình Việt Nam trước những
năm 1990.
- Văn minh phương Đông và gia đình Việt Nam truyền thống (1994), Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do Quỹ Toyota Foundation tài trợ, đã có những
khảo sát và nghiên cứu, đánh giá bước đầu về gia đình truyền thống ở Việt Nam qua một
số thời mốc lịch sử của Việt Nam.
Thứ hai, những nghiên cứu về vai trò của văn hoá gia đình và sự biến đổi của gia
đình, giá trị văn hoá gia đình trong bối cảnh đổi mới của đất nước.

- Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá (1998) của tác giả Lê Ngọc Văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Văn hoá gia đình và sự phát triển xã hội (1994) của nhiều tác giả, do nhà văn Lê
Minh chủ biên, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Người phụ nữ trong văn hoá gia đình đô thị (2003) của TS. Lê Quý Đức và Ths.
Vũ Thị Huệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em (2001) của
PGS.TS Lê Như Hoa, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
- Văn hoá gia đình Việt Nam (2007) của GS. Vũ Ngọc Khánh, Nxb Thanh Niên,

Hà Nội.
- Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2003) của GS. Lê Thi (kết
quả Cuộc điều tra về gia đình Việt Nam có quy mô lớn nhất từ trước tới nay), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn về
gia đình, văn hoá gia đình, xây dựng gia đình văn hoá, sự biến đổi của gia đình và văn
hoá gia đình trong bối cảnh mới, những vấn đề của gia đình Việt Nam từ truyền thống
đến hiện tại, cũng như ảnh hưởng của văn hoá gia đình đối với sự phát triển của cá nhân
nói riêng và xã hội nói chung.
Thứ ba, các công trình, các đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu gia đình, xây
dựng gia đình văn hoá dưới các góc độ triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tiêu biểu là:
- Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, (2001),
Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của Nghiêm Sĩ Liêm
(Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)
- Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện
nay, (2003), Luận án tiến sĩ Triết học, Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, của
Dương Thị Minh (Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh).
- Gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em của nước ta hiện nay, (2004), Luận
văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của Phạm Thị Xuân (Học
viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh).

- Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Bạc
Liêu hiện nay(2006), Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
của Lê Cẩm Lệ
- Gia đình văn hoá và sự hình thành nhân cách trẻ em (trước tuổi đi học) ở nước
ta của Nguyễn Thị Phượng
- Văn hoá gia đình với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam,
của Võ Thị Hồng Loan
Dưới những góc độ khác nhau, các đề tài nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề
cả về lý luận và thực tiễn: đặc điểm, chức năng của gia đình Việt Nam; vai trò của phụ nữ

trong gia đình; vai trò của giáo dục gia đình, đặc biệt giáo dục nhân cách; các đặc điểm,
tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay. Đồng thời, các đề tài cũng đưa ra
được những phương hướng, giải pháp thiết thực góp phần xây dựng gia đình Việt Nam,
phát huy vai trò to lớn của gia đình đối với sự phát triển con người, chủ thể của sự nghiệp
đổi mới, phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Ngoài ra, còn có hàng trăm bài viết mỗi năm, đã được đăng tải trên các sách báo,
tạp chí nghiên cứu về văn hoá gia đình và xây dựng gia đình văn hoá trong cơ chế thị
trường.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến vấn đề nghiên cứu của đề tài cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đáng
lưu ý, tất yếu các giá trị văn hoá văn hoá gia đình và những yêu cầu về xây dựng gia
đình văn hoá ở nước ta, có sự biến đổi cùng với sự biến đổi về kinh tế-xã hội trong
từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác, mỗi địa bàn khác nhau, tuỳ vào những điều kiện,
hoàn cảnh và văn hoá truyền thống khác nhau, mà văn hoá gia đình và xây dựng gia
đình văn hoá có những yêu cầu khác nhau. Vì vậy nghiên cứu về phương diện này
đang có nhiều khoảng trống.
Những công trình đó trên đây mới chủ yếu đề cập đến gia đình, văn hoá gia đình,
gia đình văn hoá nói chung, song chưa đề cập đến vấn đề văn hoá gia đình và xây dựng
gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh. Có thể khẳng định, cho đến nay ở Hà Tĩnh chưa có một công
trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu với mong

muốn bước đầu nhìn nhận toàn diện và hệ thống hơn về vấn đề văn hoá gia đình và xây
dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về gia đình, văn hoá gia
đình và xây dựng gia đình văn hoá và khảo sát, đánh giá thực trạng xây dựng gia đình
văn hoá ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp
nhằm đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh trong thời kỳ đổi
mới.

3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về gia đình, văn hoá gia đình và gia
đình văn hoá.
- Phân tích thực trạng văn hoá gia đình và khảo sát về cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hoá ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hoá của tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu phương diện lý luận vấn đề văn hoá gia đình và thực tiễn
cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình văn hoá gia đình và xây dựng gia đình
văn hoá ở Hà Tĩnh trong khoảng 10 năm trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về gia đình và xây dựng gia đình văn hoá.

Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp đa/liên ngành, phương pháp điều tra
xã hội học, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích-tổng hợp…để tiếp cận, giải
quyết những yêu cầu đặt ra của đề tài.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn về vấn đề văn hoá gia đình và xây
dựng gia đình văn hoá ở Hà Tĩnh.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá
của Hà Tĩnh trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

Chương 1
Khái quát chung về văn hoá gia đình
và xây dựng gia đình văn hoá

1.1. Quan niệm về gia đình và văn hoá gia đình
1.1.1. Quan niệm về gia đình
Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người sinh ra, bắt đầu một cuộc sống.
Trong suốt cuộc đời, gia đình luôn là điểm tựa, là cội nguồn của tình cảm là cái nôi của
sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người và cho xã hội. Gia
đình là một nhóm xã hội được cấu trúc theo những chuẩn mực văn hoá nhất định, như
một tập hợp những mối quan hệ giữa các cá nhân (vợ chồng, bố mẹ, con cái và anh chị
em, ), gia đình là một thành quả văn hoá đặc thù của con người.
Khái niệm gia đình thường được dùng để chỉ một nhóm xã hội được hình thành
trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Ngày
nay, quan niệm của một số người về gia đình không chỉ đóng khung trong những mối liên
quan về huyết thống, về dòng họ, anh em, bố mẹ, cha mẹ nuôi, mà gia đình là một
phạm vi rộng lớn hơn trên cơ sở những người có tình yêu thương tương trợ lẫn nhau.

Từ lâu chủ đề gia đình được nhiều ngành khoa học nghiên cứu dưới các góc độ
khác nhau và do vậy cũng có nhiều định nghĩa về gia đình, trong đó có những định nghĩa
đáng chú ý C.Mác và Ph.Ăngghen khi luận chứng về những điều kiện tiền đề cho sự tồn
tại của con người đã đưa ra nhận xét: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình,
con người còn tạo ra những người khác sinh sôi, nảy nở. Đó là quan hệ giữa chồng và
vợ, cha mẹ con cái, đó là gia đình” [38, tr.41].
Như vậy, bàn về gia đình, C.Mác đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của nó
trong duy trì nòi giống và nhấn mạnh mối quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Tuy nhiên, vấn đề gia đình không chỉ được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
nghiên cứu. Vì tầm quan trọng của nó trong quá trình phát triển của con người, xã hội,
vấn đề này còn được đề cập đến trong những văn bản khác nhau, như bàn về các quyền
của con người và gia đình, Tổ chức Liên hiệp quốc đã xác định “Gia đình là yếu tố tự

nhiên và cơ bản của xã hội và có quyền hưởng sự bảo vệ của xã hội và của Nhà nước”.
Hiến chương cộng đồng Châu Âu khẳng định: “Gia đình với tư cách là tế bào của xã hội,
pháp lý và kinh tế thích hợp để đảm bảo sự phát triển của nó”. Hai quan điểm này thể
hiện rõ sự gắn kết mật thiết giữa gia đình và xã hội, vài trò của gia đình đối với xã hội.
ở Việt Nam, vấn đề gia đình đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa
học khác nhau, thuộc nhiều chuyên ngành và vì thế định nghĩa gia đình cũng rất phong
phú.
Khái niệm “gia đình”
Theo phương pháp chiết tự từ, nhà khoa học Hoàng Tiến khi nghiên cứu về gia
đình đã chỉ ra:
Chiết tự chữ Gia theo nghĩa Hán gồm bộ Miên, mang ý nghĩa mái lợp trùm nhà
ngoài nối nhà trong. Dưới có chữ Thỉ, nghĩa là lợn. Chữ Gia mang ngữ nghĩa nhà ở, chắc
chắn phải xuất hiện từ thời loài người đã biết chăn nuôi.
Chiết tự chữ Đình, gồm bộ Nghiễm tức mái nhà (cũng đọc là Yêm), dưới là Đình với ý
nghĩa là nơi phát chính lệnh cho cả nước theo (như triều đình).
Như vậy, nghĩa xa xưa của gia đình hẳn là một đơn vị kinh tế nhỏ, chung sống
dưới mái nhà trong cộng đồng xã hội. Định nghĩa này đã khái quát được một số dấu hiệu

đặc trưng của gia đình (chung sống cùng mái nhà, là đơn vị kinh tế). Nhưng chưa khái
quát được cơ sở hình thành gia đình cùng với một số chức năng quan trọng khác của gia
đình.
Theo Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên đã định nghĩa: “Gia đình là đơn vị xã
hội, thành lập trên cơ sở dòng máu, bắt đầu có từ thời đại Thị tộc mẫu hệ, trong thời đại
phong kiến thường có cha mẹ, con cháu, có khi chắt nữa, trong thời đại Tư bản chủ nghĩa
thường chỉ có vợ chồng và con cái”
[7, tr.113-114]. Định nghĩa này khái quát được một số nét bản chất của gia đình về cơ sở
hình thành, duy trì, biến đổi của gia đình trong lịch sử và khẳng định gia đình là đơn vị xã
hội nhưng chưa nêu được vai trò của gia đình với xã hội qua các chức năng của nó. Có
thể nói, dưới góc độ ngôn ngữ, định nghĩa gia đình chưa thật đầy đủ, cần phải có định
nghĩa mới về gia đình nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.

Gia đình nhìn từ góc độ xã hội học
PGS.TS Lê Như Hoa, trong công trình khoa học của mình cho biết: “Một số nhà
xã hội học quan niệm gia đình là một nhóm người” [25, tr.24]. Tác giả đã trích dẫn các
quan điểm tiêu biểu của các nhà xã hội Phương Tây E.W.Burgess và H.J.Cocker coi: Gia
đình là một nhóm người được thống nhất với nhau bởi những mối quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nhận con nuôi; tạo thành một hộ duy nhất, tác động qua lại và giao tiếp
với nhau theo vai trò xã hội riêng từng người trong số họ: là chồng vợ, là mẹ cha, anh trai
và em gái; tạo thành một nền văn hoá chung. Kingley Davis định nghĩa gia đình: “Là một
nhóm người mà quan hệ của họ với nhau dựa trên cơ sở dòng dõi và do đó họ là họ hàng
thân thích của nhau” [25, tr.24].
Các định nghĩa nói trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh bản chất của gia đình nhưng
sự khái quát khá chung chung, không rõ bản chất, chức năng và sự tác động của gia đình
với xã hội và ngược lại.
Nhà nghiên cứu Lê Thi quan niệm:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên
cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh quan hệ hôn nhân đó
và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại). Đồng thời

gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy
không có quan hệ huyết thống các thành viên gia đình gắn bó với nhau về
trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm), giữa họ thường có
những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ
(được ghi rõ trong luật hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời trong gia
đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và cấm đoán quan hệ tình
dục giữa các thành viên [54, tr.42].
Đây là khái niệm đề cập tới nhiều nét đặc trưng, bản chất cơ bản của gia đình
nhưng nặng nề về trình bày phân tích chưa khái quát cô đọng.
Tóm lại dưới góc độ xã hội học, định nghĩa gia đình còn nhiều nét bản chất cơ bản
cần được bổ sung và khái quát cô đọng phù hợp hơn.
Dưới góc độ tâm lý học, tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng “Gia đình là một nhóm

nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung các
giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất đình” [71, tr.36]. Tác
giả Nguyễn Đình Xuân lại quan niệm: “Gia đình là nhóm nhỏ được liên kết vợ chồng
(hôn nhân) theo quy luật xã hội trước tiên, sau đó mới là quy luật tính dục tự nhiên” [71,
tr.36]. Các định nghĩa đó đã đề cấp tới nhiều nét bản chất của gia đình nhưng vài trò và
quan hệ tác động của gia đình - xã hội chưa được khái quát. Nó cũng đòi hỏi các nhà
nghiên cứu về gia đình phải có sự bổ sung phát triển.
Liên Hợp Quốc, trong cuốn từ điển “Nhân khẩu học” cho rằng: “Gia đình là một
đơn vị được quy định thông qua mối liên hệ của các cá nhân, nói lên sự tái thế hệ sau, đặc
biệt ở mức độ mà những mối quan hệ này được những quy phạm và thủ tục pháp lý phê
chuẩn” [35, tr.96].
Gần đây, UNESCO cũng đưa ra quan niệm, gia đình là một nhóm người có quan
hệ họ hàng cùng chung sống và có ngân sách chung. Các định nghĩa này cũng có những
đóng góp và những hạn chế tương tự như quan niệm gia đình của Tâm lý học, Xã hội
học,
Luật hôn nhân và gia đình của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2000, khẳng định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan

hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa
họ với nhau theo luật định" [36, tr.12]. Đây là quan niệm chính thống của nhà nước ta, là
cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề liên quan đến gia đình. Quan niệm này chưa
khái quát rõ nét bản chất quan trọng: gia đình có vai trò to lớn đối với xã hội.
Dưới góc độ của chủ nghĩa xã hội khoa học, giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học định
nghĩa: “Gia đình là hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành duy trì và củng cố
trên cơ sở hôn nhân và huyết thống” [28, tr.178]. Đây là định nghĩa đã phản ánh được những
nét bản chất nhất của gia đình. Nhưng nó cũng chưa thể phản ánh rõ một số nét bản chất
cơ bản khác của gia đình. Vì vậy, trong giáo trình đã có sự bổ sung:
Nhưng xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình
cảm - tâm lý mà còn là một tổ chức kinh tế, tiêu dùng (sở hữu, sản xuất, thu
nhập, chi tiêu); một môi trường giáo dục - văn hoá (văn hoá gia đình và cộng

đồng); một cơ cầu - thiết chế xã hội (có cơ chế và cách thức vận động riêng )
[28, tr.178].
Qua phân tích chúng tôi cho rằng cần phải nghiên cứu kế thừa các quan điểm tiêu
biểu trên, khái quát lại và bổ sung để có định nghĩa gia đình vừa đảm bảo tính khái quát,
tính hệ thống tính lôgíc và toàn diện về những nét bản chất đặc trưng của gia đình.
Thực tế cuộc sống gia đình hiện nay cho thấy cần có một định nghĩa gia đình
mang tính khái quát cao, phản ánh được khá đầy đủ nét bản chất đặc trưng về gia đình
phù hợp với lịch sử hình thành và phát triển cùng những biến đổi của gia đình dưới sự tác
động mạnh mẽ của điều kiện kinh tế - xã hội mới, của thời đại văn minh tin học đang
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Nhưng đây là vấn đề không đơn giản đặc biệt trong xã hội
hiện đại, cùng với sự vận động, biến đổi của xã hội thì các hình thức, kiểu loại gia đình
cũng biến đổi hết sức phức tạp, đa dạng. Trong thực tế có những gia đình không có con
cái, có gia đình nhiều “chủng loại” con cái, kiểu con anh, con tôi, con chúng ta, có những
gia đình chỉ sống với nhau theo “hợp đồng”. Lại có những gia đình chị em chăm nuôi lẫn
nhau, tuy chúng không có bố mẹ nhưng không thể nói là họ không có gia đình. Còn có
những kiểu gia đình không hoàn thiện, như: “gia tình thương” (do các nhân, hoặc nhóm
tìm những trẻ mồ côi đưa về chăm nuôi dạy dỗ), “gia đình nghĩa hiệp” (do các cháu mồ

côi tụ tập nhau lại cùng làm ăn sinh sống), gia đình “gà trống nuôi con”, “gà mái nuôi
con”,
Tóm lại, có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, vấn đề gia đình và khái niệm gia đình cần được nghiên cứu thêm. Căn cứ vào tình
hình chung của hôn nhân và gia đình, chúng ta cần có một cách hiểu hoàn chỉnh hơn về
gia đình đảm bảo hạt nhân hợp lý của nó.
Như vậy, có thể từ nhiều góc độ khác nhau để quan niệm về gia đình. Gia đình
nằm trong phạm trù cộng đồng với tư cách là một nhóm nhỏ xã hội đặc thù, đồng thời
như một thiết chế xã hội, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hoá con
người.
Trên thực tế đang tồn tại nhiều kiểu gia đình, nhưng trong đó gia đình hạt nhân
chiếm đa phần (ở Việt Nam, theo điều tra có từ 60-hơn 70%). Chính vì vậy mà chỉ có thể

lấy gia đình hạt nhân làm đối tượng để đưa ra một định nghĩa về gia đình.
Từ góc độ văn hoá học, có thể hiểu: Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một
nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy
sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại…) cùng chung
sống. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cho cả một đời người, là môi trường văn hoá đầu
tiên giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, là nơi hội tụ, chọn lọc và sáng tạo văn
hoá của con người và xã hội loài người.
Cũng như các thiết chế xã hội-văn hoá khác, gia đình luôn vận động phát triển.
1.1.2. Quan niệm về văn hoá gia đình
Để tìm hiểu về văn hoá gia đình, trước tiên phải đề cập đến khái niệm văn hoá, bởi
văn hoá chính là cơ sở của văn hoá gia đình.
* Quan niệm văn hoá
Thuật ngữ văn hoá xuất hiện trong ngôn ngữ nhân loại từ rất sớm. Ngay từ thời La
Mã cổ đại, trong tiếng La tinh đã xuất hiện từ “văn hoá” (cultura). Từ “văn hoá” lúc đầu
có nghĩa vỡ đất, cày cấy, vun trồng trong nông nghiệp, sau chuyển nghĩa sang vun trồng
trí tuệ, vun trồng tinh thần, giáo dục con người. Theo định nghĩa của từ Hán - Việt “văn
hoá” có nghĩa là “văn trị giáo hoá”, “hoá nhân tịch dục” tức là phải giáo dục cảm hoá con

người để có thể quản lý, điều hành xã hội bằng “văn”. Thông qua nhân nghĩa, nhân văn
coi trọng giáo dục để bình ổn xã hội, tạo lập kỷ cương. Văn hoá trong từ nguyên của cả
phương Đông và phương Tây đều có chung một nghĩa căn bản là sự giáo hoá, vun trồng
nhân cách con người, làm cho con người và cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Văn hoá có mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống nhưng không thể gọi tất cả cuộc
sống là văn hoá. Từ trước đến nay đã có sự phân chia ra văn hoá vật chất và văn hoá tinh
thần. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối bởi vì trong văn hoá vật
chất vẫn có văn hoá tinh thần và ngược lại, văn hoá tinh thần thể hiện trong những dạng
văn hoá vật chất. Nhưng sản phẩm vật chất và tinh thần ấy đều do sự lao động sáng tạo
của con người tạo ra để lại những dấu ấn tốt đẹp qua từng thời kỳ lịch sử. Khi quan niệm
văn hoá bao gồm tất cả những gì tốt đẹp do con người sáng tạo ra tức là thừa nhận tính đa
dạng, phong phú và phức tạp của nó. Nó gắn liền với quá trình hình thành và phát triển

lịch sử của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, mỗi gia đình phù hợp với nền kinh tế của xã
hội đương thời.
Có rất nhiều ý kiến và định nghĩa về văn hoá, trong đó đáng chú ý là ý kiến của tổ
chức UNESCO: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân
các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy hình
thành hệ thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những đặc tính riêng của mỗi dân
tộc” [68, tr.23].
Đứng trước sự tiến công mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá, vấn đề giữ gìn, bảo vệ
và phát huy các giá trị văn hoá của các dân tộc, các quốc gia đang gặp phải những thách
thức to lớn đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, UNESCO đưa ra định nghĩa
về văn hoá trên cơ sở nhấn mạnh đến nội dung đó nhằm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế trong việc chống xu thế nhất thể hoá văn hoá, hướng tới tôn trọng
và bảo vệ những giá trị văn hoá độc đáo của các quốc gia, dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một quan niệm về văn hoá:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các

phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn [39, tr.431].
Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã xác định văn hoá bao gồm những thành
quả của sự sáng tạo cả về vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng cho sự tồn tại và phát triển
của loài người. Và điều đặc biệt ở đây là Người cho rằng văn hoá không chỉ là sự sáng
tạo mà còn là phương thức sử dụng sự sáng tạo đó. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với
việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam hiện nay. Chúng ta không chỉ chăm lo tạo ra nhiều
giá trị văn hoá tốt đẹp mà cần phải chú ý tới cả “phương thức sử dụng” cho hợp tình, hợp
lý, mang tính nhân văn cao cả.
Như vậy, văn hoá là hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình lịch sử, chỉ

trình độ Người. Văn hoá biểu hiện ở những hệ giá trị xã hội. Nói cách khác, văn hoá là
toàn bộ sự hiểu biết , kinh nghiệm của con người được tích luỹ trong quá trình hoạt động
thực tiễn lịch sử - xã hội.
Văn hoá còn là mô hình các thiết chế xã hội để nhằm đảm bảo cho sự trao truyền,
vận thông các giá trị, chuẩn mực văn hoá. Hệ thống thiết chế xã hội - văn hoá bao gồm:
gia đình, nhà trường, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, tôn giáo. Các tổ chức ấy hình
thành trên cơ sở các mối quan hệ giữa các thành viên của nhóm, của cộng đồng với các
quy định, thể chế, giá trị, truyền thống của nhóm, của cộng đồng ấy. Các mô hình thiết
chế xã hội đó có sức mạnh vật chất, tinh thần để thực hiện các chức năng văn hoá mà xã
hội đặt ra. Trong các mô hình thiết chế - xã hội đó, tổ chức gia đình có một vị trí đặc biệt
quan trọng, gắn bó cả cuộc đời con người. Gia đình là thiết chế xã hội - văn hoá quan
trọng trong các mô hình thiết chế xã hội.
Văn hoá cũng chính là phương thức ứng xử của con người. Nếu như loài vật chỉ
tồn tại với tự nhiên và ứng xử trong môi trường tự nhiên thì con người để tồn tại và phát
triển, con người không chỉ ứng xử với môi trường tự nhiên mà còn ứng xử với môi
trường xã hội (quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và cả văn hoá của con người). Các
phương thức, quy tắc ứng xử tạo nên hệ thống giá trị chuẩn mực, khuôn mẫu được tích

luỹ trong đời sống cộng đồng tạo thành hệ giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng. Gia đình là
môi trường đặc biệt, thể hiện phương thức ứng xử đầu tiên của con người, để ứng xử xã
hội.
Văn hoá đặc biệt gắn với giáo dục, đào tạo con người. Hay nói cách khác, giáo
dục là một hiện tượng văn hoá của con người và cũng là một phương thức trao truyền văn
hoá. Con người sinh ra chỉ mới là cá thể, để được là cá nhân, đặc biệt có nhân cách, con
người phải chịu sự tác động của môi trường xã hội. Nếu không có giáo dục, con người sẽ
về trạng thái dã man, mông muội như động vật. Như vậy, văn hoá chỉ có ở loài người, đó
là năng lực học hỏi, thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, phương thức ứng xử, hệ
thống biểu tượng, thiết chế, thể chế xã hội nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau
để tồn tại và phát triển. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người từ tuổi ấu thơ, có sự gắn
bó cả cuộc đời con người từ thuở lọt lòng cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.

Từ nội dung của văn hoá, ta có thể thấy rằng gia đình là một hiện tượng văn hoá
của con người, xuất hiện và tồn tại vì sự tồn tại và phát triển của con người. Nó biến đổi
cùng sự biến đổi của các cộng đồng người trong quá trình lịch sử văn hoá của các dân
tộc, các thời đại có vai trò quan trọng đối với gia đình. Văn hoá là tiền đề quan trọng
trong sự hình thành gia đình và là yếu tố cơ bản của gia đình. Nghiên cứu văn hoá chính
là cơ sở để chúng ta đi sâu vào tìm hiểu về vấn đề văn hoá gia đình.
* Quan niệm văn hoá gia đình
Có thể hiểu quan niệm văn hoá gia đình từ những góc độ khác nhau.
Từ các cấp độ của văn hoá cộng đồng (chủ thể): văn hoá nhân loại, văn hoá dân
tộc, văn hoá giai cấp, văn hoá gia đình, văn hoá cá nhân - thì văn hoá gia đình là một
trong những cấp độ của văn hoá.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, văn hoá gia đình chính là gia phong (nếp
nhà). Gia phong chính là văn hoá gia đình truyền thống của gia đình, dòng họ. Biểu hiện
đặc trưng của văn hoá gia đình:
- Thể hiện qua thuần phong, mỹ tục, nếp sống, tác phong của các thành viên trong
gia đình.

- Biểu hiện ở sự ứng dụng những tri thức khoa học, y học, giáo dục học, tâm lý
học, thẩm mỹ… để tổ chức gia đình, giáo dục con người, nhất là về mặt tinh thần.
- Biểu hiện ở sự hiếu thuận đối với cha mẹ, sự tôn kính tổ tiên ông bà
- Biểu hiện ở tấm gương sáng về nhân cách văn hoá trong gia đình…
- Biểu hiện ở truyền thống gia phong của gia đình, dòng họ
Từ góc độ xã hội học: người ta chia văn hoá thành hai dạng cơ bản: văn hoá cá
nhân và văn hoá cộng đồng.
Văn hoá cá nhân là văn hoá của mỗi cá nhân, nó là toàn bộ tri thức, kinh nghiệm,
phương thức ứng xử mà mỗi cá nhân đã học tập, đã tích luỹ được trong quá trình tham
gia vào hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của đời sống cộng đồng. Văn hoá cộng đồng
là văn hoá của một cộng đồng hay nhóm xã hội. Nó là toàn bộ hệ giá trị, chuẩn mực, thị
hiếu, những đặc tính riêng của mỗi cộng đồng. Và cộng đồng tập hợp theo dòng máu thân
thuộc (hôn nhân và huyết thống) gọi là gia đình.

- Hiểu văn hoá gia đình theo quan điểm của Đảng ta trong xây dựng và phát triển
nền văn hoá mới, làm cho văn hoá thấm sâu vào đời sống xã hội, thì văn hoá gia đình là
một trong những mục đích: Văn hoá cộng đồng, văn hoá nhà trường, văn hoá gia đình,
văn hoá giáo dục, văn hoá khoa học, văn hoá giải trí…Trong những năm gần đây Đảng
và nhà nước ta có chủ trương xây dựng “gia đình văn hoá”, “làng xã văn hoá”, “công sở
văn minh”, cũng trên cơ sở việc nghiên cứu “văn hoá gia đình”, “văn hoá làng”,
Chúng ta đã biết, gia đình là một hiện tượng văn hoá của con người, gia đình chỉ
xuất hiện trong xã hội loài người, không có trong thế giới động vật. Gia đình của con
người là tâm điểm để tạo ra những quan hệ rộng lớn theo chiều dọc và chiều ngang. Từ
một đôi vợ chồng sẽ tạo nên các thế hệ sau và quan hệ của nó với các thế hệ đó: con -
cháu - chắt - chiu - chíu - chít, ngược lên là: bố mẹ - ông bà - cụ - kỵ Cùng với các quan
hệ dọc là quan hệ ngang họ hàng nội ngoại, bên chồng, bên vợ, ý thức được và ứng xử
với các quan hệ đó là một đặc trưng văn hoá của con người, không hoàn toàn có trong đời
sống bầy đàn của động vật. Từ đó có thể khẳng định: gia đình của con người là một hiện
tượng văn hoá hoàn toàn khác về chất so với hình thức kết đôi của động vật. Nó không

chỉ bị quy định bởi nhu cầu sinh học mà nó được biến đổi về chất do nhu cầu xã hội (nhu
cầu người) trở thành hiện tượng văn hoá.
Gia đình là một giá trị văn hoá khi nó đáp ứng nhu cầu tồn tại và các nhu cầu đặc
biệt thiêng liêng không vụ lợi của con người. Đó là tình thương, tình yêu, hạnh phúc,
trách nhiệm, nghĩa vụ tinh thần mang tính người của con người. Chúng ta biết rằng gia
đình là tổ ấm, khi mới cất tiếng khóc chào đời, gia đình là vành nôi yêu thương, che chở
để con người lớn lên, trưởng thành. Tình yêu trai gái xét đến cùng là khát khao hướng tới
một gia đình, hướng tới hạnh phúc ấm êm, đó cũng là một giá trị văn hoá. Hạnh phúc của
việc sinh nở sự sống cũng là một giá trị văn hoá. Cha ông ta đã từng đúc kết nên những
câu ca: “Có vàng vàng chẳng hay phô - Có con con nói trầm trồ dễ nghe”. Quả thật, gia
đình là nơi người ta yêu thương, tin cậy, tự hào, là mục tiêu phấn đấu của con người - gia
đình còn là yếu tố cần phải có để hoàn thiện nhân cách đối với tất cả những con người
bình thường trong xã hội. Do vậy gia đình là một giá trị văn hoá thiêng liêng có thế so
sánh với các giá trị cao cả khác.

Gia đình không chỉ là một hiện tượng văn hoá của con người mà còn là một giá trị
văn hoá thấm sâu vào tư tưởng,tình cảm, lý tưởng sống của con người. “Gia đình được
coi là giá trị tinh thần vô cùng quý báu của nhân loại, cần được giữ gìn và phát huy” [53,
tr.14]. Gia đình là một hiện tượng văn hoá và là một giá trị văn hoá cho nên tất cả các
quan hệ và hoạt động sống của gia đình đều biểu hiện đặc trưng văn hoá của con người.
Hệ thống giá trị văn hoá của gia đình khi đã hình thành có vai trò chi phối, điều
tiết các quan hệ của gia đình, chi phối các phương thức ứng xử của các thành viên gia
đình. Đồng thời nó được thể chế hoá bằng: gia đạo, gia huấn, gia lễ và bằng pháp luật của
nhà nước, bằng dư luận xã hội. Hệ thống giá trị đó là cơ sở tồn tại của gia đình và giữ cho
đời sống gia đình bền vững và an sinh hạnh phúc. Như vậy, gia đình không chỉ là một
nhóm xã hội đặc thù mà còn là một thực thể sinh học - văn hoá, một thiết chế xã hội văn
hoá: “Gia đình ngay từ đầu là một tồn tại văn hoá, một thực thể văn hoá tất nhiên trong
mối liên hệ khăng khít với những yếu tố sinh học và giới tính. ở những trình độ phát triển
thấp của con người, đã là như thế, ở trình độ phát triển cao hơn, lại càng như thế” [44,
tr.23].

Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể nhất trí với quan niệm về văn hoá gia đình
như sau:
Văn hoá gia đình là dạng đặc thù của văn hoá cộng đồng, văn hoá của
thiết chế gia đình bao gồm tổng thể sống động các hoạt động sống của gia đình
mang đặc trưng văn hoá bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực, truyền thống,
thị hiếu của một cộng đồng mà các thành viên gia đình đã chọn lựa để ứng xử
với nhau trong gia đình và ngoài xã hội [22, tr.33].

Nghiên cứu về cấu trúc văn hoá gia đình có thể có nhiều hình thức khác nhau
nhưng cơ bản nhất theo các nhà nghiên cứu có 2 dạng:
- Văn hoá gia đình được thể hiện ở các dạng hoạt động cơ bản của gia đình: văn
hoá sản sinh nuôi dạy con cái, văn hoá vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất, văn
hoá tinh thần và hưởng thụ các sản phẩm tinh thần
- Văn hoá gia đình thể hiện ở hệ giá trị của gia đình: các giá trị cấu trúc (các giá trị

gắn với quan hệ bên trong của gia đình); các giá trị chức năng (giá trị thể hiện vai trò của
gia đình đối với sự phát triển xã hội); các giá trị tâm linh (những giá trị không vụ lợi,
mang tính thiêng liêng, bí ẩn)…
Sự chia tách trên đây cũng chỉ là tương đối.
Có thể thấy, văn hoá gia đình ngoài yếu tố cốt lõi là hệ giá trị, gia đình còn được
xem xét như là một tập hợp của những biểu hiện văn hoá gắn với các mặt quan hệ và đời
sống gia đình. Văn hoá gia đình vừa là sự biểu hiện giá trị trong quá trình phát triển, vừa
có vai trò định hướng và mục tiêu cho sự phát triển gia đình qua mỗi thời đại lịch sử. Đối
với chúng ta, văn hoá gia đình là cơ sở để xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi
mới đất nước.
1.2. Gia đình văn hoá và chủ trương xây dựng gia đình văn hoá ở nước ta
1.2.1. Gia đình văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá gia đình và gia đình văn
hoá
Quan niệm gia đình văn hoá
Trong thực tế, nhiều người vẫn có sự lẫn lộn giữa văn hoá gia đình và gia đình văn
hoá, thực chất hai khái niệm này không đồng nhất với nhau.

Văn hoá gia đình là một dạng văn hoá cộng đồng, trong đó các giá trị chuẩn mực
xã hội được vận hành, thể hiện các quan hệ ứng xử của gia đình như: hoà thuận, thuỷ
chung “phu nghĩa, phu kính” (quan hệ vợ chồng); yêu thương, hiếu thuận “thờ mẹ, kính
cha” (quan hệ cha mẹ - con cái); kính trên, nhường dưới, hiếu đễ, chị ngã em nâng (quan
hệ ông bà - con cháu; anh - chị - em, ). Với những giá trị và chuẩn mực nhất định, văn
hoá gia đình chi phối đời sống, quan hệ trong nội bộ gia đình, quan hệ gia đình với xã
hội với tư cách là một tế bào xã hội. Vì vậy, văn hoá gia đình là một dạng đặc thù của
văn hoá xã hội bao gồm tổng thể các giá trị chuẩn mực, cách hành xử của xã hội mà các
thành viên của gia đình cùng tiếp nhận để ứng xử với nhau trong gia đình và ngoài xã
hội.
Gia đình văn hoá là khái niệm do Ban chỉ đạo nếp sống mới Trung ương đặt ra, để
chỉ một kiểu văn hoá gia đình mới, một trình độ văn hoá gia đình mới ở nước ta hiện nay.
Gia đình văn hoá là một danh hiệu để phong tặng cho những gia đình đạt được hoặc thực

hiện tốt các tiêu chuẩn đó. Danh hiệu này chỉ phẩm chất của gia đình, nói lên nếp sống có
văn hoá của gia đình.
Gia đình văn hoá là một khái niệm động, từ khi xuất hiện đến nay đã có nhiều
thay đổi. Hiện nay, chúng ta chính thức dùng tên gọi “Gia đình văn hoá” nhưng trước
đây nó được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: gia đình mới, gia đình có nếp sống văn
hoá, gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa, gia đình văn hoá mới. Phong trào xây dựng gia
đình văn hoá thực chất là xây dựng văn hoá gia đình mới, xuất phát từ việc kế thừa văn
hoá gia đình truyền thống, nâng văn hoá gia đình lên một trình độ cao hơn cho phù hợp
với điều kiện của xã hội mới.
Văn hoá gia đình và gia đình văn hoá
Trước hết, có thể khẳng định: gia đình văn hoá là giá trị tích hợp của văn hoá gia
đình [31, tr.61]. Khái niệm “gia đình văn hoá” được hình thành từ khái niệm “văn hoá gia
đình”. “Gia đình văn hoá” để chỉ một kiểu văn hoá gia đình mới, một trình độ văn hoá gia
đình mới ở nước ta hiện nay.
Phong trào xây dựng gia đình văn hoá thực chất là xây dựng văn hoá gia đình kiểu
mới, trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hoá gia đình truyền thống, nâng văn hoá gia

đình lên một trình độ cao hơn cho phù hợp với điều kiện của xã hội hiện đại.

Gia đình
không những là giá trị văn hoá, mà còn là một thực thể văn hoá, cho nên tất cả các quan
hệ và hoạt động sống của gia đình đều biểu hiện đặc trưng văn hoá của con người. Xây
dựng gia đình văn hoá phải trên cơ sở định hướng của những giá trị văn hoá gia đình.
Mục tiêu chính của công tác xây dựng gia đình văn hoá là: xây dựng gia đình hoà
thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tổ chức lao động sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập, nâng
cao ý thức cho các thành viên trong gia đình gương mẫu chấp hành chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Giáo dục cho mọi thành viên tình cảm cộng
đồng, gìn giữ gia phong, nền nếp gia đình…Các tiếu chí của xây dựng gia đình văn hoá
được xây đựng trên cơ sở những giá trị văn hoá gia đình tương ứng.
Để có gia đình văn hoá đúng với yêu cầu, đòi hỏi phải thực hiện một cách nghiêm túc

cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá phải thực sự tôn trọng các giá trị văn hoá của gia
đình, phải khai thác cho được những giá trị văn hoá, đặc biệt là các giá trị đạo đức của gia
đình Việt Nam truyền thống đồng thời bổ sung những giá trị văn hoá mới (giá trị văn hoá gia
đình dân chủ - bình đẳng) nâng lên thành giá trị văn hoá gia đình hiện đại: vừa tiên tiến, vừa
đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể khẳng định rằng: gia đình văn hoá với tư cách là một hình
thức gia đình trong điều kiện mới ở nước ta, là sự kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống
nói chung cũng như các giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam nói riêng được
bổ sung các giá trị văn hoá hiện đại, phù hợp với điều kiện của gia đình trong xã hội mới -
gia đình hiện đại mang bản sắc Việt Nam.
1.2.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng gia đình
văn hoá
Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” của
Đảng, khắp nơi trong cả nước dấy lên phong trào thi đua sôi nổi xây dựng đời sống văn
hoá như: xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng làng văn hoá, giữ gìn cảnh quan môi
trường, xây dựng các thiết chế văn hoá, tổ chức nhiều hoạt động văn hoá Nhiều gia
đình, làng, bản, xã, xóm, khu dân cư ở các địa phương đã được công nhận đạt tiêu chuẩn
gia đình, làng bản, khu dân cư văn hoá, xây dựng được quy ước nếp sống văn hoá cho
mình, xoá bỏ dần các hủ tục và cùng nhau xây dựng đời sống mới.

Nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó trong thời gian qua đã và đang
gây nên những chấn động, những sóng gió và thử thách đối với gia đình hôm nay. Đồng
thời do quan điểm thực dụng, văn hoá tiêu dùng đang gia tăng trong xã hội ta, có chỗ, có
nơi đồng tiền trở thành thước đo giá trị của con người. Bên cạnh đó, nhiều luồng văn hoá
ngoại lai cũng du nhập vào Việt Nam làm cho nhiều giá trị tinh thần bị đảo lộn, không ít
nếp sống, luân lý đẹp đẽ của xã hội bị suy giảm và rơi rụng nhiều.
Vì vậy, vấn đề hiện nay không phải chỉ là nâng cao đời sống vật chất mà phải kết
hợp với việc xây dựng đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, nếp sống có văn hoá,
đạo đức trong mỗi gia đình. Xây dựng gia đình văn hoá mới là một yêu cầu cấp thiết, cần
được tiến hành thường xuyên và liên tục. Có gia đình văn hoá hoà thuận, lành mạnh,
hạnh phúc, tiến bộ là cơ sở cho một xã hội Việt Nam đoàn kết, tốt đẹp, văn minh.

Gia đình văn hoá có thể hiểu khái quát là loại hình gia đình trong đó các mối quan
hệ cơ bản của nó được hình thành tồn tại, phát triển và hoàn thiện dựa trên các chuẩn
mực về văn hoá. Tuy nhiên, mỗi gia đình lại có những thuận lợi và khó khăn khác nhau
nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc.
Xây dựng gia đình mới - gia đình văn hoá là chủ trương được Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đề ra từ rất sớm. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Bác
Hồ đã phát động toàn dân tham gia xây dựng “đời sống mới trong một Quốc gia độc lập
mới”. Người coi xây dựng gia đình là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng đời
sống mới. Phong trào xây dựng gia đình mới bắt đầu từ những năm 1960, từ 6 gia đình ở
thôn Ngọc Tỉnh, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên đã tình nguyện đi đầu xây dựng gia đình
văn hoá với ba nội dung:
- Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, trọng tâm là
tham gia xây dựng hợp tác xã.
- Xây dựng tinh thần đoàn kết thôn xóm, giúp nhau trong lao động sản xuất.
- Gia đình vệ sinh ngăn nắp, gọn gàng và chi tiêu tiết kiệm.
Ba nội dung trên trở thành 3 tiêu chuẩn của phong trào xây dựng gia đình mới ở
thôn, xã, huyện, toàn tỉnh rồi sau đó lan sang các vùng lân cận. Tuy nhiên, những kết quả

bước đầu ấy chưa thể giải đáp trọn vẹn được những vấn đề tồn tại trong quá trình chỉ đạo
cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá (do Ban vận động nếp sống mới Trung ương đề
ra từ 1960).
Dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc “Cần tiếp tục chỉ đạo nghiên
cứu toàn diện vấn đề gia đình Việt Nam, tiến đến những chuẩn mực đầy đủ của gia đình
văn hoá hiện nay” như thông báo số 178 TB/TW ngày 29/03/1966 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã yêu cầu.
Trên cơ sở đó, khi đất nước thống nhất, Bộ văn hoá phối hợp với Trung ương Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ra Thông tư số 35/TT (12/05/1975) về việc đẩy mạnh cuộc
vận động xây dựng gia đình mới, và đưa ra tiêu chuẩn về xây dựng gia đình văn hoá như
sau:

- Gia đình hoà thuận, bình đẳng, dân chủ, hạnh phúc, tiến bộ.
- Thực hiện sản xuất tốt, sinh đẻ có kế hoạch, thực hiện tiết kiệm.
- Thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ.
Năm 1986, phong trào “Xây dựng gia đình văn hoá” được gọi là phong trào “Xây
dựng gia đình văn hoá mới”. Từ năm 1991 tên đó được thay bằng “Xây dựng gia đình
văn hoá”. Sau khi Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 4 (khoá VII) họp và ra nghị quyết về
“Một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt”, Ban chỉ đạo nếp sống văn
hoá Trung ương đã sửa đổi nội dung và tiêu chuẩn gia đình văn hoá cụ thể như sau:
- Xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ.
- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
- Đoàn kết xóm giềng.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân.
Trên tinh thần đó, các Đại hội VIII (năm 1996); Đại hội IX (năm 2001); và Đại
hội X (năm 2006) đều nhấn mạnh tới sự cần thiết phải xây dựng gia đình văn hoá, góp
phần thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để cụ thể hoá các mục tiêu, Bộ văn hoá Thông tin- nay là Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch, căn cứ vào Luật thi đua khen thưởng đã ban hành và triển khai thực hiện Quy

chế công nhận “Gia đình văn hoá”, “Làng văn hoá, “Tổ dân phố văn hoá”. Trong đó, tiêu chí
công nhận “Gia đình văn hoá” gồm:
- Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương
- Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người
- Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả
- Đời sống văn hoá tinh thần phong phú, lành mạnh
Ba tiêu chí đó chính là “chuẩn mực”, là “giá trị” mà các các gia đình cần vươn tới
để đạt được danh hiệu “Gia đình văn hoá” như một giá trị văn hoá gia đình hiện đại.
Những chuẩn mực đó không những được quy chuẩn về mặt văn bản, mà còn được thực tiễn
kiểm chứng và được xã hội thừa nhận. Đó chính là những giá trị tích hợp của văn hoá gia

đình văn hoá Việt Nam hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế đang tạo nhiều cơ hội
và điều kiện cho gia đình phát triển cũng như những tồn tại, hạn chế của nó. Vì vậy, ngày
21/2/2008 Ban bí thư đã có Chỉ thị số 49 CT/TW về “Xây dựng gia đình thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” với mục tiêu chủ yếu của công tác xây dựng gia đình
là: ổn định, củng cố và xây dựng gia đình theo tiêu chí ít con (mỗi cặp vợ chồng chỉ có
một hoặc hai con) no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để mỗi gia đình Việt Nam thực
sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Các ban ngành liên quan cũng
đã có những công văn, chỉ thị, nghị quyết về vấn đề xây dựng gia đình văn hoá. Như Thông
báo số 18/TB-BVHTT-MTTƯ ngày 04-4-2003 của Bộ văn hoá thông tin- Ban thường trực
Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam về kết quả hội nghị liên tịch
giữa Bộ văn hoá thông tin- Ban thường trực Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; Chương
trình phối hợp hoạt động số 285CTPH/HND-VHTT ngày 14/6/2001 của Hội Nông dân Việt
Nam - Bộ văn hoá thông tin về thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá” và “Xây dựng gia đình nông dân văn hoá”; Chương trình phối hợp hoạt động số
684YT-DP ngày 23/1/2003 của Bộ Y Tế- Bộ văn hoá thông tin - Ban thường trực Đoàn chủ

×