Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tư tưởng tam tòng, tứ đức của nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------

--------------

HUỲNH THỊ TỐ NHƯ
TƯ TƯỞNG “TAM TÒNG”,“TỨ ĐỨC” CỦA NHO
GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHỤ
NỮ AN GIANG HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
KHÓA HỌC: 2009 - 2013
An Giang, tháng 05 năm 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------

--------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
TƯ TƯỞNG “TAM TÒNG”,“TỨ ĐỨC” CỦA NHO
GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHỤ
NỮ AN GIANG HIỆN NAY

GVHD: ThS. Đỗ Công Hồng Ân
SVTH:


Huỳnh Thị Tố Như
Ngành học: SP GDCT
Khóa:
X
MSSV:
DCT096033

An Giang, tháng 05 năm 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy
Th.s. Đỗ Công Hồng Ân, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa
luận tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa lý luận chính trị, Trường
Đại Học An Giang đã tận tình truyền đạt kiến thức trong 4 năm học tập. Với
vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá
trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em bước vào đời
một cách vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn các bạn lớp DH10CT, DH11CT, Công ty Cổ
Phần Việt An, đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu.
Do trình độ hạn chế nên trong quá trình viết khóa luận khó tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy, cô để khóa
luận được tốt và hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp cao quý.
Trân trọng kính chào!
SVTH: Huỳnh Thị Tố Như



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................................................ 5
7. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp ................................................................................................. 5
NỘI DUNG ................................................................................................................................ 7
CHƢƠNG 1:TƢ TƢỞNG “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC” CỦA NHO GIÁO............. 7
1.1. Khái quát về sự hình thành, phát triển và vấn đề phụ nữ trong Nho giáo ........... 7
1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của Nho giáo................................................ 7
1.1.2. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo. ......................................................................... 11
1.2. Nội dung của tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức”. ....................................................... 16
1.2.1. Khái niệm “Tam tòng”, “Tứ đức” ........................................................................... 16
1.2.2. Tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thủy và Hán Nho . 18
1.2.1.Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thủy.................................. 18
1.2.2.Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Hán Nho ........................................................ 23
1.2.3. Mối quan hệ “Tam tòng”, “Tứ đức” ....................................................................... 25
1.3. Tƣ tƣởng “Tam Tòng”, “Tứ Đức” ở Việt Nam........................................................ 26
1.3.1. Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho giáo Việt Nam......... 26
1.3.2. Nội dung tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam ............................................. 31
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA TƢ TƢỞNG “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
ĐỐI VỚI NGƢỜI PHỤ NỮ AN GIANG HIỆN NAY.................................................. 34
2.1. Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với ngƣời phụ nữ An
Giang hiện nay. ....................................................................................................................... 34
2.1.1. Ảnh hưởng của tư tưởng “Tam tòng” đối với người phụ nữ An Giang hiện nay. .. 34
2.1.2. Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang hiện nay.......... 44

2.1.2.1. Công ............................................................................................................................. 44
2.1.2.2. Dung ............................................................................................................................. 55
2.1.2.3. Ngôn ............................................................................................................................. 59


2.1.2.4. Hạnh ............................................................................................................................. 61
2.2. Một số giải pháp và phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích
cực của tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang hiện nay........... 70
2.2.1. Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực của tƣ tƣởng “Tam
tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang hiện nay....................................................... 70
2.2.1.1. Giúp mọi người có nhận thức đúng về vai trò phụ nữ ............................................ 70
2.2.1.2. Giúp phụ nữ vươn lên bằng phát triển kinh tế.......................................................... 72
2.2.2. Phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực của tƣ tƣởng
“Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang hiện nay........................................... 73
KẾT LUẬN.............................................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN ......................................................................................................


BẢNG ĐĂNG KÝ CHỮ VIẾT TẮT
LHPN: Liên hiệp phụ nữ
UBND: Ủy ban nhân dân


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của phương
Đông vào thời cổ - trung đại. Cùng với những phát minh có tính chất vạch
đường trên mọi lĩnh vực của khoa học tự nhiên, của y học, Trung Quốc còn là
quê hương của nhiều hệ thống triết học lớn.
Tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành vào thời Xuân Thu Chiến Quốc - một thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập,
nhiều học giả ra đời, trình bày học thuyết của mình với mục đích sửa đổi chế
độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người. Số học giả ấy không chỉ có
một vài người và số tác phẩm viết ra không chỉ có một vài cuốn, cho nên
người ta mới gọi là Bách Gia Chư Tử. Theo sách Hán Thư, Thiên Nghệ Văn
Chí thì có 103 học phái, chủ yếu là sáu học phái: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Danh gia, Pháp gia, Âm dương gia…Có ảnh hưởng lớn nhất là 3 học phái là
Nho gia, Mặc gia và Đạo gia.
Hàng trăm học phái thời Xuân Thu - Chiến Quốc là cội nguồn tư
tưởng triết học cổ đại Trung Quốc, đó là mầm móng ban đầu của thế giới quan
và phương pháp luận. Hệ thống phạm trù được hình thành từ tư tưởng triết học
thời Tiền Tần đã quy định tiến trình phát triển của tư tưởng triết học cổ Trung
Quốc.
Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội rối ren,
loạn lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích
cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ngài là người
sáng lập ra Nho giáo. Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong “Ngũ kinh”
hay “Tứ kinh”. Quan điểm của Nho giáo thể hiện trong “Tam cương” đó là các
mối quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng và “Ngũ thường”. Nho giáo ảnh
hưởng hầu hết các nước phong kiến phương Đông qua quá trình giao thoa.
Riêng ở Việt Nam Nho giáo xuất hiện cùng với sự đô hộ của phong
kiến phương Bắc, phát triển rất nhanh trong khoảng thời gian từ thế kỷ X-XIII.
Đặc biệt từ cuối thế kỉ XIII trở đi, được xem là thời kỳ hoàng kim của Nho
giáo, điều đó cũng đồng nghĩa với việc Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và
trở thành quốc giáo.


1


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Nho giáo vào Việt Nam và đã đi hết một chặng đường dài lịch sử
dân tộc ta. Trên chặng đường ấy, có lúc Nho giáo giữ vai trò thúc đẩy, có
lúc Nho giáo kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của con
người Việt Nam. Nhưng dù thúc đẩy hay kìm hãm, Nho giáo đều góp phần
làm nên truyền thống tư tưởng, văn hoá dân tộc; góp phần vào bước tiến của
xã hội, con người Việt Nam; xây dựng nước Việt Nam ngàn năm văn hiến,
trong đó, ảnh hưởng lớn nhất đến người phụ nữ Việt Nam chính là tư tưởng
“Tam tòng”, “Tứ đức”.
Giai cấp phong kiến Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng tư tưởng “Tam
tòng”, “Tứ đức” làm công cụ để giáo hoá về tâm lý, đạo đức nhằm xây dựng
mẫu người phụ nữ tiêu biểu cho xã hội cũ. Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” là
một trong những chuẩn mực cơ bản nhất đối với người phụ nữ xưa, nó là
thước đo giá trị, tài năng, đức hạnh của người phụ nữ. Và quan trọng hơn cả là
sự ăn sâu bén rễ của nó vào tư tưởng, tâm hồn, nhân cách, lối sống, thói quen
của mọi người trong xã hội, là điều bản thân họ đặt vào tâm vào lòng để tự răn
dạy và hoàn thiện. Yêu thương hết mực, hy sinh hết mình, tần tảo một nắng
hai sương, cam chịu, nhẫn nại, là những đức tính mãi dệt nên cuộc đời người phụ
nữ Việt Nam ở xã hội phong kiến; dệt nên chân dung đậm nét của họ trong giai
đoạn dài của lịch sử dân tộc.
Người phụ nữ hiện đại ở thế kỷ XXI đã có quyền bình đẳng thực sự,
có điều kiện xã hội - gia đình để phát huy tài năng của mình. Nhưng cũng là
thời điểm khắc nghiệt của kinh tế thị trường, đạo đức phẩm hạnh của người

phụ nữ đang bị thử thách gay gắt. Đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữa
những điều tốt đẹp và những cái xấu xa. Thực tiễn cuộc sống mới, quy luật
mới đòi hỏi người phụ nữ, người vợ, người mẹ ngày nay phải có những nhận
thức, hành động mới cho phù hợp. Tổ chức cuộc sống gia đình có văn hoá về
mọi mặt: vật chất, tinh thần là điều không đơn giản. Điều này đòi hỏi phụ nữ
phải có những đức tính quý báu mang tính truyền thống và trình độ, kiến thức,
điều kiện, chuẩn mực hiện đại. Hơn cả là sự nỗ lực hết mình, tự chiến thắng
bản thân vì những điều tốt đẹp cho xã hội, vì hạnh phúc của gia đình. Vậy từ
yêu cầu về lý luận và thực tiễn đó, phụ nữ tỉnh An Giang đã vận dụng phát huy
mặt tích cực của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” như thế nào để xây dựng
chuẩn mực hiện đại.
Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” của
Nho giáo và ảnh hưởng nó đối với phụ nữ An Giang hiện nay” là một vấn đề
có ý nghĩa thiết thực, góp phần vào mục tiêu xây dựng, phát huy vai trò của
2


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

phụ nữ tỉnh An Giang. Đây cũng chính là lý do tôi chọn vấn đề này làm đề tài
nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp cuối khóa học của tôi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ảnh hưởng của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho
giáo đối với người phụ nữ Việt Nam đã được một số tác giả, các nhà bình
luận, nghiên cứu từ rất sớm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
với nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Tiêu biểu của các tác giả sau:
Trần Trọng Kim (2003), Nho Giáo, Nxb Văn học.
Hà Thúc Minh (2002), Đạo Nho và văn hóa phương Đông, Nxb Giáo

Dục.
Phan Bội Châu (1973), Khổng học đăng, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.
Phùng Hữu Lan (2010), Lược sử triết học Trung Quốc, Nxb Đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
PGS. TS Vũ Tình (1998), Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phùng Hữu Lan (2010), Tinh thần triết học Trung Quốc, Nxb Đại học
sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
Đào Duy Anh (1950), Trung Hoa Sử Cương, Nxb Bốn Phương, Sài
Gòn.
Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa.
Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (1996), Đại cương triết học Trung Quốc,
thủy và hạ, lảo thơm, Nxb Sài Gòn.
Doãn Chính (2005), Triết lý phương Đông - Giá trị và bài học lịch sử,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Minh Viết (2000), Gia đình và phụ nữ, Nxb Lao động.
Như vậy, nhìn chung, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã
nêu lên nội dung cơ bản của tư tưởng “Tứ đức” và tư tưởng “Tam tòng” trên
tầm vĩ mô thì rất nhiều nhưng nhất là sự ảnh hưởng tích cực của tư tưởng

3


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ


“Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ nữ An Giang hiện nay thì hầu như
chưa có đề tài nào đề cập đến. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đề cập đến vấn đề này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” của Nho giáo và ảnh hưởng của nó
đối với phụ nữ tỉnh An Giang hiện nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Nghiên cứu tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” của Nho giáo.
Ảnh hưởng tích cực của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người
phụ nữ An Giang hiện nay.
Trên cơ sở đó, đề ra một số giải pháp và phương hướng cơ bản nhằm
nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp; tiếp thu vận dụng sáng tạo giá trị tích cực
của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” góp phần vào việc xây dựng và phát huy
vai trò của người phụ nữ tỉnh An Giang trong thời kỳ đổi mới.
4.2. Nhiệm vụ
Phân tích làm rõ tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” của Nho giáo.
Phân tích ảnh hưởng của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ
An Giang hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp và phương hướng cơ bản nhằm phát huy
những giá trị tốt đẹp của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong quá trình xây
dựng phụ nữ An Giang hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như phân tích tổng
hợp, khái quát hóa, lôgic - lịch sử, so sánh.
6. Đóng góp của khóa luận
6.1. Về lý luận
Khóa luận nhằm hệ thống hóa một cách chung nhất về tư tưởng
“Tam tòng”, “Tứ đức” của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ An

Giang hiện nay.

4


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

6.2. Về thực tiễn
Khóa luận tốt nghiệp có thể làm tài liệu tham khảo cho phụ nữ
trong trường đại học An Giang nói chung và phụ nữ trong khoa lý luận chính
trị nói riêng, đặc biệt cho những ai quan tâm đến tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ
đức” của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ hiện nay.
Khóa luận còn đưa ra một số giải pháp và phương hướng cơ bản
nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong
quá trình xây dựng phụ nữ An Giang trong thời gian tới.
7. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
tốt nghiệp gồm 2 chương, 5 tiết.
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC” CỦA NHO GIÁO.
1.1.

Khái quát về sự hình thành, phát triển và vấn đề phụ nữ trong
Nho giáo
1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của Nho giáo
1.1.2. Vấn đề phụ nữ trong Nho giáo

1.2.


Nội dung tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức”
1.2.1. Khái niệm “Tam tòng”, “Tứ đức”
1.2.2. Tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy và Hán Nho
1.2.2.1. Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong thời kỳ Nho
giáo nguyên thủy
1.2.2.2. Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong thời kỳ Hán
Nho
1.2.3. Mối quan hệ “Tam tòng”, “Tứ đức”

1.3.

Tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam
1.3.1. Quá trình thâm nhập, phát triển và những đặc điểm của Nho
giáo Việt Nam
1.3.2. Nội dung tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam

5


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA TƢ TƢỞNG “TAM TÒNG”, “TỨ
ĐỨC” ĐỐI VỚI NGƢỜI PHỤ NỮ AN GIANG HIỆN
NAY
2.1. Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ
An Giang hiện nay
2.1.1. Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng “Tam tòng” đối với phụ nữ An Giang

hiện nay
2.1.2. Ảnh hƣởng của tƣ tƣởng “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang
hiện nay
2.1.2.1. Công
2.1.2.2. Dung
2.1.2.3. Ngôn
2.1.2.4. Hạnh
2.2. Một số giải pháp và phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát huy ảnh
hƣởng tích cực của tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ
nữ An Giang hiện nay
2.2.1. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực của
tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang hiện
nay
2.2.1.1. Giúp mọi người có nhận thức đúng về vai trò phụ nữ
2.2.1.2. Giúp phụ nữ vươn lên bằng phát triển kinh tế
2.2.2. Phƣơng hƣớng cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực của
tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với phụ nữ An Giang hiện nay

6


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

NỘI DUNG
CHƢƠNG I: TƢ TƢỞNG “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC” CỦA NHO GIÁO
Khái quát về sự hình thành, phát triển và vấn đề phụ nữ trong Nho
giáo
1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của Nho giáo

1.1.

Nói tới phương Đông cổ đại là nói đến dải đất dọc theo lưu vực sông
Nin, sông Ấn, sông Hoàng Hà từ miền Trung cận Đông đến miền cực Đông
châu Á. Đây là dải đất bị ngăn cách với bên ngoài bởi hệ thống núi non trùng
điệp và sa mạc mênh mông, cùng với nó là phương tiện giao thông kém phát
triển đã làm tư tưởng của người phương Đông cổ đại hình thành và phát triển
một cách tương đối độc lập.
Thời kỳ lịch sử cổ đại Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
minh lớn của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại
như phát minh ra chữ viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng
với Ấn Độ và các dân tộc phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương
của nhiều trường phái triết học lớn; là chiếc nôi của nhiều nhà tư tưởng.
Thời cổ, Trung Quốc đã trải qua các triều đại: Nhà Hạ, nhà Thương,
nhà Chu.
Nhà Hạ được khởi đầu bằng sự cai trị của vua Võ và kết thúc bằng sự
lật đổ vua Kiệt của Thành Thang (khoảng từ thế kỷ XXII đến thế kỷ XVII
trước Công nguyên). Nhà Thương khoảng từ thế kỷ XVII - XII trước Công
nguyên đứng đầu là vua Thành Thang, đặt đô ở đất Bạc tỉnh Hà Nam bây giờ.
Từ thế kỷ XIV trước Công nguyên, ông Bàn Canh dời đô về đất Ân cũng là
tỉnh Hà Nam bây giờ và chuyển từ sinh hoạt du mục sang sinh hoạt định cư
nông nghiệp. Vì thế, nhà Thương còn được gọi là nhà Ân.
Vào thời nhà Thương, trình độ sản xuất còn thấp, công cụ sản xuất còn
lạc hậu, quan hệ sản xuất là chế độ gia trưởng. Về văn hóa đã phát minh ra chữ
viết, đã quan sát được sự vận hành của mặt trăng, các vì sao, tính chu kỳ lên
xuống của nước sông, làm ra âm lịch, lịch mùa dựa trên “Can” và “Chi”. Về tư
tưởng thì con người ở thời nhà Thương đã bước vào giai đoạn thờ Tổ tiên,
thay tín ngưỡng Tôtem giáo.

7



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Nhà Chu chia làm hai thời kỳ: Tây Chu khoảng 1335 - 770 trước Công
nguyên và Đông Chu khoảng 770 - 221 trước Công nguyên.
Khoảng thế kỷ XII trước Công nguyên, bộ tộc Chu nổi lên chinh phục
các bộ tộc lân cận, chuẩn bị lật đổ nhà Thương. Khoảng thế kỷ XI trước Công
nguyên, con trai của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương đã diệt vua Trụ của
nhà Thương, lập nên nhà Chu, đóng đô ở Thiểm Tây ngày nay, phía Tây nước
Chu, gọi là Tây Chu, đưa đến chế độ nô lệ của Trung Quốc lên đến đỉnh cao,
mở đầu một thời kỳ mới, thời kỳ văn minh dựng nước của lịch sử Trung Quốc.
Đời nhà Chu có nhiều ông vua sáng suốt như vua Chu Văn Vương nổi tiếng là
trọng kẻ hiền tài; Chu Công có tài tổ chức việc nước, phong cho người trong
họ các nơi hiểm yếu để làm nơi phiên dậu cho mình, bày ra lễ, nhạc, chia đất
cho nông dân theo phép tỉnh điền nhằm làm cho tài sản nhân dân khỏi chênh
lệch. Sử chép rằng vua Chu Công đã chế ra xe chỉ nam để đi lại. Đây là thời
kỳ cực thịnh của nhà Chu.
Tới các đời sau, nước suy, các rợ ở xung quanh thường xâm chiếm bờ
cõi. Khi U Vương lên ngôi, ăn chơi trụy lạc, nhà Chu suy: con U Vương sợ
Tây Nhung, phải dời đô sang Lạc Ấp (tỉnh Hà Nam ngày nay). Lạc Ấp ở
phương Đông nên từ đó gọi là Đông Chu.
Xuân Thu và Chiến Quốc là hai thời kỳ lịch sử của xã hội Đông Chu.
Sự phân chia này xuất phát từ một cuốn sử của Khổng Tử, chứ không dựa trên
sự biến cố nào cả vì suốt đời Đông Chu, trên năm thế kỷ, các chư hầu tranh
giành đất đai, thôn tính lẫn nhau, chiến tranh không lúc nào ngưng.
Chính trong sự chuyển biến sôi động ấy của xã hội Trung Quốc thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, hàng loạt vấn đề về xã hội, về triết học, đã được đặt

ra, buộc các nhà tư tưởng đương thời phải quan tâm. Một loạt các trường phái
triết học ra đời, mỗi trường phái đưa ra một kế sách quản lý xã hội, đấu tranh
với nhau quyết liệt, tạo nên một không khí sôi động trong đời sống tinh thần
của xã hội Trung Quốc thời cổ đại. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách
Gia Chư Tử”. Chính trong hoàn cảnh ấy đã nảy sinh những nhà tư tưởng lớn,
hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh.
Nho giáo ra đời trong hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức nói
trên và nó trở thành một trong sáu trường phái cơ bản của triết học Trung
Quốc thời bấy giờ.

8


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, “Nho” là một danh hiệu chỉ những
người có học thức, biết lễ nghi. Nho giáo là hệ thống giáo lý của nhà nho
nhằm tổ chức xã hội có hiệu quả. Những cơ sở của nó được hình thành từ thời
Tây Chu, đặc biệt là với sự đóng góp của Chu Công Đán. Đến lượt mình,
Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa lại và tích cực
truyền bá. Vì vậy, ông thường được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Khổng Tử tên Khâu, sinh năm 551 trước Công nguyên tại nước Lỗ (nay
là Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông). Năm lên ba, Khâu mồ côi cha; lớn lên, phải làm
lụng để giúp mẹ, nhưng rất ham học. Từ năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học.
Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, Khổng Tử. Từ năm 34 tuổi, trong suốt gần
20 năm, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá tư
tưởng và tìm người biết dùng mình. Nhiều nơi thầy trò bị bỏ đói, bị vây, bị dọa
giết, và đạo của ông chẳng ai dùng. Cuối đời, ông tiếp tục dạy học và bắt tay

vào soạn sách. Ông mất năm 479 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi.
Sách kinh điển của Nho giáo gồm 2 bộ.
Bộ thứ nhất là “Ngũ kinh”, phần lớn có từ trước, Khổng Tử đã gia công
san định, hiệu đính và giải thích. Năm cuốn đó là:
Kinh Thi là sưu tập dân ca dân gian, trong đó chủ đề tình yêu nam nữ
khá nhiều. Khổng Tử dùng nó để giáo dục một tình cảm lành mạnh và cách
thức để diễn đạt tư tưởng khúc chiết rõ ràng.
Kinh Thư ghi lại những truyền thuyết và biến cố về các đời vua cổ - anh
minh như vua Nghiêu, Thuấn, tàn bạo như vua Kiệt, Trụ; Khổng Tử gia công
san định lại những mong đem họ làm gương cho đời sau.
Kinh Lễ ghi chép những lễ nghi thời trước; Khổng Tử hiệu đính lại
mong dùng nó làm phương tiện duy trì và ổn định trật tự xã hội.
Kinh Dịch khởi thủy vốn ghi chép về Âm dương, Bát quái…ở dạng ký
hiệu với sự đóng góp của Chu Văn Vương và Chu Công Đán. Từ bộ “Chu
dịch” đó, Khổng Tử đã giảng dạy sâu rộng thêm và trình bày thứ tự rõ ràng để
dễ hiểu, dễ dùng hơn.
Kinh Xuân Thu nguyên là sử ký của nước Lỗ quê hương Khổng Tử,
được ông dụng công chọn lọc sự kiện, kèm theo những lời bình, thậm chí sáng
tác thêm những lời thoại để giáo dục các vua chúa.

9


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Sau khi Khổng Tử mất, học trò tập hợp những lời dạy của thầy lại soạn
ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc của Khổng Tử là Tăng Sâm dựa vào lời
thầy mà soạn sách Đại học dạy phép làm người quân tử. Rồi một học trò Tăng

Tử là Khổng Cấp, thường gọi là Tử Tư (ông cũng chính là cháu nội Khổng
Tử), viết ra Trung dung nhằm phát triển tư tưởng của ông nội mình về cách
sống dung hòa, không thiên lệch. Đến thời Chiến Quốc, các học phái nổi lên
như nấm, có Mạnh Kha (khoảng 390 – 305 trước Công nguyên), thường gọi là
Mạnh Tử, là người bảo vệ xuất sắc tư tưởng của Khổng Tử; những lời của ông
được học trò về sau biên soạn lại thành sách Mạnh Tử. “Đại học”, “Trung
dung”, “Luận ngữ”, “Mạnh Tử” về sau hợp lại gọi là “Tứ thư”. “Tứ thư” và
“Ngũ kinh” trở thành hai bộ sách gối giường của Nho gia.
Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng - giai đoạn hình thành
Nho giáo. Đó là Nho giáo nguyên thủy. Nho giáo tiên Tần hay còn được gọi là
tư tưởng Khổng - Mạnh.
Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là đào tạo cho được những người cai trị
kiểu mẫu - người quân tử. Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu
thân. Có ba tiêu chuẩn chính:
Đạt “đạo”. Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải
biết cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh
em, bè bạn (quân thần, phụ tử, huynh đệ, bằng hữu). Năm đạo đó gọi là Ngũ
luân. Trong xã hội cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung dung.
Đạt “đức”. Người quân tử theo Khổng Tử, nếu có ba điều “Nhân - Trí Dũng” thì gọi là đạt đức. Về sau Mạnh Tử bỏ “Dũng” mà thay bằng “Lễ Nghĩa” thành 4 bốn đức: “Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí”. Đến đời Hán thêm “Tín”
thành 5 đức gọi là “Ngũ thường”.
Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn phải biết
“Thi - Thư - Lễ - Nhạc”. Khổng Tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng
là nhờ học Thi, lập thân được là nhờ biết Lễ, thành công được là nhờ có Nhạc”
(Luận ngữ). Nói cách khác, ông đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền,
mà phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là hành động, phải tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Kim chỉ nam cho mọi hành động trong công việc cai trị là
hai phương châm:

10



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Phương châm thứ nhất là nhân trị. Nhân là tình người; nhân trị là cai
trị bằng tình người, coi người như bản thân mình. Sách Luận ngữ kể rằng khi
học trò hỏi về “Nhân”, Khổng Tử đáp: “Yêu người”; còn khi hỏi thế nào là
“Nhân”, ông trả lời: “Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác”, “Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập thân, mình muốn
thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”.
Phương châm thứ hai là chính danh. Chính danh tức là vật phải ứng
với tên gọi, mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình. Chính danh
trong cai trị là phải làm sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”
(Luận ngữ). “Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói không
thuận tất việc chẳng thành” (Luận ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của
học thuyết Nho giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được những người sáng lập tóm gọn
trong 9 chữ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy chỉ nằm trong
2 chữ cai trị mà thôi.
Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu
tư tưởng của ông là cuốn Luận ngữ, ghi lại lời của Khổng Tử và học trò. Bên
cạnh đó còn có “Tứ thư” và “Ngũ kinh”.
Tóm lại, tư tưởng của Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh
hưởng tới nhiều dân tộc Á Đông trong đó có Việt Nam. Trong tư tưởng của
Khổng Tử, người phụ nữ ít được bàn đến nhưng không phải là không có. Điều
này được thể hiện trong tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” của Nho giáo.
1.1.2. Vấn đề phụ nữ trong Nho giáo

Nho giáo là một học thuyết của xã hội phong kiến, nó giữ vai trò thống
trị trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc qua nhiều thế kỷ. Vì vậy, những quan
điểm đường lối phương pháp chuẩn mực mà Nho giáo đề ra phục vụ đắc lực
cho chính xã hội sinh ra nó. Nho giáo bàn đến nhiều vấn đề như quan điểm về
thế giới (đạo, thiên lý, thiên mệnh) học thuyết về luân lý đạo đức với những
nguyên lý căn bản như: “Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín”, trong đó chữ “Nhân”
được đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là nguyên lý chủ yếu quyết
định bản tính con người và những quan hệ giữa con người với con người trong
gia tộc đến ngoài xã hội. Vậy “Nhân” là đức tính cội nguồn, là đức tính bao

11


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

trùm của mọi đức tính khác. Bên cạnh đó, Nho giáo còn bàn về quan điểm
chính trị - xã hội với phạm trù “nhân trị”, “chính danh”. Vấn đề con người nói
chung cũng được Nho giáo bàn đến. Muốn xây dựng thành công và giữ vị trí
thống trị một xã hội thì phải có con người điều hành, tổ chức xã hội đó. Điều
này khiến cho vấn đề con người được xã hội phong kiến cũng như Nho giáo
quan tâm. Con người là vấn đề trung tâm của Nho giáo nhưng không được bàn
đến trong tất cả các mặt của nó mà chú trọng vào khía cạnh luân lý, đạo đức
nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn giai cấp và ổn định trật tự xã hội. Con
người trong Nho giáo được bàn đến dưới những góc độ: nguồn gốc con người,
tính người, số phận con người, mẫu người lý tưởng, đạo làm người. Trong tất
cả các vấn đề nêu trên người phụ nữ ít được bàn đến vai trò của họ rất mờ
nhạt. Một số vấn đề trong Nho giáo đề cập đến người phụ nữ như: quan niệm
về đạo làm vợ, đạo làm con; mối quan hệ với mọi người trong gia tộc, ngoài

xã hội; quan niệm về phạm vi, lĩnh vực, công việc mà họ được phép tham gia.
Nhìn chung, người phụ nữ trong Nho giáo được đánh giá là một lực lượng cơ
bản để xây dựng xã hội nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới. Họ chỉ
tồn tại với tư cách là một yếu tố cần và đủ cho trật tự gia đình, xã hội.
Về số phận của họ cũng giống như số phận của con người nói chung,
theo Khổng Tử, con người có mệnh và họ không thể cưỡng lại mệnh (chữa
được bệnh chứ không chữa được mệnh). Còn Mạnh Tử cho rằng, trời an bài
địa vị xã hội cho con người. Đổng Trọng Thư cho rằng, trời và người cảm
thông với nhau: “Thiên nhân cảm ứng”, trời là chúa tể của việc người, người
có công thì được hưởng, người có tội thì phạt, bắt khổ phải khổ, cho sung
sướng được sung sướng. Giống như:
“Ngẫm ra muôn sự tại trời”
Hay:

“Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Quan điểm này được xây dựng trên lập trường của giai cấp thống trị, nó
phục vụ cho mục đích của giai cấp thống trị, nó buộc con người nói chung, đặc
biệt là phụ nữ vào những khuôn phép nhất định của xã hội, nó xoa dịu mâu
thuẫn giai cấp, sự bất công trong xã hội, khiến cho người phụ nữ luôn cam
chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với số phận của mình.

12


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ


Nho giáo không tìm nguyên nhân rối loạn của xã hội ở cơ sở kinh tế
mà tìm hiểu ở bản chất con người đặc biệt là ở khía cạnh đạo đức. Theo Mạnh
Tử, con người sinh ra với “tứ đoan” của bốn đức tính hằng ngày. Nhưng theo
Tuân Tử, con người được sinh ra không hề có chút “thiện đoan” nào, mà trái
lại, có những “ác đoan”. Mạnh Tử cho rằng bản chất con người là thiện, là
hiểu được các mối quan hệ vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, trên - dưới và tự
ghép mình vào các mối quan hệ đó một cách phù hợp và theo đúng chuẩn
mực. Mạnh Tử nói: “Không cha, không vua, ấy là cầm thú” [Mạnh Tử (Đằng
Văn Công, hạ): “Vô phụ vô quân thị cầm thú dã”]. Tương tự, Khổng Tử nói:
“Vua ra vua, bầy tôi ra bầy tôi, cha ra cha, con ra con” [Luận ngữ (Nhan
Uyên): “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”]. Cụ thể, trong mối quan hệ vua
- tôi, tôi tự thấy mình phải có nghĩa vụ với vua; trong mối quan hệ vợ - chồng,
vợ phải tự thấy khác biệt với chồng; trong mối quan hệ trên - dưới phải đảm
bảo tôn ti, trật tự; trong quan hệ nam - nữ phải gìn giữ phép tắc, ranh giới.
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, quan điểm này giữ vị trí thống trị trong
một thời gian dài, là cơ sở đắc lực cho giai cấp thống trị để giáo dục đạo đức
cho mọi người, mà bộ phận chịu thiệt thòi nhất chính là phụ nữ.
Chữ Hiếu được người Trung Quốc nói đến rất sớm. Những bản kim văn
như Đại Khắc Đỉnh, Trung Đôn, Quốc Khương Ân, Đỗ Bá Sở đã đề cập đến
Hiếu. Kinh Thi cũng nói về trung hiếu, khắc hiếu,…Ở đây chữ Hiếu đã đề cập
đến quan hệ giữa người với người, song nó thuộc đời sống chính hệ, nó như
sợi dây nối liền bề dưới với bề trên, nối liền con người với tổ tiên, thần thánh;
còn Hiếu với tính cách là chuẩn mực đạo đức thì, như các nhà nghiên cứu
Trung Quốc đã khẳng định, đến đời Khổng Tử mới hoàn toàn rõ nét.
Theo Khổng Tử, Hiếu có lúc là cội nguồn của nhân và cũng có lúc Hiếu
với nhân là một.
Hiếu, theo Khổng Tử là vô vi, vô cải.
Vô vi là phụng sự cha mẹ không trái với Lễ. Sách Luận ngữ chép rằng:
Mạnh Ý Tử hỏi về Hiếu, Khổng Tử đáp: Vô vi. Phàn Trì không hiểu, Khổng

Tử giải thích: “Phận làm con, khi cha mẹ còn sống phải phụng sự theo Lễ, khi
cha mẹ qua đời phải chôn cất theo Lễ, khi thờ cúng phải làm theo Lễ”(Sanh,
sự chi dĩ Lễ; tử, táng chi dĩ Lễ; tế chi dĩ Lễ) [Chu Hy: Luận ngữ, Nxb Văn
học, 1992, Thiên Vi Chính, chương V, tr.37]. [1, tr. 44 - 45]

13


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Lễ cũng vậy, theo Lễ trước hết phải có tâm, có lòng thành. Không có
tâm, có lòng thành không thể gọi là theo Lễ, không thể gọi là Hiếu. Khổng Tử
từng nói: “Đời nay, hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là người có
Hiếu nhưng những giống cầm thú như chó, như ngựa người ta cũng nuôi được
vậy. Chỉ nuôi cha mẹ mà không kính trọng thì có gì để phân biệt với sự nuôi
cầm thú này!”(kim chi Hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã giai
năng hữu dưỡng. Bất kính, hà dị biệt hồ!) [Chu Hy: Luận ngữ, Nxb văn học,
1992, Thiên Vi Chính, chương VII, tr.40]. Vậy nuôi cha mẹ thì cốt ở sự thành
kính, dẫu phải ăn gạo xấu, uống nước lã mà làm cho cha mẹ được hết cái vui,
ấy gọi là Hiếu: “Xuyết thúc ẩm thủy, tận kỳ hoan, tư chi vị Hiếu” (Lễ ký: Đàn
cung hạ). [2, tr. 45].
Theo Lễ là khi cha mẹ còn sống, phận làm con phải luôn vui vẻ, không
được đi xa, nếu thấy cha mẹ phạm lỗi lầm thì nên can ngăn dịu ngọt, nếu cha
mẹ không nghe thì phận làm con vẫn phải tỏ lòng kính trọng, nếu bị cha mẹ
đánh đập hoặc bắt làm những việc khó khăn thì phận làm con cũng không
được đem lòng oán giận.
Khi cha mẹ còn, không bao giờ làm điều gì cho cha mẹ buồn. Bởi vậy,
không nên đi đâu xa mà có đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi, để cho

cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì có thể tìm gọi được: “Phụ mẫu tại, bất viễn
du, du tất hữu phương” [Luận ngữ, Lý nhân, IV].
Trong sự Hiếu có hai điều rất nên chú ý là vô vi và vô cải. Vô vi là xử
cảnh thường, thì thờ cha mẹ không trái Lễ; vô cải là xử cảnh biến, thì không
đổi ngay cái đạo của cha mẹ. Hai điều ấy hàm ý phục tùng, song phục tùng
theo đạo phải, chứ không phục tùng một cách thuận thụ, không biết phân biệt
phải trái gì cả.
Khổng Tử có dạy phải vô cải, như Ngài nói: “Phụ tại quan kỳ chí, phụ
một quan kỳ hành, tam niên vô cải ư phụ chí đạo, khả vị hiếu kỹ: cha còn thì
phải xem xét cái chí của cha, cha mất rồi phải xem việc làm của cha, ba năm
không đổi cái đạo của cha, khả gọi là Hiếu vậy”. [3, tr.108]. Lúc cha còn thì
xem cái chí của cha, để có điều gì thì phải theo và có điều gì trái thì phải can.
Việc cha đã làm mà có nên thay đổi, thì đợi hết ba năm tang chế rồi hãy thay
đổi, trước là tỏ lòng bất nhẫn của người hiếu tử, sau là khi làm việc thay đổi
như vậy, cần phải kính cẩn thận trọng. Nghĩa hai chữ vô cải là thế, và có theo
cái nghĩa ấy thì mới thích hợp với lẽ trung.

14


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Khổng Tử dạy Hiếu, nhưng bao giờ cũng dạy phải giữa đạo trung dung.
Một hôm Diệp Công bảo Khổng Tử rằng: “Ngô đảng hữu trực cung giả, kỳ
phụ nhương dương, nhi tử chứng chi: xóm chúng tôi có người cứ lấy cái thẳng
mà khiến mình; cha đi ăn trộm dê, mà con đi làm chứng”. Ngài nói rằng: “Ngô
đảng chi trực giả dị ư thị, phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn, trực tại kỳ trung hỹ: người
thẳng xóm chúng tôi thì khác thế: cha che chở cho con, con che chở cho cha,

cái trực ở trong đó vậy”. (Luận ngữ: Tử lộ, XIII). Lời ấy thật ôn hòa, trung
dung, rất thích hợp với đạo làm người. [4, tr.109].
Như vậy, có thể nói, Hiếu đối với Khổng Tử là sự phục tùng vô điều
kiện của con cái đối với cha mẹ.
Quan điểm về Hiếu của Khổng Tử đã được Mạnh Tử và Nho gia sau
này khai thác triệt để.
Mạnh Tử đã khẳng định rằng: “Thực chất của Nhân là Hiếu, thực chất
của Nghĩa là đễ (kính anh, nghe và làm theo anh), thực chất của Trí là luôn
nhớ Hiếu đễ và thực chất của Nhạc cũng là sự biểu lộ của Hiếu đễ” (Nhân chi
thật, sự thân thị dã. Nghĩa chi thật, tòng huynh thị giã. Trí chi thật, tri tư nhị
giả, phất khử thị giả. Lễ chi thật, tiết văn tư nhị giả thị giả. Nhạc chi thật, lạc
tư nhị giả - Mạnh tử, chương Ly lâu thượng, tiết 27). [5, tr. 47]
Như vậy, nếu Nhân là đức cao nhất của con người và nếu thực chất của
Nhân là Hiếu thì Hiếu trở thành ý nghĩa lớn lao nhất của cuộc sống. Hiếu đễ
đã trở thành nguyên tắc thân thân (thương yêu người thân một cách tuyệt đối)
trong quan điểm về đạo đức của Mạnh Tử.
Theo Khổng Tử, người phụ nữ phải theo Lễ để ngăn cấm đại dục.
Khổng Tử, luôn lấy tình cảm làm trọng, nhưng theo Khổng Tử tình cảm của
người thường không có giới hạn sẽ dẫn đến hư hỏng. Ông chủ trương dùng
“Lễ” để ngăn giữ những điều xấu xa từ khi chưa hình thành. Cái đại dục của
người ta là việc ăn uống, trai, gái, bao giờ cũng có, cái đại ố của người ta là ở
sự chết chóc, nghèo khổ, bao giờ cũng có. Cho nên, dục ố là cái mối lớn nhất
của tâm vậy, người ta dấu kín cái tâm không thể dò xét được (ẩm thực, nam
nữ, nhân chi đại dục tồn yên, tử vong, bần khổ, nhân chi đại ố tồn yên. Cố dục,
ố giã, tâm chi đại đoan giã, nhân tàng kỳ tâm, bất khả trắc đạc giã, mỹ ác giai
tại kỳ tâm, bất biến kỳ sắc giã. Dục nhất dĩ cùng chí, xả lễ hà dĩ tại) (Lễ ký, Lễ
vận, IX).

15



Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Trung tâm của vấn đề về phụ nữ chính là tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ
đức” và tư tưởng này được coi là một chuẩn mực cơ bản để xây dựng người
phụ nữ xưa.
Qua những vấn đề vừa nêu ra ở trên, thì chúng ta khẳng định rằng vấn
đề phụ nữ trong Nho giáo không được tập trung nói nhiều. Nhưng vấn đề
chính là tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” để làm những khuôn thước chuẩn
mực để xây dựng mẫu người phụ nữ xưa đi vào nề nếp.
1.2.

Nội dung tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức”
Nho giáo được chia làm ba giai đoạn chính:

Nho giáo nguyên thủy với đại biểu: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử; Hán
Nho với đại biểu là Đổng Trọng Thư, Dương Hùng, Vương Sung; Tống Nho
với đại biểu là Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi.
Học thuyết của Nho giáo chủ yếu bàn về các mối luân thường đạo lý
trong xã hội. Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” cũng nằm trong các mối luân
thường đạo lý trong xã hội. Qua mỗi thời đại khác nhau, Nho giáo nói chung,
tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng có sự biến đổi về nội dung và ảnh
hưởng của nó đến tư tưởng, hành động của người phụ nữ.
1.2.1. Khái niệm “Tam tòng”, “Tứ đức”
“Tam tòng”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, có
nghĩa là ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con (trai trưởng).
“Tứ đức”: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
Theo từ điển Hán Việt:

Công: Khéo léo
Dung: dáng mạo gồm có:
Dung mạo: Chỉ dáng điệu và sắc mặt
Dung sắc: Chỉ dung mạo và nhan sắc.
Ngôn: Lời nói.
Hạnh: chỉ nết na, đức hạnh

16


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Hạnh còn là hạnh kiểm: nết na giữ gìn; hành vi theo mực thước.
Theo tác giả Lê Minh Viết trong tác phẩm “Gia đình và phụ nữ” (Nhà
xuất bản Lao động, năm 2000), thì:
Công: có nghĩa là công việc, biết cách làm việc một cách có trí
tuệ, có tỉ mỉ, có rèn luyện đến điệu nghệ.
Dung: là dung nhan, dung mạo, nghĩa là dáng dấp thể hiện ra
bên ngoài qua gương mặt, qua dáng hình khi đi đứng, nói cười, ứng xử hoặc
khi xử lý tình huống trong cuộc sống.
Ngôn: vừa mang nghĩa “thuyết” tức là ý nghĩa, trí tuệ, vừa mang
nghĩa “thoại” tức là lời ăn tiếng nói.
Hạnh: tức đức hạnh, phẩm giá.
Trong bài “Gia huấn ca” (Dạy con cái ăn ở cho có đức hạnh) có viết về
tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” như sau:
Phận con gái ở cùng bên cha mẹ
Lòng phải chăm học khéo học khôn
Một mai xuất giá hồi môn

Phận bồ liễu giá trong như ngọc
Khéo là khéo bánh trong bánh bọc
Lại ngoan nghề dệt vóc may mền
Khôn là khôn lễ phải dường tin
Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi
Không chẳng tưởng mưu lừa chước dối
Khéo chẳng khoe mẽ lịch triều trai
Xưa nay hầu dễ mấy ai
Miệng khôn tay khéo cho trai được nhờ
Phận làm gái nghe lời khéo khuyến

17


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

Lắng tai nghe truyện cổ mới nên
Kiêm tứ đức: Công - Dung - Ngôn - Hạnh
Công là đủ mùi xôi, thức bánh
Nhiệm đặt thay đường chỉ mũi kim
Dung là nét mặt ngọc đoan trang
Không tha thướt không chiều chiều lả lướt
Ngôn là lạy, trình, thưa, vâng, dạ
Hạnh là đường ngày thảo kính tin
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền
Công - Dung - Ngôn - Hạnh là tiên phàm trần.
Tóm lại, tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” là hai tư tưởng cơ bản, là
chuẩn mực đạo đức để xây dựng mẫu người phụ nữ phong kiến của Nho giáo.

1.2.2. Tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thủy và
Hán Nho
1.2.2.1. Tƣ tƣởng “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo nguyên thủy
Nho giáo nguyên thủy với những đại biểu xuất sắc: Khổng Tử, Mạnh
Tử, Tuân Tử.
Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo - nhà tư tưởng mở đường cho
Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại. Thời đại của Khổng Tử là “Bá đạo” đang
nổi lên lấn át vương đạo, trật tự, lễ nghĩa nhà Chu bị đảo lộn. Trước tình hình
đó, Khổng Tử than rằng, vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha
không phải đạo cha, con không phải đạo con. Đứng trên lập trường của bộ
phận cấp tiến trong tầng lớp quý tộc cũ, ông chủ trương lập lại kỷ cương cũ
của nhà Chu. Để thực hiện mục đích đó, ông xây dựng nội dung tư tưởng đạo
đức của mình thành hai mảng rõ nét: đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Đạo đức xã hội: Chính danh. Khổng Tử giải thích: Chính danh là làm
mọi việc cho ngay thẳng, là “…Vua phải làm trọn đạo làm vua, bề tôi phải
làm trọn đạo bề tôi; cha phải làm trọn đạo của cha và con phải làm trọn đạo
của con…” (…Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử…) [Than Nhan Uyên,

18


Khóa luận tốt nghiệp đại học

Huỳnh Thị Tố Nhƣ

chương XI, tr.420]. Cuộc sống có rất nhiều danh tạo nên rất nhiều luân nhưng
theo Nho giáo chỉ có Ngũ luân phản ánh năm mối quan hệ cơ bản trong xã hội.
Đấy là: quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè bạn. Sách Trung
dung viết: “…vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bầu bạn kết giao đó là năm
bậc thông thường của đời người trong thiên hạ…” (…Thiên hạ chi đạt đạo

ngũ…: quân thần dã, phụ tử dã, phu phụ dã, côn đề dã, bằng hữu chi giao
dã…) [Trung dung, chương XX].
Chính danh của “Ngũ luân” là: Quân nhân - thần trung, phụ từ - tử hiếu,
phu nghĩa - phụ thính, huynh lương - đệ đễ và trưởng tuệ - ấu thuận [xem Lễ
vận, chương VIII, tiết 2]. Đây là xương sống tư tưởng về đạo đức xã hội của
người sáng lập ra Nho giáo.
Nhìn chung, dù ở góc độ luân lý hay luận lý, chính danh của Nho giáo
nguyên thủy là chính danh hai chiều trong quan hệ mà trước hết nó đặt trách
nhiệm vào bề trên. Đây chính là chính danh với “Quân minh - thần trung, phụ
từ - tử hiếu”. Nó khác hẳn với quan điểm “quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung. Phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu” để dẫn đến ngu trung, ngu hiếu mà hậu
thế đã khai thác lệch lạc của nó.
Chính danh là nền tảng mà trên đó tư tưởng đức trị và những tư tưởng
khác về xã hội của Nho giáo được hình thành và phát triển. Chính danh cũng
là cơ sở để định hình những nội dung cơ bản của đạo đức đối với mỗi cá nhân.
Đạo đức cá nhân: “Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí”. Thấm nhuần quan điểm
thiên nhân tương dữ của người Trung Quốc cổ đại, Nho giáo cho rằng: Trời có
tứ đức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh thì người có “tứ đoan” là “Nhân - Lễ Nghĩa - Trí”. Nhân là đức Nguyên, Lễ là đức Hanh, Nghĩa là đức Lợi, Trí là
đức Trinh. Ở đây, Nguyên có nghĩa là đầu mối, cũng có nghĩa là lớn; Hanh
nghĩa là thông thái, cũng có nghĩa là thuận tiện; Lợi có nghĩa là thỏa thích,
cũng có nghĩa là nên, phải; Trinh có nghĩa là chính, cũng có nghĩa là bền, chặt.
[Xem dịch, phần Văn ngôn, quẻ Bát thuần càn].
Để học thuyết của mình trở thành hiện thực, Khổng Tử tập trung xây
dựng mẫu người “quân tử” với chủ trương “đức trị”. “Quân tử” là mẫu người
lý tưởng để người đàn ông trong xã hội phong kiến phấn đấu và được Khổng
Tử bàn đến rất nhiều. Còn về phụ nữ, Khổng Tử cũng cho rằng họ là một lực
lượng đông đảo để xây dựng xã hội, sự ổn định của trật tự xã hội cũng phần
nào phụ thuộc vào họ, nhưng do quan niệm bất bình đẳng nam nữ nên hầu như

19



×