Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện phú tân, tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.61 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN DƯƠNG NGỌC THANH
Đề tài:
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Khóa học: 2008 – 2012
An Giang, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN DƯƠNG NGỌC THANH
Đề tài:
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
DỤC GIÁO CHÍNH TRỊ
Nghành học
Cán bộ hướng dẫn

: Sư phạm giáo dục chính trị
: Cử nhân CHAU SÓC KHĂNG


Khóa học: 2008 – 2012
An Giang, 2012


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, em đã nhận được sự hỗ
trợ và giúp đỡ của:
• Ban Giám hiệu trường Đại học An Giang. Đặc biệt là thầy cô trong
khoa Lý Luận Chính Trị đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành khóa luận này.
• Thầy Chau Sóc Khăng đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong
suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
• Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban ngành của
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang đã nhiệt tình cung cấp những tài liệu
thiết thực và bổ ích, góp phần thuận lợi cho em hoàn thành khoá luận
tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!

Long xuyên, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Dương Ngọc Thanh


MỤC LỤC
Phần mở đầu ............................................................................................................ 01
Phần nội dung .......................................................................................................... 05
Chương 1: Nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay ....................................................... 05
1.1. Đời sống văn hóa tinh thần và tính quy luật của quá trình xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .............. 05

1.1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần ...................................................... 05
1.1.2. Tính quy luật của quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ................................................................. 09
1.2. Nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và tầm quan trọng
của nó đối với huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay .......... 12
1.2.1. Một số quan điểm cơ bản của Đảng về nhiệm vụ xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần ....................................................................................................... 12
1.2.2. Tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
của huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay ................................... 18
Chương 2: Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang và một số kiến nghị ........................................................................ 25
2.1. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân ...................... 25
2.1.1. Lễ hội ........................................................................................................ 25
2.1.2. Phong tục ................................................................................................... 33
2.1.3. Tôn giáo .................................................................................................... 35
2.1.4. Nghệ thuật ................................................................................................. 37
2.2. Những vấn đề đặt ra và một số kiến nghị đối với việc xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay ...................... 38
2.2.1. Những vấn đề đặt ra và nguyên nhân của nó ............................................ 38
2.2.2. Một số kiến nghị đối với việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay ................................................................... 41
Phần kết luận ........................................................................................................... 50
Danh mục tài liệu tham khảo


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối
cảnh toàn cầu hóa. Song song với những cơ hội là những thách thức với những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường: xu hướng chạy theo lợi nhuận, tiêu
dùng vật chất, tuyệt đối hóa cá nhân, ích kỷ. Tác động mặt trái của toàn cầu
hóa: nguy cơ bị “xâm lăng bằng văn hóa thông tin”, sự áp đặt văn hóa từ các
nước lớn (những nước lớn nhân danh các giá trị và chuẩn mực văn hóa toàn
cầu mà đề ra những quyết định bất lợi cho các nước nhỏ), …
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia,
là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của từng dân tộc. Chính bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam đã góp phần làm nên sức mạnh Việt Nam không bị đồng
hóa, đứng vững và phát triển qua các biến động của chiều dài lịch sử. (mất bản
sắc dân tộc sẽ trở thành vong bản, quốc gia còn nhưng dân tộc “không còn”).
Từ khi mới ra đời, Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và phát triển xã
hội và điều này đã được thể hiện cụ thể trong đề cương văn hóa 1943. Trong
quá trình xây dựng và phát triển xã hội trong điều kiện mới như hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta lại càng ý thức sâu sắc hơn vai trò của văn hóa trong
công cuộc phát triển đất nước, coi văn hóa là nền tảng, là mục tiêu và là động
lực của sự phát triển và chủ trương xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Trong những năm gần đây, khi đi vào cơ chế của nền kinh tế thị trường,
khi thông tin và các phương tiện chuyển tải văn hóa nghệ thuật ngày càng phát
triển và hiện đại, bên cạnh những ưu điểm thì những mặt tiêu cực trong sự vận
động của xã hội đã làm cho nền văn hóa truyền thống bị suy giảm. Người dân
càng xao lãng việc tổ chức sinh hoạt văn hóa cộng đồng như: đờn ca tài tử, thể
dục thể thao, giao lưu văn hóa, ... Nền văn hóa, văn nghệ ở huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang đang đứng trước những thử thách lớn. Các hoạt động văn nghệ
dân gian trước đây diễn ra thường xuyên thì giờ đây trở nên thưa thớt. Thế hệ
trẻ không tha thiết với sinh hoạt văn hóa dân gian, và những giá trị tinh thần
truyền thống, có nguy cơ làm đứt đoạn với truyền thống văn hóa dân tộc.

Sự xâm nhập của nền văn hóa bên ngoài từ nhiều luồng đã tấn công vào
nền văn hóa dân tộc vốn đã yếu sức đề kháng. Lứa tuổi thanh niên chưa ý thức
đầy đủ về nền văn hóa dân tộc của mình nên dễ tiếp thu văn hóa bên ngoài


2

không có sự chọn lọc, có biểu hiện xu hướng vọng ngoại, quay lưng lại với
những sinh hoạt văn hóa dân tộc.
Việc xã hội hóa những chương trình văn hóa nghệ thuật mang đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc, dù đã đạt được những kết quả khích lệ nhưng vẫn
chưa thu hút được đông đảo công chúng quan tâm thực sự.
Trước tình hình và thực trạng đó, việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở, đặc biệt là xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phải được đặt lên vị trí
tương xứng của sự phát triển văn hóa và chiến lược xây dựng con người trong
tình hình mới.
Từ tình hình trên, tôi chọn và thực hiện đề tài: “Xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay” làm khóa luận tốt
nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
- Gs, Ts. Trần Văn Bính chủ biên Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ
thực trạng và những vấn đề đặt ra (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội
2004).
- Nguyễn Công Bình và các tác giả, Văn hóa và cư dân đồng bằng sông
Cửu Long, (Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 1990).
- Ngô Văn Lệ, Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông
Nam Á, (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh 2003).
- Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, (Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin Hà Nội 1998).
- Phan Ngọc, Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, (Nhà xuất bản

Văn hóa thông tin, Hà Nội 1994).
- Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, (Nhà xuất bản Giáo dục
1999).
- Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, (Nhà xuất bản
Thành Phố Hồ Chí Minh 2001).
- Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thu (đồng chủ biên), Văn hóa, lối sống
và môi trường, (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1998).
- Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
(Nhà xuất bản trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh 2004).
Các công trình kể trên đều thể hiện cách tiếp cận rất khác nhau, dưới
nhiều góc độ nhưng tựu chung lại đều có giá trị rất lớn phục vụ lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên, hầu hết đều chưa đi sâu tìm hiểu giá trị đời sống văn hóa tinh
thần ở một địa phương cụ thể, cũng như đề ra các giải pháp góp phần xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần ở một địa phương cụ thể. Vì vậy, việc nghiên


3

cứu, tìm hiểu xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân, tỉnh An
Giang hiện nay ở nước ta vẫn mang tính thời sự cấp bách, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn to lớn.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi
3.1. Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
3.2. Mục đích
Nghiên cứu thực trạng của việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
Chỉ ra những vấn đề mới nảy sinh cần giải quyết, trên cơ sở đó đưa ra
những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện
nay.
3.3. Nhiệm vụ
Làm rõ những vấn đề lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần và
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong quá trình trong quá trình đổi mới ở
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những mặt tích cực và hạn
chế trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang hiện nay.
Đề xuất những giải pháp góp phần giữ gìn, phát triển góp phần xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
3.4. Phạm vi
Luận văn chỉ nghiên cứu các lĩnh vực hoạt động về lễ hội, phong tục,
tôn giáo, nghệ thuật ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay dưới góc độ
môn chủ nghĩa xã hội.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
những quan điểm cơ bản của Đảng và các phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp
so sánh, tham khảo sử dụng tư liệu của các tác giả, để đi sâu vào trọng tâm các
vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài làm rõ thực trạng của việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.


4

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xây dựng đời sống xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.

Đề tài có thể là nguồn tư liệu chính để chính quyền, các cấp ủy ở địa
phương tham khảo trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nói riêng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khóa
luận được chia làm 2 chương, 4 tiết.
PHẦN NỘI DUNG: gồm 2 chương
Chương 1:
NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ TÍNH QUY LUẬT CỦA QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
1.1.2. Tính quy luật của quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ
TẦM QUAN TRỌNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN
GIANG HIỆN NAY
1.2.1. Một số quan điểm cơ bản của Đảng về nhiệm vụ xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần
1.2.2. Tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần của huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay
Chương 2:
THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở HUYỆN PHÚ
TÂN, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
hiện nay
2.1.1. Về lễ hội
2.1.2. Về phong tục

2.1.3. Về tôn giáo
2.1.4. Về nghệ thuật
2.2. Những vấn đề đang được đặt ra và một số kiến nghị đối với việc xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay
2.2.1. Những vấn đề đang được đặt ra và nguyên nhân của nó


5

2.2.2. Một số kiến nghị đối với việc xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ TÍNH QUY LUẬT
CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
Đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, tùy thuộc vào những
không gian, thời gian khác nhau và những tác giả khác nhau. Điều đó chứng tỏ
tính đa dạng phong phú và tính luôn luôn biến đổi của văn hóa. Văn hóa là
một khái niệm có nội dung rất phong phú và đa dạng, qua đó cho thấy việc xác
định khái niệm văn hóa không đơn giản bởi các tác giả khác nhau thường hiểu
nội dung của nó khác nhau tùy thuộc vào góc độ tiếp cận và tùy thuộc vào việc
xuất phát từ cứ liệu riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề mình cần nghiên
cứu.
Năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình Văn hóa nguyên thủy ở Luân

Đôn. Lúc này, ngành khoa học về văn hóa mới chính thức được khẳng định,
bởi E.B.Tylor đã xác lập được đối tượng nghiên cứu của ngành văn hóa học.
Trên cơ sở này, E.B.Tylor đã đề xuất một định nghĩa đầu tiên về văn hóa và
khá nổi tiếng: “Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ phức thể bao gồm
hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và những khả
năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên
của xã hội” [12; tr.19]. Như vậy, E.B.Tylor cho rằng con người có được văn
hóa với tư cách là một thành viên xã hội, không có cộng đồng nào không có
văn hóa và cũng không có văn hóa nào tồn tại ngoài cộng đồng. Đi sâu tìm
hiểu định nghĩa này, có thể thấy, E.B.Tylor đã nhấn mạnh về mặt tinh thần của
văn hóa. Định nghĩa này cũng nêu gộp mọi bình diện, cấp độ của văn hóa, do
đó chưa nêu được bản chất văn hóa, vì vậy chỉ là định nghĩa mang tính chất
mô tả và văn hóa không đơn giản là sự hiểu biết. Đây được xem là định nghĩa
đầu tiên, cổ điển, tiêu biểu về văn hóa, dù chưa phải là hay nhất và đầy đủ
nhất.


6

Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor lại đưa ra định nghĩa: “Văn
hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc
sống con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng như đang diễn ra trong hiện
tại, qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành nên hệ thống các giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc
riêng của mình” [8; tr.22].
C. Mác viết: Chúng ta buộc phải bắt đầu bằng việc xác định tiền đề đầu
tiên của mọi sự tồn tại con người, và do đó tiền đề của mọi lịch sử, đó là người
ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống
được thì trước hết phải có thức ăn, nước uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác. Như vậy hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất những tư liệu để thỏa

mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một
hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như
hàng ngàn năm về trước) người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ để
nhằm duy trì đời sống con người [13; tr.10-11]. Từ đây Mác cho rằng, hành vi
lịch sử đầu tiên của con người là sản xuất vật chất để đáp ứng các nhu cầu ăn,
mặc, ở, đi lại. Trên cơ sở sản xuất vật chất, con người từng bước sáng tạo ra
các giá trị tinh thần, văn hóa xuất hiện. Văn hóa như là sự thăng hoa của quá
trình sản xuất vật chất, là cái để con người khẳng định mình. Và do vậy, bản
chất con người luôn sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Quan niệm của Mác,
Ăngghen về văn hóa đã được V.I.Lênin kế thừa và phát triển. Với V.I.Lênin,
văn hóa luôn gắn liền với phát triển và hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội
[13; tr.11].
Ngày nay, văn hóa thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp, văn
hóa nói chung và các nền văn hóa cụ thể. Văn hóa hiểu theo cách khái quát
nhất và rộng nhất có thể coi văn hóa là để chỉ toàn bộ những sáng tạo của con
người về vật chất, về tinh thần và về ứng xử, đó là những sáng tạo và hoạt
động có ích cho cuộc sống con người, cho xã hội loài người và cho thế giới
xung quanh trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, quần thể cộng đồng
và thế giới tâm linh. Còn văn hóa hiểu theo nghĩa riêng, chính là đặc trưng đời
sống mang tính chung cho cộng đồng người, đồng thời là bản sắc riêng khi đối
sánh, phân biệt văn hóa với cộng đồng người khác.
Nhìn chung, tuy có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa nhưng
mọi khái niệm văn hóa đều thống nhất những đặc điểm sau:
Một là, văn hóa bao gồm văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất chứ
không chỉ là văn hóa tinh thần hay văn hóa nghệ thuật.


7

Hai là, văn hóa không chỉ có nghĩa là văn học nghệ thuật như thông

thường người ta thường nói. Văn học nghệ thuật chỉ là một bộ phận cao nhất
trong lĩnh vực văn hóa.
Ba là, văn hóa là sự sáng tạo của con người hướng tới giá trị chân –
thiện – mỹ. Do vậy, nó trở thành dấu hiệu tộc loại để phân biệt con người với
động vật khác.
Bốn là, văn hóa xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý
thức của con người với tự nhiên nên văn hóa cũng là kết quả của sự thích nghi
đó.
Năm là, nói đến văn hóa là nói đến tính hệ thống với chức năng tổ chức
xã hội, tính giá trị với chức năng điều tiết xã hội, tính lịch sử với chức năng
giáo dục, tính nhân bản với chức năng giao tiếp;
Sáu là, văn hóa về bản chất là một quá trình phát triển mang tính người,
nó là cái đặc trưng cho một cộng đồng dân tộc.
Văn hóa tinh thần (hay văn hóa phi vật thể) là loại văn hóa bao gồm các
giá trị tinh thần đã được thừa nhận. Văn hóa tinh thần tồn tại dưới dạng những
sản phẩm đã thành thạo các hoạt động tinh thần: tri thức khoa học, tác phẩm
nghệ thuật, những chuẩn mực đạo đức và pháp quyền, … Văn hóa tinh thần
không chỉ biểu hiện đơn giản bằng các sản phẩm hoạt động tinh thần mà còn
bằng nội dung sáng tạo của hoạt động này cùng với những quan hệ giữa người
với người đã xác lập trong tiến trình hoạt động.
Lao động sáng tạo ra những giá trị tinh thần là nền tảng của toàn bộ
hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực văn hóa tinh thần. Không có
sáng tạo trong sản xuất thì không nói tới việc bảo quản, phân phối, trao đổi và
sử dụng giá trị tinh thần. Sản xuất tinh thần là yếu tố cấu trúc hệ thống cơ bản
của văn hóa tinh thần.
Đời sống văn hóa tinh thần tinh thần bao gồm các lĩnh vực hoạt động
chủ yếu: lễ hội, phong tục, nghệ thuật, tôn giáo. Mỗi lĩnh vực hoạt động có
mục đích, nhiệm vụ và chức năng riêng nhưng có quan hệ mật thiết với nhau
Thứ nhất về hoạt động lễ hội: là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần của
con người, gắn với con người như một điều tất yếu, lễ hội bao gồm hai phần:

Lễ (tế rước mang màu sắc tâm linh) và Hội (các trò chơi dân gian, vừa thể
hiện tính khéo léo vừa nêu cao tinh thần thượng võ, tính đoàn kết của cộng
đồng).
Lễ hội tưởng nhớ các đối tượng được nhân dân thờ cúng, nó giữ gìn và
phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó người dân được vui
chơi giải trí, đáp ứng nhu cầu về mặt tâm linh, con người được tham gia vào


8

phần hội, được hòa mình vào cộng đồng để có được sự thoải mái trong tâm
hồn. Ngoài ra lễ hội còn làm đa dạng và phong phú diện mạo đời sống người
dân.
Lễ hội đáp ứng những nhu cầu tinh thần, tâm linh không thể thiếu của
con người như trở về với tự nhiên, cội nguồn, là môi trường để người dân thể
hiện sức mạnh cộng đồng. Nó mang giá trị bảo tồn văn hóa và truyền thống
của dân tộc.
Thứ hai về hoạt động phong tục: là những toàn bộ thói quen của con
người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp được
cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Phong tục
không mang tính cố định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức, tuy nhiên nó
cũng không tùy tiện, nhất thời như hoạt động sống thường ngày.
Phong tục của một dân tộc, một địa phương, một tầng lớp xã hội, thậm
chí của một dòng họ và gia tộc, thể hiện qua nhiều chu kỳ khác nhau của đời
sống con người. Hệ thống các phong tục liên quan đến vòng đời của con người
như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão; phong
tục tang ma, cúng giỗ, … Hệ thống các phong tục liên quan đến chu kỳ lao
động của con người, mà với cư dân nông nghiệp là từ làm đất gieo hạt, cấy hái
đến thu hoạch, với ngư dân là theo mùa đánh bắt cá, …

Phong tục là một bộ phận của văn hóa, có vai trò quan trọng trong việc
hình thành truyền thống của một dân tộc, địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí
chế định nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong tục được tuân thủ
theo quy định của luật tục hay hương ước. Cùng với sự phát triển của xã hội,
một số phong tục không còn phù hợp với thời đại mới, bị đào thải, trong khi
một số phong tục mới được hình thành.
Thứ ba, về lĩnh vực hoạt động nghệ thuật: là nhằm sáng tạo các giá trị
nghệ thuật đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người. Là lĩnh vực hoạt động có
tính chất đặc trưng nhất, mang tính thẩm mỹ cao nhất trong các hoạt động
sáng tạo tinh thần, và đồng thời, cũng có tính giáo dục, cảm hóa mạnh mẽ nhất
đối với con người.
Nghệ thuật bao gồm nhiều bộ môn: Văn học, mỹ thuật, nhiếp ảnh, âm
nhạc, hội họa, … Chúng lấy chất liệu từ cuộc sống phong phú, sôi động trên
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội và chúng: “đã đưa lại một cái
gì cao hơn chất liệu ấy và những phẩm chất vốn có trong bản thân chất liệu”
[5; tr.203]. Có thể nói hoạt động nghệ thuật cũng là một nhịp cầu - một “nhịp


9

cầu đặc biệt” để giúp cho cuộc sống con người và xã hội từ thế hệ này sang thế
hệ khác hướng tới cái đẹp, cái cao quý cả trong tâm hồn lẫn thể chất.
Nghệ thuật thu hút sự chú ý không chỉ của một số người nhất định như
các lĩnh vực khác, mà là của mọi người. Tính phổ biến của nghệ thuật là tạo
cho nó khả năng kết dính, thống nhất con người lại với nhau trong cái đẹp, cổ
vũ cho cái đẹp và phấn đấu vì cái đẹp dù cho họ là ai, thuộc diện sống nào và
ở đâu trên trái đất này. Thông qua hoạt động nghệ thuật, con người đến với nó
còn là để thỏa mãn những sở thích cá nhân hoặc đi tìm những niềm vui, giải
tỏa những mệt mỏi sau thời gian lao động căng thẳng. Nhu cầu giải trí (hiểu
theo nghĩa tích cực) thì không những có ý nghĩa bù đắp lại sức lao động đã

mất đi mà còn phát triển những năng khiếu nghệ thuật tiềm tàng, bẩm sinh ở
mỗi con người. Với ý nghĩa đó, rõ ràng thông qua lĩnh vực hoạt động nghệ
thuật, chức năng giải trí của nghệ thuật không tách rời chức năng giáo dục,
nhằm hoàn thiện con người, phát huy sự sáng tạo của mỗi cá nhân làm bồi bổ,
phát triển trở lại nghệ thuật.
Thứ tư, về lĩnh vực hoạt động tôn giáo: là hoạt động hướng về một thế
giới siêu nghiệm với niềm tin tuyệt đối, sự trông cậy và tình cảm yêu mến đối
với thế giới siêu nghiệm đó [10; tr.38-42].
Tình cảm tôn giáo, dù là tôn giáo lớn hay nhỏ, quốc tế hay quốc gia
(loại trừ những người lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu) thì cũng đều là để
nhằm giải thoát con người. Sự giải thoát đó, tất nhiên tùy theo từng tôn giáo,
từng điều kiện lịch sử mà mang những hình thức khác nhau nhưng đều thể
hiện khát vọng muôn thuở của con người là vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp,
vươn tới tình thương, lẽ phải và sự công bằng trong mọi mặt đời sống, hoạt
động và quan hệ con người.
Hệ thống luân lý, đạo đức mà tôn giáo tạo ra được trong quá trình hình
thành và phát triển của nó, đương nhiên mang dấu ấn lịch sử và giai cấp nhưng
đều có điểm tương đồng, xuyên suốt từ Đông sang Tây, từ cổ đến kim là
hướng tới chân, thiện, mỹ - hệ giá trị phổ quát của mọi nền văn hóa. Trong hệ
giá trị đó, mỗi tôn giáo bằng cách riêng của mình, đã định hình thành những
tiêu chí, những qui tắc tinh thần và khuyên con người đạt tới.
Từ những phân tích về khái niệm, về hình thái tồn tại của văn hóa và
đời sống văn hóa tinh thần cũng như các lĩnh vực hoạt động của đời sống văn
hóa tinh thần nói trên có thể đi đến kết luận rằng, đời sống văn hóa tinh thần
là tổng hòa sống động các hoạt động lễ hội, phong tục, nghệ thuật, tôn giáo
để tạo ra các giá trị và làm cho các giá trị đó thấm sâu vào từng con người,
từng cộng đồng, trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc sống, hoạt động


10


và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng tăng của
mọi thành viên trong xã hội.
1.1.2. Tính quy luật của quá trình xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Văn hóa do con người tạo ra. Điều đó không ai bác bỏ được. Văn hóa
đó là những giá trị cụ thể nhất định, những thành tựu trong các lĩnh vực hoạt
động sản xuất khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật nói lên trình độ phát triển của
một xã hội trong một thời kỳ lịch sử nhất định, bao gồm cả những giá trị thừa
hưởng của quá khứ và được xã hội thừa nhận. Văn hóa còn bao gồm cả những
phương thức và hình thức tiêu thụ những giá trị ấy, sử dụng chúng cho cuộc
sống và hoạt động của con người. Do vậy, xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần, cần làm cho cá nhân, cộng đồng nắm được những giá trị do xã hội truyền
thống tạo ra, rèn luyện năng lực sử dụng và vận dụng nó vào thực tiễn những
tri thức thu lượm được và rèn luyện những kỹ năng vì lợi ích xã hội. Nhưng
nếu dừng lại ở truyền thống vẫn chưa đủ mà phải vươn lên sự sáng tạo vì văn
hóa là một hiện tượng xã hội phát triển không ngừng. Đời sống văn hóa tinh
thần chiếm một vị trí đặc biệt trong các hiện tượng xã hội.
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có nghĩa là chúng ta đoạn tuyệt với những yếu tố nào đó của nền văn
hóa cũ mang những đặc điểm của hệ tư tưởng lỗi thời, với những truyền thống
phản động trong lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, với những quan
niệm sai lầm trong khoa học và nghệ thuật, với mọi thứ thành kiến. Trong tình
hình hiện nay là phải kiên quyết đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực,
phản văn hóa, suy đồi đạo đức. Đồng thời, sự phát triển của văn hóa và quá
trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần luôn chịu sự qui định bởi cơ sở kinh
tế, chính trị của một chế độ xã hội nhất định. Do vậy, tách rời khỏi cơ sở kinh
tế và chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất và quy luật phát
triển của văn hóa cũng như đời sống văn hóa tinh thần nói chung và trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội, đời sống văn hóa tinh thần có những tính quy luật chủ yếu sau đây:
Một là, tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải xây dựng thành công phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, trên cơ
sở phương thức sản xuất tiên tiến đó sẽ góp phần thay đổi các quan hệ xã hội,
đời sống tinh thần của xã hội.
Hai là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ là quá
trình cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tình của của chế độ cũ để lại nhằm giải
phóng nhân dân thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức xã hội cũ lạc hậu. Mặt


11

khác, còn là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa quần chúng nhân dân thật sự
trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh
thần. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu dài. Về thực chất, đây là cuộc
đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa.
Ba là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ là tất
yếu trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng nhân dân lao
động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa. Đây là điều kiện cần thiết để
động đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, nâng cao
trình độ và nhu cầu văn hóa của quần chúng.
Bốn là, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ xuất
phát từ yêu cầu khách quan: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, “xây” và “chống” là hai mặt gắn liền nhau trong sự vận động
và phát triển của đời sống văn hóa tinh thần.
Sáu là, đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được hình thành và phát triển thông qua sự giữ gìn, kế thừa và phát huy di
sản văn hóa quý báu của dân tộc và tiếp thu những giá trị văn hóa của nước
ngoài, đồng thời với hai quá trình đó là sáng tạo vun đắp những giá trị mới,

làm cho những giá trị đó thấm sâu vào từng con người và toàn xã hội.
Bảy là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự vận động và phát
triển của đời sống văn hóa tinh thần luôn gắn liền, phụ thuộc và tác động trở
lại tiến trình cũng như kết quả của việc giải quyết những nhiệm vụ chính trị,
kinh tế và xã hội. Đây chính là mối quan hệ mang tính quy luật giữa xây dựng
và phát triển đời sống văn hóa tinh thần với xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội.
Từ sự phân tích những vấn đề mang tính quy luật của quá trình xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần nói trên, xuất phát từ kinh nghiệm của nhiều
nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, có thể khẳng định rằng việc xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có
vai trò, tác động hết sức quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực khác của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở mỗi quốc gia. Tầm quan trọng đó
được thể hiện trên các phương diện chủ yếu như sau:
- Thứ nhất, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần nhằm thực hiện mục
tiêu phát triển con người toàn diện của chủ nghĩa xã hội.
- Thứ hai, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần để tạo động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.


12

- Thứ ba, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần để nhằm góp phần giữ
vững sự ổn định và sự hoàn thiện chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội.
- Thứ tư, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần nhằm thực hiện mục
tiêu văn hóa của chủ nghĩa xã hội.
Sở dĩ đời sống văn hóa tinh thần có vai trò, vị trí và tầm quan trọng như
vậy dưới chủ nghĩa xã hội, vì mục đích của chủ nghĩa xã hội xét đến cùng là
vấn đề văn hóa và vấn đề con người. Và, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
dưới chủ nghĩa xã hội, xét đến cùng cũng là nhằm xây dựng con người phát

triển toàn diện, hướng tới chân - thiện - mỹ. Một khi có được nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và có những thế hệ con người mới xã hội chủ
nghĩa, thì chắc chắn sẽ có những nguồn động lực thực sự vững mạnh, giữ vai
trò thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đây chính là mối quan hệ giữa xây dựng đời sống văn hóa tinh thần với
việc xây dựng con người mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, chế độ chính
trị mới dưới chủ nghĩa xã hội. Không có thế hệ những con người mới vừa
“hồng”, vừa “chuyên” - sản phẩm của quá trình xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần theo đúng nghĩa của nó, thì cũng không thể tạo ra động lực để thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội được.
1.2. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH
AN GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.2.1. Một số quan điểm cơ bản của Đảng về nhiệm vụ xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một hệ thống các quan điểm lý
luận mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa
Việt Nam. Nó chắc lọc, tổng hợp và kết tinh được những giá trị văn hóa của
phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế
trong đó cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa và bản
sắc dân tộc Việt Nam [15; tr.13].
Nét đặc sắc nổi bật trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết hợp
hài hòa giữa dân tộc với quốc tế, giai cấp với nhân loại, truyền thống với hiện
đại, trên cơ sở một chủ nghĩa nhân văn tất cả vì hạnh phúc của con người, tất
cả vì sự hoàn thiện con người. Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là một di sản
vô giá, là những giá trị vĩnh cửu mà Người để lại cho dân tộc mình và cho
nhân loại. Những tư tưởng ấy không chỉ nằm trong những bài nói, mà còn nằm
trong toàn bộ hoạt động thực tiễn, trong cuộc sống, trong con người Hồ Chí
Minh, và quan trọng hơn là trong phong trào cách mạng của cả một dân tộc,



13

trong sự nghiệp vĩ đại mà Người cùng với dân tộc mình tạo dựng nên trong thế
kỉ XX, trong sự lay động con tim khối óc của hàng triệu, hàng triệu con người
trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử cách mạng, chúng ta thấy rõ Đảng ta hướng tới việc
phát triển văn hóa Việt Nam như hướng tới một chiến lược phát triển toàn diện
nền văn hóa dân tộc, tạo đà cho sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong bối cảnh
đất nước đang sục sôi khí thế chuẩn bị Cách mạng tháng Tám (1945), Đề
cương văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 có giá trị như Tuyên ngôn của Đảng
ta về văn hóa nghệ thuật. Bản Đề cương nêu ba nguyên tắc chỉ đạo đường lối
văn hóa của nước ta là: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng. Tại hội nghị Văn hóa
toàn quốc lần I được tổ chức tại Hà Nội 24/11/1946 với bài phát biểu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều ý kiến về văn hóa hết sức quan trọng. Chẳng
hạn, Người nói: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế
nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi
được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa xa xỉ. Tâm lý của ta lại muốn lấy
tự do, độc lập làm gốc. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự
chủ, độc lập, tự do, … Số phận dân ta ở trong tay ta. Văn hóa phải biết soi
đường cho quốc dân đi” [1; tr.137-138]. Chúng ta thấy rõ quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và chiến lược phát triển văn hóa. Những tư
tưởng đó không chỉ còn nguyên giá trị của nó mà có thể nói, hơn lúc nào hết
cần được quán triệt trong giai đoạn đất nước ta bước vào thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám (1945), cuộc kháng chiến dân tộc
ta bước vào thời kì quyết liệt. Trên cơ sở nắm vững được vị trí vai trò của văn
hóa, Hồ Chí Minh đã đề ra khẩu hiệu: “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa
kháng chiến”. Với khẩu hiệu trên, văn hóa đã thật sự “ở trong kinh tế và chính
trị” hoặc “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mật trận. Anh chị em là chiến sĩ

trên mặt trận ấy” [1; tr.139].
Trong khi các nhà văn hóa trên thế giới còn bàn cãi về khái niệm văn
hóa, đưa ra hàng trăm định nghĩa khác nhau, thì mấy ai biết từ năm 1942, Chủ
tịch Hồ Chí Minh có một định nghĩa rất đúng về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi


14

của sự sinh tồn” [5; tr.409]. Đây là một định nghĩa đúng nhất về khái niệm văn
hóa, được ghi nhận trong trang cuối của bản thảo Nhật kí trong tù, không quá
rộng, cũng không quá hẹp mà hoàn toàn thích hợp với con người ở những
trình độ phát triển khác nhau, ở những xã hội chưa có điều kiện phát triển cao,
cũng như xã hội có cuộc sống cao.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở
hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm tới địa chỉ đích thực, diện mạo và bản sắc của văn
hóa, đó là tính dân tộc. Trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, Người thường nói
đến “cốt cách dân tộc”, “đặc tính dân tộc”. Người đã viết rằng: “Mỗi dân tộc
phải chăm lo đặc tính dân tộc của mình trong văn nghệ” [7; tr.93]. Văn hóa
phải biết kết hợp với văn minh. Trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, văn
minh không hoàn toàn trùng khít lên văn hóa. Coi văn minh là một trình độ,
một cơ cấu kĩ thuật của xã hội và văn hóa là trình độ người, là giá trị người
của các quan hệ xã hội [11; tr.96].
Xuất phát từ quan niệm đúng đắn đó về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh

luôn luôn phấn đấu vì một xã hội có văn hóa, phấn đấu cho mọi người được
hưởng văn hóa, phấn đấu cho cả dân tộc phải có văn hóa ngang tầm thời đại.
Cho nên khi nói đến việc chống giặc dốt, Người nói: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” [1; tr.141]. Khi nói đến Đảng ta, Người đòi hỏi: “Đảng là đạo
đức là văn minh” [1; tr.141]. Nếu Đảng không có đạo đức, không văn minh thì
làm sao có thể lãnh đạo cả một dân tộc chiến thắng được những tên đế quốc
lớn như Mỹ và Pháp. Đó chính là bí quyết về sức mạnh văn hóa mà kẻ thù
không sao hiểu nổi. Ngày nay, trong xây dựng đất nước, Đảng không có đạo
đức thì làm sao đưa đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói về văn hóa và luôn luôn có hành
vi văn hóa mà hơn thế Người đã đưa ra chiến lược văn hóa khá sớm. Cũng từ
năm 1942, khi đưa ra định nghĩa về văn hóa Người đồng thời nêu lên năm
điểm lớn về chiến lược phát triển văn hóa. Đó là:
“1. Xây dựng tâm lý: lý cách, tinh thần độc lập, tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế.” [1; tr.142-143]
Có thể nói đó là năm quan điểm lớn của chiến lược văn hóa mà không
thể xem nhẹ bất cứ một điểm nào


15

Các quan điểm, tư tưởng cơ bản nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa nước ta. Những lời dạy của Người không chỉ có tầm chiến lược mà còn có
ý nghĩa chỉ đạo cụ thể trong công việc hằng ngày của chúng ta. Những tư
tưởng và tấm gương của Hồ Chí Minh về văn hóa đã được thể hiện trong

nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng ta, đặc biệt trong Đề cương văn hóa Việt
Nam (năm 1943) và trong nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa.
Nó mãi mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển nền
văn hóa nước ta.
Nối tiếp Đề cương văn hóa 1943, năm 1948, đồng chí Trường Chinh
công bố tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam ở Hội nghị văn hóa
toàn quốc lần thứ hai. Với bảy phần: Văn hóa và xã hội, lập trường văn hóa
mácxít, văn hóa Việt Nam xưa và nay, tính chất và nhiệm vụ văn hóa dân chủ
mới Việt Nam, mặt trận văn hóa thống nhất trong mặt trận dân tộc thống nhất,
văn hóa Việt Nam trong mặt trận văn hóa dân chủ thế giới và mấy vấn đề cụ
thể trong văn học và nghệ thuật nước ta hiện nay. Tác phẩm này có giá trị như
Lời giới thiệu của Nhà xuất bản Sự thật trong lần in thứ ba: “Từ đó đến nay,
26 năm đã trôi qua. Xã hội Việt Nam, cách mạng Việt Nam, văn hóa dân tộc
Việt Nam đã có nhiều biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ theo đường lối
của Đảng.
Những ý kiến của đồng chí Trường Chinh nêu trong bản báo cáo về
mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội, về lập trường văn hóa mácxit, về ưu điểm
và nhược điểm văn hóa dân tộc, về tính chất và nhiệm vụ văn hóa dân chủ mới
Việt Nam, về mặt trận văn hóa thống nhất, … Vẫn giữ nguyên giá trị, soi sáng
bước đường văn hóa của nước ta” [6; tr.23]. Trong tác phẩm, khái niệm văn
hóa được đồng chí Trường Chinh mở rộng hơn: đó là một vấn đề rất lớn, bao
gồm cả văn hoc, nghệ thuật, khoa học, triết học, phong tục, tôn giáo, … Lĩnh
vực mà Đảng ta quan tâm nhiều hơn cả lúc bấy giờ khi nói về văn hóa là đời
sống tinh thần và lối sống dân tộc, đặc biệt đối với văn học nghệ thuật – hay
nghệ thuật nói chung, bao gồm cả nghệ thuật ngôn từ, bởi đây là lĩnh vực có
nhiều đặc thù mà các lĩnh vực khác không có.
Từ tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam mà Đề cương văn hóa
1943 trình bày: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân
tộc về hình thức và dân chủ về nội dung” [6; tr.23]. Sau này, Đảng ta khẳng
định nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và

hình thức dân tộc. Đó là một bước cụ thể hơn trong việc xác định tính chất của
nền văn hóa Việt Nam.


16

Từ năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề
ra đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có lĩnh vực văn hóa. Tiếp nối những văn kiện về văn hóa đã được công bố
trước đây, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VI ra nghị quyết 05
chuyên về văn hóa văn nghệ (tháng 11-1987). Tháng 6-1988, Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VI và sau đó tháng 11-1988 Bộ Chính
trị ra nghị quyết và kết luận về công tác văn hóa văn nghệ. Ngày 8-6-1989,
Ban Bí thư ra chỉ thị số 62 – CT/TW về đổi mới và nâng cao chất lượng phê
bình văn học nghệ thuật. Ngày 21-6-1990, Ban Bí thư ra chỉ thị số 61 –
CT/TW về công tác quản lý văn hóa nghệ thuật và ngày 25-7-1990 ra chỉ thị
số 63 – CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo đổi mới trong tư duy lý luận về văn
hóa của Đảng. Quan điểm của Đảng cũng được thể chế hóa trong văn bản nhà
nước. Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể
chế hóa những quan điểm ấy. Trong chương III của Hiến pháp (1992) với
nhan đề Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, từ điều 30 đến điều 34 đề
cập đến vấn đề văn hóa ở các khía cạnh:
Một là, Nhà nước chủ trương bảo tồn phát triển nền văn hóa Việt Nam,
các di sản văn hóa dân tộc, những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, cấm truyền bá tư tưởng, văn hóa phản động, đồi trị, bài trừ mê tín,
hủ tục.
Hai là, Văn hóa có chức năng góp phần bồi dưỡng nhân cách và tinh
thần cao đẹp của con người Việt Nam, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã
hội chủ nghĩa, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác, có thuần

phong mỹ tục, xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh phúc.
Ba là, Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa; nghiêm cấm
các hoạt động văn hóa tổn hại cho lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo
đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Tháng 1-1993, Ban chấp hành Trung ương khóa VII họp hội nghị lần
thứ tư dành riêng một nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa văn nghệ những
năm trước mắt. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” [6; tr.25]. Tiếp đó, Bộ
Chính trị ra nghị quyết 09 về các định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện
nay, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, là động lực
thúc đẩy sự phát triển, là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội. Trong 6 định
hướng về công tác tư tưởng, có một định hướng lớn là phát triển văn hóa với


17

hai nội dung cơ bản: phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Điều đó chứng tỏ quan điểm đúng đắn về văn hóa và vai trò của
văn hóa đối với phát triển.
Năm 1998, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII họp Hội nghị lần thứ
năm đề ra Nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản Nghị quyết gồm ba phần:
Phần thứ nhất đề cập về thực trạng văn hóa nước ta: những thành tựu,
những mặt yếu kém, những nguyên nhân chủ yếu. Phần thứ hai đề cập phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa; năm quan điểm chỉ đạo cơ
bản; những nhiệm vụ cụ thể với 10 nhiệm vụ và những nhiệm vụ cấp bách đến
năm 2000. Phần thứ ba là những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa,
gồm bốn giải pháp: mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với
thi đua yêu nước và phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa”, xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa; nâng cao hiệu
quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Cần phải nhận thấy rằng, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn văn hóa, Đảng
ta đã nhận thức rất rõ sự cần thiết của việc ban hành một nghị quyết riêng về
văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII thực sự là một sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng và phản ánh ý nguyện
toàn dân, ở diện rộng, chiều sâu và tầm cỡ lớn lao hơn. Điểm mới thể hiện tầm
nhìn chiến lược của Đảng trong việc xây dựng nhiệm vụ của văn hóa một cách
toàn diện, một nghị quyết mang tính định hướng chiến lược lâu dài, đồng thời
đưa cả những giải pháp để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt. Điểm
mới này, một mặt thể hiện rất rõ ở những quan điểm chỉ đạo cơ bản về văn
hóa, trong đó đặc biệt là 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản về xây dựng và phát triển
văn hóa:
Thứ nhất, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ ba, Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Từ lâu đời, các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam đã gắn bó số phận vào vận mệnh chung của Tổ quốc. Đó
vừa là cơ sở chắc chắn, vừa là biểu hiện cơ bản của tính thống nhất. Tính
thống nhất còn được biểu hiện ở chỗ là các dân tộc đều có chung tiếng nói là
tiếng Việt bên cạnh tiếng nói riêng của mình


18

Thứ tư, Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ tri thúc giữ vai trò quan trọng.

Thứ năm, Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là
một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên
trì thận trọng.
Tiếp theo đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy
truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại”[15; tr.115] Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng
và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn
kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách
người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [3; tr.284]
Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn xác định văn hóa là mặt
trận mà Đảng phải lãnh đạo. Đường lối về văn hóa văn nghệ của Đảng đến
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
đã định hình, đến Đại hội lần thứ IX, X tiếp khẳng định lại tầm quan trọng của
văn hóa. Trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân hiện nay là xây dựng và phát
triển một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.2. Tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần của huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay
Văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội, có thể nói đến văn
hóa sản xuất, văn hóa nếp sống và phục vụ, văn hóa quản lý, … Trong mỗi
lĩnh vực thực tiễn xã hội, đặc tính văn hóa đều biểu hiện sức sáng tạo của con
người dưới một dạng hoạt động nào đó của nó. Hoạt động này được thực hiện
trong những hình thức sản xuất vật chất và tinh thần mang tính lịch sử – xã
hội. Sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần tương ứng được xem như hai lĩnh
vực cơ bản của sự phát triển văn hóa
Văn hóa tinh thần (hay văn hóa phi vật thể) là loại văn hóa bao gồm các
giá trị tinh thần đã được thừa nhận. Văn hóa tinh thần tồn tại dưới dạng những
sản phẩm đã thành thạo các hoạt động tinh thần: tri thức khoa học, tác phẩm
nghệ thuật, những chuẩn mực đạo đức và pháp quyền, … Văn hóa tinh thần

không chỉ biểu hiện đơn giản bằng các sản phẩm hoạt động tinh thần mà còn
bằng nội dung sáng tạo của hoạt động này cùng với những quan hệ giữa người
với người đã xác lập trong tiến trình hoạt động.
Lao động sáng tạo ra những giá trị tinh thần là nền tảng của toàn bộ
hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực văn hóa tinh thần. Không có


19

sáng tạo trong sản xuất thì không nói tới việc bảo quản, phân phối, trao đổi và
sử dụng giá trị tinh thần. Sản xuất tinh thần là yếu tố cấu trúc hệ thống cơ bản
của văn hóa tinh thần.
Văn hóa có ảnh hưởng đến đời sống xã hội, ngay từ chào đời và lớn
lên, con người đã gắn liền với những phong tục tập quán, nếp sống và những
thói quen thường nhật nơi mình sinh ra. Đó chính là văn hóa. Văn hóa đã in
sâu vào tâm trí mỗi người, hình thành nên bản sắc riêng của mỗi người, mỗi
dân tộc. Văn hóa chính là sản phẩm của hoạt động của con người, con người
luôn chịu ảnh hưởng của nền văn hóa nơi mình sinh ra và lớn lên. Tuy nhiên,
con người cũng luôn tác động vào văn hóa, làm nó thay đổi cho phù hợp với
yêu cầu của con người, theo sự phát triển của con người.
Con người sinh ra không thể trở thành con người ngay được mà phải
trải qua quá trình giao tiếp với rất nhiều mối quan hệ chằng chịt, mặt khác con
người phải thông qua giáo dục bởi giáo dục là đặc trưng cơ bản để con người
tồn tại và phát triển và từ giáo dục mà con người có văn hóa. Văn hóa và giáo
dục rất gắn bó với nhau, nói đúng hơn văn hóa bao gồm cả giáo dục, khoa học,
nói đến văn hóa là nói đến trình độ tri tri thức, học vấn.
Trong quá trình sinh sống của mình, con người luôn có những nhu cầu
về vật chất cũng như tinh thần, con người luôn muốn thỏa mãn những nhu cầu
này. Tuy nhiên, con người khó có thể thỏa mãn hết những nhu cầu vì thỏa mãn
những nhu cầu này thì nhu cầu khác sẽ xuất hiện. Do đó, văn hóa là điều kiện

để con người có thể kiềm chế được những nhu cầu thấp kém của mình. Bởi
trong những hoàn cảnh cụ thể hành động của con người sẽ được chấp nhận,
tuy nhiên chỉ ở mức nhất định nào đó. Văn hóa sẽ là thước đo để đánh giá
hành vi của con người thông qua các hoạt động của con người trong cuộc
sống.
Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa còn có ảnh hưởng rất quan trọng đối
với sự phát triển đất nước. Vai trò văn hóa ngày càng được coi trọng đối với
sự phát triển kinh tế – xã hội. Văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển. Ngày nay, vấn đề phát triển là vấn hàng đầu của mọi quốc gia, đồng
thời là thách thức hết sức gay gắt đối với toàn nhân loại. Cần phát huy những
nguồn lực nào để phát triển và làm gì để ngăn ngừa những tiêu cực phát sinh
trong quá trình phát triển đang là câu hỏi lớn đối với từng quốc gia. Chính
trong điều kiện đó, vai trò của văn hóa được thừa nhận một cách chính xác.
Những ý kiến coi văn hóa đứng ngoài kinh tế hay lệ thuộc một cách thụ động
vào kinh tế không còn được chấp nhận. Tuy nhiên, không vì vậy mà đặt vị trí
văn hóa cao hơn kinh tế mà cần đặt chúng trong sự gắn bó để cùng hướng tới


20

mục tiêu phát triển. Những thành tựu hoặc vấp váp trong quá trình phát triển
kinh tế – xã hội ở nhiều nước trên thế giới đều chứng minh tầm quan trọng của
nhân tố văn hóa, trước hết là có bảo vệ, phát triển được hay không những tiềm
năng phong phú và đặc sắc của văn hóa dân tộc đối với sự phát triển của đất
nước. Sự đúng đắn hay sai lạc trong định hướng phát triển văn hóa đều đưa
đến thành công hay thất bại không riêng cho văn hóa mà cho cả kinh tế và mọi
mặt khác của đới sống xã hội, đặc biệt là về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Ở Viêt Nam hiện nay, giao lưu văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển
của mọi nền văn hóa và mọi xã hội từ xưa đến nay. Bởi không có nền văn hóa
nào dù lớn hay có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu lại có thể tiếp tục phát triển

trong một địa bàn khép kín, biệt lập, tách rời sự tiếp xúc các nền văn hóa khác.
Giao lưu văn hóa là điều kiện để phát triển, tuy nhiên làm sao để không mất đi
bản sắc của dân tộc là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Do đó, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là mục tiêu của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta trong giai đoạn hiện nay
Khái quát về huyện Phú Tân
Huyện Phú Tân của tỉnh An Giang; Bắc giáp huyện Tân Châu, đường
ranh giới dài 22,294 km; Đông giáp sông Tiền, ngăn cách với huyện Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp; Nam giáp huyện Chợ Mới; ranh giới sông Vàm Nao;
Tây giáp sông Hậu, ngăn cách với huyện Châu Phú. Về hành chính, huyện bao
gồm thị trấn Phú Mỹ, thị trấn Chợ Vàm và 17 xã là: Long Sơn, Long Hoà, Phú
Lâm, Phú Long, Phú Hiệp, Phú Thạnh, Hoà Lạc, Phú Thành, Phú An, Phú
Thọ, Hiệp Xương, Phú Bình, Phú Xuân, Bình Thạnh Đông, Phú Hưng, Tân
Hoà, Tân Trung [14].
Phú Tân là huyện cù lao, diện tích tự nhiên 33.100 ha, thuận lợi cho việc
phát triển trồng trọt, nhất là cây lúa và nuôi trồng thuỷ sản. Huyện có tới trên
85% dân số theo đạo Hoà Hảo. Huyện có những công trình kiến trúc nổi tiếng
như: chùa Giồng Thành, thánh đường Mubarak [14].
Đặc sản nổi tiếng của huyện là bánh phồng Phú Mỹ. Làng nghề bánh
phồng Phú Mỹ hình thành, tồn tại và phát triển gần 70 năm nay, có 50 cơ sở
sản xuất, thu hút khoảng 300 lao động. Trong đó, các gia đình nổi tiếng có
truyền thống làm bánh như gia đình cụ Lê Minh Dơn, Ngô Thị Dờn, Trần Văn
Tâm, ... Nguyên liệu làm bánh phồng là loại nếp đặc sản được trồng tại Phú
Tân. Bánh phồng Phú Mỹ nhỏ bằng cái dĩa nhưng nướng chín phồng to hơn
cái quạt nan. Bánh vừa xốp, vừa mềm, có vị béo của nếp, vị ngọt của đường,
mùi thơm của sữa, mè, đậu nành, đậu phộng, ... Những năm qua, bánh phồng
Phú Mỹ được người tiêu dùng ưa chuộng nên làng nghề phát triển mạnh và


21


sản xuất quanh năm, nhộn nhịp nhất là tháng giáp Tết. Các kỳ hội chợ hay
triển lãm tại An Giang, Cần Thơ hoặc thành phố Hồ Chí Minh, bánh phồng
Phú Mỹ đều có mặt trong gian hàng trưng bày sản phẩm đặc sản của An
Giang. Làng bánh phồng Phú Mỹ đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang
công nhận làng nghề truyền thống vào cuối năm 2006. Nếu có dịp đến An
Giang, bánh phồng Phú Mỹ là một món quà rất có ý nghĩa để du khách mang
về làm quà cho người thân [14].
Khái quát về con người Phú – Tân – An Giang
Với đặc điểm sinh thái địa lí vừa thuận lợi vừa khó khăn của vùng đất
Miền Nam, quá trình đấu tranh cho cuộc sống mới đã để lại những dấu ấn
riêng. Trong đời sống văn hóa và tâm linh của những lưu dân người Việt vừa
kế thừa và phát huy những tôn giáo đã du nhập vào Việt Nam trước đó như:
Kito giáo, Phật giáo, Hồi giáo, ... Vừa góp phần tạo nên một bản sắc Nam Bộ
mà đặc biệt là sự hình thành những tôn giáo bản địa từ nữa cuối thế kỷ XIX
đến quá đầu thế kỷ XX: Bửu Sơn Kì Hương, Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Đạo Dừa, …
Do đặc điểm của người dân Nam bộ là “ăn ngay nói thẳng” nên những
từ ngữ, hình ảnh của họ dùng mang tính hình tượng rất cao để dễ diễn đạt ý
muốn nói. Đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ là giàu tính hình tượng cụ thể,
giàu hình ảnh và giàu chất hài.Tính giàu hình tượng cụ thể, có thể là một đặc
trưng của ngôn ngữ Nam Bộ.
Nói đến nghệ thuật ca hát dân ca cổ truyền Nam Bộ chúng ta sẽ nghĩ
ngay đến các loại hình nghệ thuật phổ biến như: Đờn ca tài tử, cải lương,
tuồng, ... Và một kho tàng dân ca nhạc cổ phong phú. Có được kho tàng âm
nhạc độc đáo như vậy cũng nhờ Nam Bộ có sự đa dạng và hài hòa giữa con
người và thiên nhiên. Lễ hội Nam Bộ còn có nội dung tưởng niệm những anh
hùng lịch sử địa phương thời cận đại, những người có công khai hoang mở
đất, bảo vệ đất nước (Nguyễn Trung Trực, Trương Định, …) bắt nguồn từ nhu
cầu bảo đảm liên kết cộng đồng để sống còn trước những thử thách nghiệt ngã

của tự nhiên và kẻ thù xâm lược .
Người nông dân Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp
nối thế hệ trước cải tạo tự nhiên, phòng chống thú dữ trên rừng, dưới nước để
sản xuất và bảo vệ sản xuất. Ðể tồn tại và phát triển giống nòi, sản xuất và bảo
vệ sản xuất tất yếu các gia đình nông dân trong họ tộc, trong xóm làng liên kết
lại (hợp tác) lao động đổi công phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông rạch, làm
đường giao thông: Săn bắn thú dữ, cưu mang đùm bọc “thương nguời như thể
thương thân” giúp đỡ nhau chén cơm manh áo, con giống, hạt giống, đúng với


×