Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.89 KB, 86 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường đầy năng động như hiện nay, các doanh nghiệp đều phải
đối mặt với những khó khăn và nhiều thách thức lớn. Do đó, để tồn tại và phát triển, các
doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới tư duy, tác phong công việc và đặc biệt là đổi
mới khoa học công nghệ tiên tiến để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu và xu thế thị trường.
Bên cạnh đó, sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
cùng các cơng ty trong nước làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay
gắt và khốc liệt hơn.
Qua thực tiễn nghiên cứu, em nhận thấy cơng tác phân tích tài chính tại các doanh
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ chứng minh và khẳng định thế mạnh của các
doanh nghiệp mà cịn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, có rất
nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình thực trạng tài chính của các doanh nghiệp với rất
nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là các nhà quản lý, nhà đầu tư và cá nhân, tổ chức
trực tiếp cho doanh nghiệp vay. Do đó sự chính xác, kịp thời và khoa học của cơng tác
phân tích tài chính doanh nghiệp cùng những dự án khả thi sẽ giúp các nhà quản trị tài
chính có chiến lược phát huy thế mạnh một cách hợp lý, sẽ tạo niềm tin vững chắc cho
các nhà đầu tư yên tâm rót vốn đầu tư và đặc biệt là thu hút một nguồn vốn dồi dào từ
những người cho vay.
Tuy nhiên công tác phân tích tài chính hiện nay chưa được các doanh nghiệp quan tâm
một cách thích đáng, cách thức tổ chức phân tích và phương pháp phân tích cịn nhiều
vướng mắc. Là một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính, nhận thức được tầm quan
trọng của việc phân tích tài chính doanh nghiệp và những kiến thức được trang bị trong

Đào Thị Thanh Thủy


Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2

suốt quá trình học, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cơng tác phân
tích tài chính của Cơng ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I” nhằm đưa ra một số
biện pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả của cơng tác phân tích tài chính trên cơ sở
đánh giá tình hình tài chính của Cơng ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình cơng tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y
Trung ương I.
- Đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại Cơng ty cổ
phần thuốc thú y Trung ương I.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động phân tích tài chính của Cơng ty cổ
phần thuốc thú y Trung ương I. Chuyên đề đi sâu vào nghiên cứu cách thức tổ chức,
phương pháp phân tích và các thơng tin sử dụng trong q trình phân tích tài chính tại
cơng ty.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Chỉ nghiên cứu hoạt động phân tích tài chính của Cơng ty cổ phần
thuốc thú y Trung ương I.
- Về thời gian: Giai đoạn 2006-2008.
- Về giác độ nghiên cứu: Nghiên cứu trên giác độ vi mô.
4. Kết cấu đề tài
Tên đề tài “Nâng cao chất lượng cơng tác phân tích tài chính của Cơng ty cổ phần thuốc
thú y Trung ương I”


Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

3

Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng cơng tác phân tích tài chính Cơng ty cổ phần thuốc thú y Trung
ương I.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác phân tích tài chính tại Cơng ty cổ
phần thuốc thú y Trung ương I.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


4

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thu thập và xử lý các thông tin kế tốn và các

thơng tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh
giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính,
quyết định quản lý phù hợp.
Q trình vận động và chuyển hố các nguồn lực tài chính trong q trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, kết
quả kinh tế tài chính của sự vận động và chuyển hố ra sao, có phù hợp với mục tiêu
mong muốn của các đối tượng quan tâm đến tài chính doanh nghiệp là đối tượng nghiên
cứu cụ thể của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị tài chính là bằng cách nào để duy trì sự
tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế đầy thách thức như hiện nay. Đó chính là
nguy cơ rủi ro phá sản của doanh nghiệp, được thể hiện chủ yếu và trực tiếp qua sự biến
động của các nhóm chỉ số khả năng thanh tốn, khả năng cân đối vốn cũng như khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp trong q trình hoạt động kinh doanh. Qua đó, các nhà quản trị
tài chính sẽ đánh giá một cách tồn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa
ra những dự báo chuẩn xác về kết quả hoạt động trong tương lai để từ đó có biện pháp
hỗ trợ, cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hơn. Có thể nói phân tích tài chính
được coi là cơ sở cho những dự báo tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.

1.2. Chức năng của phân tích tài chính

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

5


Ngày nay phân tích tài chính đã trở thành một nội dung được các nhà quản lý quan tâm
và khai thác một cách triệt để nhằm phát huy tối đa tính hữu ích của cơng cụ này. Tùy
theo từng loại hình doanh nghiệp và mục đích nghiên cứu mà phân tích tài chính có
những chức năng mang tính chất đặc thù khác nhau. Tựu chung lại, phân tích tài chính
có những chức năng cơ bản sau: Chức năng đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động kinh
doanh; chức năng đánh giá và giám sát nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh đạt hiệu quả
cao; chức năng điều chỉnh; chức năng dự báo.
Chức năng thứ nhất là đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Có thể nói vốn là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và vận hành của bất cứ
doanh nghiệp nào. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính
đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hơn thế, vốn còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp
doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, vốn không những
là cơ sở để doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng khả năng sản xuất, tăng cường mạng
lưới phân phối mà cịn có thể giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay
hơn nữa là loại bỏ họ bằng những chính sách marketing khơn khéo, tăng cường quản
cáo, giảm giá, khuyến mại,…Do đó, phân tích tài chính chính cần phải tính tốn được
nhu cầu vốn, cách thức lựa chọn và huy động vốn với những ước lượng chi phí cụ thể
nhằm tối thiểu hố chi phí mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra. Đặc biệt, huy động vốn
thành cơng cịn phải kết hợp với việc sử dụng vốn hiệu quả, vì vậy phân tích tài chính
cịn phải vạch ra phương hướng quản lý vốn tối ưu.
Chức năng thứ hai là đánh giá, giám sát nhằm đảm bảo kết quả hoạt động kinh doanh
đạt hiệu quả cao. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các
luồng vận động của nguồn lực tài chính trong q trình tạo lập, phân phối và sử dụng các
quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật. Các luồng đó vận động như thế nào, các nhân tố tác động
đến sự chu chuyển cũng như những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

6

nghiệp như thế nào, có phù hợp với mục tiêu kinh doanh đã đề ra hay khơng, có phù hợp
với cơ chế chính sách hiện hành khơng,…là những vấn đề mà phân tích tài chính phải
làm rõ. Chính những kết quả được cung cấp bởi phân tích tài chính sẽ là cơ sở để các
nhà quản lý nhân thức được những thành tựu cũng như hạn chế của các quan hệ tài
chính, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp một cách liên tục.
Chức năng thứ ba là điều chỉnh. Sự thực là hệ thống các quan hệ tài chính của doanh
nghiệp khơng phải ln tồn tại dưới một hình thức truyền thống mà có thể biến hố dưới
nhiều hình thái khác nhau tại các thời điểm và các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế.
Các quan hệ tài chính này sẽ ổn định nếu doanh nghiệp biết duy trì sự kết hợp giữa các
nhân tố của chúng một cách hài hoà. Do đó, muốn quản trị tài chính một cách hiệu quả
cần phải hiểu rõ được nội dung, hình thức cũng như bản chất của các mối quan hệ tài
chính phát sinh. Phân tích tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối
tượng quan tâm khác nhận thức được vấn đề này.
Thứ tư là dự báo. Bên cạnh những chức năng trên, phân tích tài chính cịn giúp doanh
nghiệp dự báo được tình hình tài chính trong tương lai. Bất kì một doanh nghiệp nào
trong quá trình hoạt động đều đặt ra những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong tương lai,
do đó, nhờ những dự báo tài chính trên, doanh nghiệp có thể điều chỉnh mục tiêu sao cho
phù hợp nhất. Tuy nhiên, những dự báo tài chính này khơng phải là những dự báo chung
chung mà phải được chi tiết hoá bằng những con số để doanh nghiệp có chiến lược điều
chỉnh từng khoản cụ thể.
Với những chức năng trên, nhiệm vụ của bộ phận phân tích tài chính là phải cung cấp
những thơng tin chính xác và đầy đủ về tất cả các mặt tài chính của mình. Hơn nữa, phân
tích tài chính doanh nghiệp để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm đảm

bảo và phân phối vốn cho sản xuất kinh doanh, hoặc để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
trong kinh doanh, tình hình thanh tốn, tính tốn và lượng hóa các nhân tố tác động đến

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chun đề thực tập tốt nghiệp

7

tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và khai thác
triệt để tiềm năng của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả kinh doanh cao nhất.
1.3. Vai trị của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính của doanh nghiệp mà tiêu biểu là phân tích báo cáo tài chính của
doanh nghiệp là việc kiểm tra, đối chiếu và so sánh kết quả hiện tại với quá khứ trong
một thời gian đủ dài nhằm đánh giá thực trạng, hiệu quả kinh doanh, tiềm năng hoặc
những rủi ro trong tương lai. Các báo cáo tài chính được xem là nguồn thông tin chủ yếu
của các nhà phân tích tài chính sử dụng tại các doanh nghiệp bởi lẽ các báo cáo tài chính
là tài liệu tổng hợp tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm phân
tích, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong cả kỳ kinh doanh. Các báo cáo tài chính
khơng chỉ rất hữu dụng với các nhà quản lý doanh nghiệp mà nó cịn là đối tượng được
rất nhiều chủ thể quan tâm. Đó chính là các nhà đầu tư, các ngân hàng hay các nhà tài trợ
doanh nghiệp,…
1.3.1. Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp
Các nhà quản lý doanh nghiệp là những người trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý
doanh nghiệp, là những người trực tiếp ra quyết định về chiến lược sản xuất kinh doanh,
những chính sách tác động đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nên trước hết bản
thân họ phải là những người am hiểu sâu sắc về tài chính doanh nghiệp, do đó họ cần

tổng hợp rất nhiều thơng tin từ các nguồn khác nhau phục vụ cho quá trình phân tích của
mình. Các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao
khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Họ cũng chính là những người phải giải quyết những
vấn đề quan trọng nhất của tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm giúp các nhà quản lý đưa ra những chiến lược
đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp. Từ việc phân tích tình hình, hiệu quả sử dụng tài sản
của doanh nghiệp, các nhà quản lý sẽ cân nhắc nên tập trung đầu tư vào loại tài sản nào
cho phù hợp.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

8

Bên cạnh đó, dựa vào việc phân tích diễn biến sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn, các
nhà quản trị tài chính sẽ nhận định về tình cân đối vốn của doanh nghiệp, từ đó quyết
định tăng giảm tỷ trọng các khoản mục nguồn vốn và nguồn cũng như cách thức huy
động vốn một cách hợp lý nhất. Để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, doanh nghiệp có
thể tiến hành vay ngắn hạn (có thể sử dụng tín dụng ngân hàng hay tín dụng thương
mại), hay có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hoặc vay dài hạn trên thị trường tài
chính,…Để đưa ra quyết định dùng hoàn toàn vốn chủ sở hữu, vay nợ hay sử dụng kết
hợp nợ và vốn chủ sở hữu với tỷ lệ bao nhiêu, các nhà quản trị tài chính cần tính tốn
tổng chi phí đối với mỗi phương thức huy động nhằm huy động với một mức chi phí
thấp nhất.
Phân tích tài chính cũng là cơng cụ để kiểm tra, kiểm sốt hoạt động, quản lý trong
doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản lý sẽ sử dụng công cụ này để đưa ra các chiến lược

tài chính ngắn hạn nhằm quản lý hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp, chủ
yếu là liên quan đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hơn nữa các hoạt
động tài chính gắn liền sự vận động của dịng tiền nhập quỹ và xuất quỹ, vì thế các nhà
quản trị tài chính cần xử lý để duy trì sự chênh lệch giữa chúng sao cho phù hợp nhất.
Như vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp là những người trực tiếp chịu trách
nhiệm về việc chỉ đạo các hoạt động tài chính và căn cứ vào thực trạng tình hình tài
chính để định hướng cho giám đốc doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết định đầu
tư, tài trợ hay kế hoạch chi trả cổ tức và dự báo tài chính. Các quyết định của các nhà
quản trị tài chính nhằm mục đích duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh
khả năng phá sản, tăng khả năng cạnh tranh mở rộng thị phần, tối thiểu hố chi phí, tối
đa hố lợi nhuận và duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Doanh nghiệp có hoạt động hiệu
quả hay khơng là phụ thuộc nhiều vào sự đúng đắn của các quyết định của nhà quản lý.
Muốn làm được điều đó, bản thân các nhà quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần đảm
bảo chất lượng cơng tác phân tích tài chính tốt nhất có thể.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

9

1.3.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Trước hết, các nhà đầu tư cần biết những thơng tin về tình hình tài chính của doanh
nghiệp để quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay khơng. Họ có thể là những cổ
đơng, cá nhân, các doanh nghiệp hoặc các đơn vị khác, và vấn đề quan tâm chủ yếu của
các nhà đầu tư là mức sinh lời của khoản vốn, thời gian hoàn vốn cũng như mức độ rủi
ro khi đầu tư vào doanh nghiệp.

Với doanh nghiệp cổ phần hóa, trước khi đưa ra quyết định đầu tư, các nhà đầu tư quan
tâm đến giá trị của doanh nghiệp mà chủ yếu là giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp tại thời
điểm đầu tư. Những nhà đầu tư là những người giao vốn cho các nhà quản lý doanh
nghiệp sử dụng, vì thế rủi ro tiềm ẩn luôn là mối đe doạ nguồn vốn của họ. Đặc biệt,
những rủi ro này được phản ánh trực tiếp qua sự biến động của giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán và sự sụt giá của chúng có thể là nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
Do vậy, các nhà đầu tư luôn phải cân nhắc giữa lợi nhuận kỳ vọng và mức độ rủi ro phải
gánh chịu. Các nhà đầu tư phải thông qua chun gia phân tích tài chính để nắm bắt
được thơng tin về tình hình hoạt động, tình hình kết quả kinh doanh cũng như lợi nhuận
hàng năm của doanh nghiệp thơng qua các bản báo cáo phân tích tài chính được cung
cấp bởi các nhà quản lý, từ đó có thể dự đoán triển vọng phát triển của doanh nghiệp
trong tương lai và có chiến lược phân bổ nguồn vốn của mình cho hiệu quả.
Phần thu nhập của cổ đơng bao gồm phần cổ tức được chia và phần giá trị tăng thêm của
cổ phiếu trên thị trường. Do đó, các cổ đơng đặc biệt quan tâm đến chính sách phân phối
lợi nhuận và cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp. Nếu cơng tác phân tích tài chính hiệu quả
dẫn đến một cơ cấu tài trợ hợp lý giữa nợ và vốn chủ sở hữu sẽ giúp doanh nghiệp vừa
tăng vốn đầu tư lại tăng giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp và thu nhập trên mỗi cổ phiếu.
Mặt khác, các cổ đông chỉ chấp nhận giảm việc chi trả cổ tức để tăng lợi nhuận giữ lại
phục vụ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nếu những kết quả phân tích tài chính của

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

10

công ty khẳng định quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng và sẽ đạt được một mức thu

nhập cao hơn trong tương lai.
Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp ln là vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên
suốt của các nhà đầu tư.
1.3.3. Đối với những người cho doanh nghiệp vay vốn
Đây có thể là các ngân hàng thương mại, các nhà cung cấp tín dụng thương mại, những
người cho doanh nghiệp vay vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trước khi
đưa ra quyết định cho vay, họ phải nắm chắc được khả năng hoàn trả tiền vay và thu
nhập (tức lãi tiền vay) là bao nhiêu, liệu nó có xứng đáng với khoản vốn mà họ đã bỏ ra
hay khơng. Do đó, những người cho vay, họ quan tâm đến phân tích tài chính nhằm xác
định khả năng trả nợ (tức khả năng thanh toán lãi vay) của khách hàng. Trong nội dung
phân tích này, có sự khác biệt giữa khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán
dài hạn. Nếu là các khoản vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng
thanh tốn ngay của doanh nghiệp, nói cách khác thì đó là khả năng đối phó của doanh
nghiệp khi các khoản vay đến hạn phải thanh toán. Nếu là các khoản cho vay dài hạn,
người cho vay phải tin khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong
khi việc hoàn trả vốn và lãi lại phụ thuộc vào chính khả năng sinh lời này.
Nếu đứng ở vị trí các chủ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thì họ chủ yếu quan
tâm đến khả năng thanh tốn của doanh nghiệp mà điển hình là khả năng thanh toán tức
thời, khả năng chuyển hoá các tài sản ngắn hạn nhanh chóng thành tiền. Hơn nữa, họ
cũng quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là tỷ trọng của vốn chủ sở
hữu trong tổng nguồn vốn, bởi lẽ nguồn vốn này chính là nguồn bảo hiểm cho khoản tiền
mà họ cho doanh nghiệp vay. Nhưng nếu là các nhà cung ứng vật tư hàng hóa, dịch vụ
cho doanh nghiệp, họ cần biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và
trong thời gian sắp tới để quyết định xem có nên cho phép khách hàng mua chịu hay
không.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

11

Ngoài những đối tượng kể trên cịn có những người lao động và các cơ quan quản lý
Nhà nước cũng rất quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi lẽ, kết quả
hoạt động của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến khoản thu nhập chính của người lao
động, và các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện phân tích tài chính để đánh giá,
kiểm tra và kiểm sốt hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính có thực hiện
theo đúng chính sách, chế độ Nhà nước quy định hay khơng,…
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính vốn là một q trình phức tạp địi hỏi người phân tích phải có kiến
thức tổng hợp và có kế hoạch phân tích cụ thể, tỉ mỉ như: Lập quy trình phân tích tài
chính, chỉ rõ những thơng tin phục vụ cho q trình phân tích, phải xác định rõ phương
pháp phân tích và cuối cùng là phải thiết lập các nội dung sẽ phải làm rõ trong q trình
phân tích. Cụ thể, những cơng việc cần phải làm như sau:
1.4.1. Quy trình phân tích tài chính
Tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thiết lập trình tự các bước cần phải phải
tiến hành cho cơng tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Q trình phân tích tài
chính chỉ thực sự hiệu quả khi các nhà quản trị. Một quy trình phân tích thong thường
bao gồm các bước chính sau:
Bước một là lập kế hoạch phân tích. Đây là bước đầu tiên nhưng lại địi hỏi phải có thời
gian chuẩn bị chu đáo bởi lẽ giai đoạn này tác động và ảnh hưởng lớn đến cả q trình
phân tích. Một quy trình phân tích nếu có giai đoạn đầu được chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ
sẽ là bước khởi đầu tốt cho những giai đoạn về sau. Giai đoạn này bao gồm tất cả các
cơng việc như: Xác định mục tiêu phân tích và xây dựng chương trình phân tích. Mục
tiêu phân tích phải đáp ứng nhu cầu phân tích ở thời điểm phân tích nhưng cũng phải
phù hợp với loại hình doanh nghiệp và đặc thù nền kinh tế hiện tại, không xác định
những mục tiêu xa rời thực tế, phải gắn chặt với những yêu cầu cấp thiết của doanh


Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

12

nghiệp. Và kế hoạch phân tích cũng cần phải xác định rõ nội dung phân tích, phạm vi và
thời gian phân tích cũng như những thơng tin cần thiết cho q trình phân tích.
Bước hai là tiến hành phân tích. Đây là q trình triển khai, tiến hành thực hiện những
công việc đã vạch ra trong bước đầu. Cụ thể, các công việc cần phải hoàn thành trong
bước này như sau: tập hợp tài liệu, xử lý số liệu; tính tốn các chỉ tiêu phân tích; xác
định ngun nhân và tính tốn cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu
phân tích; xác định và dự đốn các nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp; tổng hợp kết quả và rút ra nhận xét, kết luận về thực trạng
tài chính của doanh nghiệp. Q tình phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng moi
nguồn thơng tin có khả năng chứng minh, giải thích cho thực trạng tình hình tài chính
nhằm đưa ra các dự báo tài chính chuẩn xác. Những nguồn thơng tin đó bao gồm các
thơng tin nội bộ của doanh nghiệp và các nguồn thơng tin bên ngồi khác, trong đó tập
trung vào các thơng tin trong bảng báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khi có được các thông
tin cung cấp từ các nguồn khác nhau, các nhà phân tích phải xử lý thơng tin theo góc độ
nghiên cứu của mình nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các mục tiêu đề ra.
Bước ba là đưa ra kết quả phân tích. Đây là bước cuối cùng của q trình phân tích tài
chính và điều quan trọng nhất là các nhà phân tích phải đưa ra các quyết định tài chính.
Bước này bao gồm các cơng việc cụ thể như sau: Viết báo cáo về tình hình tài chính của
doanh nghiệp; Nêu định hướng phát triển và các giải pháp khắc phục, cải thiện tình hình
tài chính của doanh nghiệp.


1.4.2. Những thơng tin phục vụ cho q trình phân tích tài chính của doanh
nghiệp.
Để có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách tồn diện và hiệu quả,
các nhà quản trị tài chính phải sử dụng rất nhiều thông tin từ các nguồn cung cấp khác
nhau. Những nguồn đó có thể là do chính bản thân doanh nghiệp cung cấp hoặc cũng có

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

13

thể là do những nguồn bên ngồi doanh nghiệp như các chế độ kế tốn hiện hành, chuẩn
mực kế toán do Nhà nước ban hành và u cầu thực hiện,v.v…Những thơng tin đó bao
gồm:
1.4.2.1. Thơng tin hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Như đã nói ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp cần sử dụng rất nhiều thông tin từ
các nguồn khác nhau, bao gồm cả thông tin bên trong và bên ngồi doanh nghiệp. Trong
các nguồn thơng tin nội bộ thì các báo cáo tài chính là nguồn thơng tin đặc biệt cần thiết,
bởi lẽ các báo cáo tài chính là sản phẩm của quá trình thu thập, xử lý, tổng hợp thành.
a) Thông tin phản ánh trong bảng báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính có nhiệm vụ cung cấp cho người sử dụng những thơng tin hữu ích
cho việc ra các quyết định kinh doanh, liên quan đến việc phân phối và sử dụng các
nguồn lực của đơn vị cũng như trong việc tính tốn các chỉ tiêu tài chính khác. Và cơng
việc phân tích tài chính dựa vào các báo cáo tài chính đó được gọi là xử lý các báo cáo
kế tốn. Thơng thường cơ cấu của một bảng báo cáo tài chính bao gồm bốn bảng nhỏ:

Bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ van cuối
cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Nội dung của các bảng báo cáo này như sau:
Thứ nhất là bảng cân đối kế toán (CĐKT): Là một báo cáo tài chính mơ tả tình trạng tài
chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Đây là một báo cáo tài chính có
ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh tế và quan
hệ quản lý với doanh nghiệp bởi lẽ nó phản ánh tổng qt tình hình tài sản, nguồn vốn
của doanh nghiệp tại thời điểm phân tích dưới hình thái tiền tệ, được xem như là một
bức chụp nhanh vị thế tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích bảng CĐKT sẽ cho cái
nhìn tổng qt về tình hình tăng giảm, cơ cấu và hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của
doanh nghiệp. Bảng CĐKT của doanh nghiệp bao gồm hai phần lớn: Phần tài sản và
Phần nguồn vốn.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

14

Bảng 1.1. Bảng cân đối kế tốn
Tại ngày…tháng…năm
Đơn vị tính:…
TÀI SẢN
A. TÀI SẢN NGẮN HẠN
I. Tiền và các khoản tương tiền
II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
III. Các khoản phải thu ngắn hạn
IV. Hàng tồn kho

V. Tài sản ngắn hạn khác
B. TÀI SẢN DÀI HẠN
I. Các khoản phải thu dài hạn
II. Tài sản cố định
III. Bất động sản đầu tư
IV. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
V. Tài sản dài hạn khác
TỔNG CỘNG TÀI SẢN

NGUỒN VỐN
A. NỢ PHẢI TRẢ
I. Nợ ngắn hạn
II. Nợ dài hạn

B. VỐN CHỦ SỞ HỮU
I. Vốn chủ sở hữu
II. Nguồn kinh phí và quỹ khác

TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN

Nguồn QĐ số 15/2006/QĐ-BTC

Phần tài sản: Bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tài sản của phản ánh tiềm lực
mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng dài hạn nhằm thu được lợi nhuận trong
tương lai (nếu đứng trên giác độ pháp lý), nhưng phần tài sản cũng cho phép đánh giá
quy mô vốn, năng lực sản xuất của doanh nghiệp (nếu xét trên giác độ kinh tế).
Phần nguồn vốn: Bao gồm phần nợ doanh nghiệp phải trả(ngắn hạn và dài hạn) và phần
vốn chủ sở hữu. Đứng trên giác độ pháp lý, phần nguồn vốn của doanh nghiệp khẳng
định trách nhiệm pháp lý về vật chất của doanh nghiệp đối với những cá nhân, tổ chức
cho doanh nghiệp vay hay các bên góp vốn với doanh nghiệp. Cụ thể hơn, phần nguồn

vốn phản ánh doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với số vốn đã đăng kí kinh doanh và
với các khoản nợ của mình. Đứng trên giác độ kinh tế, phần nguồn vốn phản ánh nguồn
hình thành nên tài sản, kết cấu nguồn vốn và cũng phần nào khái quát được khả năng
độc lập tài chính (qua cơ cấu vốn) và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

15

Tóm lại, bảng CĐKT đã giúp các chun gia phân tích tài chính có cái nhìn tổng qt về
tình hình tài chính của doanh nghiệp, sự biến động của tài sản và nguồn vốn của doanh
nghiệp, tình hình phân bổ và sử dụng nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán của
doanh nghiệp qua các khoản phải thu và phải trả.
Thứ hai là bảng báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD). Một thông tin không kém phần
quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thơng tin phản ánh trong
BCKQKD. Khác với bảng CĐKT, bảng BCKQKD cho biết sự dịch chuyển của tiền
trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng
hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. BCKQKD giúp các nhà phân tích so sánh
doanh thu với tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc so sánh tổng chi phí
phát sinh với tổng số tiền xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.Trên cơ sở doanh thu và
chi phí có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh là lãi hay là lỗ,…Như vậy,
BCKQKD phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài
chính của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Nó cung cấp những thơng tin tổng
hợp về tình hình van kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình
độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.

Nội dung của một bảng BCKQKD thường bao gồm các khoản mục như: Doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản giảm trừ doanh thu, doanh thu thuần về bán hàng
và cung cấp dịch vụ, giá vốn hàng bán, lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ ,
doanh thu hoạt động tài chính, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản
lý doanh nghiệp, lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập khác, chi
phí khác, lợi nhuận khác, tổng lợi nhuận kế tốn trước thuế, chi phí thuế thu nhập hiện
hành, chi phí thuế thu nhập hỗn lại, lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp van thu
nhập vốn cổ phần. Qua bảng BCKQKD nhà phân tích tài chính có thể tính tốn các chỉ
số lợi nhuận trên tổng doanh thu và vốn là bao nhiêu, từ đó tính được tốc độ tăng trưởng
của kì này so với các kì trước,…

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

16

Thứ ba là bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT). BCLCTT là một trong bốn báo
cáo tài chính bắt buộc mà mỗi doanh nghiệp đều phải cung cấp cho người sử dụng thông
tin của doanh nghiệp. Nếu bảng CĐKT cho biết tài sản hiện có và nguồn vốn của doanh
nghiệp; BCKQKD cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính kết quả lỗ lãi của một kì
kinh doanh, thì bảng BCLCTT được lập và phản ánh luồng tiền vào ra, số dư tại thời
điểm đầu kỳ và cuối kỳ kinh doanh, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Có thể
nói, đây là bảng có giá trị và ý nghĩa đối với tất cả các đối tượng quan tâm đến tình hình
tài chính của doanh nghiệp vì nó phản ánh khả năng quản lý dịng tiền, khả năng tạo tiền,
tình hình thu chi bằng tiền và những rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp. Thông thường mỗi
bảng BCLCTT bao gồm ba phần: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh,

lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường.
Cuối cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính (TMBCTC). Bảng này được lập nhằm
cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo
tài chính, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các bản báo cáo tài chính
chưa được trình bày nhằm giúp cho người đọc phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài
chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng
CĐKT và BCKQKD.Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế tốn và
đơn vị tiền tệ sử dụng khi trình bày báo cáo tài chính, những tuyên bố về chuẩn mực kế
toán và chế độ kế toán mà kế toán doanh nghiệp sử dụng để hình thành nên các bản báo
cáo tài chính, những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các
chính sách kế tốn mà doanh nghiệp đang sử dụng,…Bảng này trình bày 7 chỉ tiêu để cụ
thể hóa các chỉ tiêu trong bảng CĐKT. Những chỉ tiêu này bao gồm: Đặc điểm hoạt
động của doanh nghiệp (trụ sở và loại hình pháp lý của doanh nghiệp, Quốc gia đã
chứng nhận tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, các tính chất nghiệp vụ, ngành nghề
kinh doanh và hoạt động chính của doanh nghiệp); chính sách kế toán áp dụng tại doanh
nghiệp (doanh nghiệp đang sử dụng chế độ kế toán theo Quyết định nào của Bộ Tài
chính và tình hình chấp hành các chuẩn mực kế toán của Nhà nước như thế nào); chi tiết

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

17

một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (sự thay đổi đột biến của các chỉ tiêu như tiền
mặt, hàng tồn kho,…); giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh (giải trình sự thay đổi của vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí trả

trước ngắn hạn và dài hạn,…); phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực
trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (doanh nghiệp sử dụng phương
pháp nào để đánh giá tình hình tài chính của mình); đánh giá tổng quát các chỉ tiêu; các
kiến nghị. Qua bảng TMBCTC, tình hình thanh tốn các khoản phải thu và phải trả là
một trong những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất của hoạt động tài chính. Nếu phân
tích tài chính lành mạnh, doanh nghiệp có thể điều chỉnh các khoản phải thu để giảm hẳn
các khoản phải trả, tránh tình trạng tranh chấp, nợ kéo dài ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Sử dụng bản TMBCTC sẽ tăng tính khách quan và phù hợp của
các kết quả phân tích.
b) Những thơng tin hỗ trợ khác
Đó là những thơng tin về chiến lược, sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong thời
kì, những thơng tin về tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo
lập, phân phối và sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh tốn. Những thơng tin này
được các nhà quản lý giải trình qua các nghiệp vụ hạch toán thống kê, hạch toán nghiệp
vụ,v.v…
1.4.2.2. Thông tin kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất-kinh doanh
của doanh nghiệp
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế chính trị, mơi trường kinh tế pháp luật, cơ hội
đầu tư và cơ hội về kinh tế kỹ thuật,…có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thối hay tăng trưởng của nền kinh tế có tác động
mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thị
trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó có tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Để quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước tổ chức các cuộc

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


18

thăm dò thị trường, triển vọng phát triển trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ thương
mại,… và chính những kết quả điều tra đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược kinh
doanh trong thời kì của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng thuận
lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng lên
và do đó, kết quả kinh doanh trong năm là khả quan, và ngược lại, khi các biến động của
nền kinh tế bất lợi đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gây hậu
quả khó mà lường trước được. Chính vì vậy, muốn kết quả phân tích đảm bảo tính khách
quan, các nhà phân tích phải kết hợp các thơng tin bên trong và bên ngồi doanh nghiệp.
a) Ảnh hưởng của ngành kinh tế tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Đây là các thông tin mà kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mang tính chất
của nền kinh tế. Đặc điểm của ngành kinh tế liên quan đến nhịp độ phát triển của các
chu kỳ kinh tế, đến tính chất của các sản phẩm doanh nghiệp sản xuất, liên quan đến quy
trình cơng nghệ kỹ thuật mà doanh nghiệp ứng dụng trong quá trình kinh doanh, liên
quan đến cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp( ngành công nghiệp nặng hay công nghiệp
nhẹ, chính những cơ cấu này lại liên quan đến vòng quay vốn, lợi nhuận hay khả năng
sinh lời của doanh nghiệp).
b) Ảnh hưởng của chính sách tới hoạt động của doanh nghiệp
Nguồn thông tin này cũng rất phong phú và đa dạng. Chính sách của Đảng và Nhà nước
có thể có tác động tích cực nhưng cũng có thể gây khó dễ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh cho doanh nghiệp. Có thể đơn cử như chính sách của Chính phủ về hoạt động tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nếu Chính phủ can thiệp tốt làm giảm lãi suất cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, cải thiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, chính sách của Nhà nước cũng là một trong
những yếu tố tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính


Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

19

Để tiến hành quá trình phân tích tài chính, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp rất
nhiều phương pháp phân tích khác nhau, có thể là phương pháp so sánh, phương pháp
đối chiếu, phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ,…nhưng chủ yếu các nhà phân tích
sử dụng một số biện pháp cơ bản như: Phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và
phương pháp tài chính Dupont.
1.4.3.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính để đánh giá kết
quả, vị trí và xu hướng biến đổi của các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Đây là cơng
cụ dùng để phân tích nhằm phản ánh khuynh hướng, tốc độ nhanh chậm của các chỉ tiêu.
Vì vậy, sự biến đổi cùng hướng hay ngược chiều với khuynh hướng tốt thì cần tìm hiểu
nguyên nhân rõ ràng để có biện pháp xử lý sao cho phù hợp nhất.
Thứ nhất, khi so sánh phải tồn tại ít nhất hai chỉ tiêu để tiến hành so sánh. Các chỉ tiêu sử
dụng phải đảm bảo so sánh được. Đồng thời, khi so sánh cần phải thống nhất về đơn vị
đo lường, thời gian tính tốn và phương pháp tính tốn.
Thứ hai, khi so sánh phải xác định được gốc so sánh. Gốc được sử dụng để làm đại
lượng so sánh có thể tại một thời điểm hoặc cũng có thể là kết quả tổng kết của một kì.
Khi lấy gốc so sánh là trị số của chỉ tiêu tại một thời điểm trong quá khứ thì sẽ xác định
được xu hướng và tốc độ phát triển của các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, năm sử
dụng để lấy số liệu so sánh phải đảm bảo là năm hồn tồn bình thường, khơng có biến
động đặc biệt nào. Và khi so sánh tình hình kết quả đã đạt được so với kế hoạch đề ra thì
gốc được chọn làm so sánh phải là trị số của chỉ tiêu tại kỳ kế hoạch. Khi cần xác định vị

thế của doanh nghiệp trong ngành thì cần lấy gốc so sánh có thể là trị số trung bình
ngành hoặc chính xác hơn nữa là trị số trung bình của một số doanh nghiệp cùng ngành.
Thứ ba, khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp cần thống nhất về nội dung và cơ cấu
của các chỉ tiêu. Khi không so sánh được các trị số tuyệt đối hoặc kết quả so sánh tuyệt
đối khơng có ý nghĩa kinh tế thì các nhà phân tích có thể chuyển sang so sánh các chỉ

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

20

tiêu tương đối. Trong quá trình phân tích có thể sử dụng cả các trị số tuyệt đối, các chỉ
số tương đối và các trị số bình quân. Trị số bình quân phản ánh mặt chung nhất của chỉ
tiêu, nó san bằng mọi sự chênh lệch về trị số của chỉ tiêu. Ngay cả trị số bình qn cũng
có thể tồn tại dưới hình thức trị số tuyệt đối và tương đối( như tỷ lệ %). Nếu chỉ phân
tích dựa trên những trị số tương đối thì khơng thể phản ánh đúng các mặt bên trong của
doanh nghiệp, vì vậy để kết quả phân tích khách quan và đầy đủ, các nhà phân tích nên
sử dụng kết hợp chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương đối.
Hơn nữa, khi áp dụng phương pháp so sánh này, người phân tích khơng chỉ dừng lại ở
việc so sánh giữa các năm với nhau mà phải so sánh với cả các doanh nghiệp khác trong
ngành, đặc biệt là đối thủ cạnh tranh để thấy rõ được điểm mạnh, điểm yếu, từ đó có
chiến lược phát triển cho phù hợp.
1.4.3.2. Phương pháp tỷ số
Phương pháp tỷ số là phương pháp này sử dụng các tỷ số để phân tích và đây cũng là
một phương pháp truyền thống được áp dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Đó
là các chỉ số được thiết lập bởi chỉ tiêu này với các chỉ tiêu khác. Những nội dung cần

tiến hành khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ số tài chính hồn chỉnh là: Xác định
đúng cơng thức đo lường chỉ tiêu phân tích; Xác định đúng số liệu từ các báo cáo tài
chính để lắp vào cơng thức tính; Giải thích ý nghĩa của tỷ số vừa tính tốn; Đánh giá tỷ
số vừa tính(cao, thấp hay phù hợp); Rút ra kết luận về tình hình tài chính của doanh
nghiệp; Phân tích các nhân tố ảnh hưởng; Nêu các khuyến nghị và cuối cùng là viết báo
cáo phân tích.
Sử dụng phương pháp này sẽ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả các số liệu và
phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo
từng giai đoạn. Phương pháp này sẽ cho hiệu quả phân tích cao nếu các điều kịên sử
dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Theo nguyên tắc, phương pháp này đòi hỏi
cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

21

doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy,
phương pháp này luôn được sử dụng với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi
phân tích, các nhà quản trị tài chính thường kết hợp phương pháp so sánh như so sánh
theo thời gian(so sánh các tỷ số của kỳ phân tích và các kỳ trước đó), theo khơng gian(so
sánh với tỷ số trung bình ngành, với tỷ số trung bình của các doanh nghiệp tương tự) để
đánh giá tình hình thực trạng tài chính của doanh nghiệp cũng như vị thế tài chính của
doanh nghiệp trong ngành kinh doanh.
1.4.3.3. Phương pháp tài chính Dupont
Nếu chỉ đánh giá riêng biệt bất cứ một loại chỉ tiêu tài chính nào đều khơng đủ để đánh

giá một cách tồn diện hiệu quả tài chính và thành quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Phải có q trình tổng hợp phân tích các chỉ tiêu và nắm vững ý nghĩa của các chỉ số tài
chính thì mới đánh giá được một cách hợp lý và tồn diện tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Do đó, trên cơ sở đã nắm vững các phương pháp đánh giá cơ bản năng lực kinh
doanh, năng lực thanh toán, khả năng sinh lợi,..của doanh nghiệp, nhà phân tích cần phải
đánh giá tổng hợp hiệu quả tài chính. Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để tổng
hợp nhưng phương pháp chủ yếu nhất được các nhà phân tích quan tâm và ứng dụng là
phương pháp tài chính Dupont. Đây là phương pháp phân tích các chỉ số tài chính dựa
trên tỷ lệ so sánh với doanh thu được áp dụng rất hiệu quả tại cơng ty Dupont nên sau
đó gọi là phương pháp tài chính Dupont, được nhiều nhà quản trị áp dụng trong phân
tích mối quan hệ giữa lợi nhuận và các tỷ số khác dựa trên doanh thu. Bản chất của
phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp
như thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) và mức sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) thành
tích số của một chuỗi các tỷ số có liên quan phản ánh mối quan hệ nhân quả giữa các
nhân tố với nhau. Nhờ cách phân tích này, các nhà quản trị tài chính sẽ phân tích được
ảnh hưởng của các tỷ số đó đến tỷ số tổng hợp, sẽ nhận biết được nguyên nhân dẫn đến
các biểu hiện tốt, xấu của doanh nghiệp. Từ đó các nhà quản lý nội bộ doanh nghiệp có

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


22

Chun đề thực tập tốt nghiệp

thể có cái nhìn cụ thể và ra quyết định xem nên cải thiện tình hình tài chính của doanh
nghiệp bằng cách nào.
Phương pháp này sử dụng các cơng thức như:

TNST

TS

ROE =

×
TS
VCSH
ROA × EM (Hệ số nhân vốn)
TS
1
=
VCSH
VCSH

=
Trong đó:

EM =

TS
1

1
=

=
Tổng Nợ
1 -


1 – Hệ số nợ
TS
TNST

ROA =

×
DT

Trong đó:

DT
TS

=
PM × AU
PM là doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh
thu của doanh nghiệp.
AU là hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.

Đây là phương pháp mang nét đặc trưng riêng so với các phương pháp trên bởi chính ưu
điểm của nó là giúp các nhà quản trị tài chính biết được nguyên nhân chính dẫn đến sự
tăng giảm của ROE và ROA.
1.4.4. Nội dung phân tích
1.4.4.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

23

Vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn nhiều
hay ít, tăng hay giảm, phân phối cho từng khâu, từng giai đoạn có phù hợp hay khơng sẽ
ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích
sự biến động của nguồn vốn (diễn biến nguồn vốn) và tình hình sử dụng vốn của doanh
nghiệp sẽ đánh giá được tình hình tăng giảm vốn, phân bổ vốn như thế nào và từ đó
đánh giá việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay khơng. Một cơng cụ hữu
ích của các nhà quản lý tài chính là sử dụng là bảng tài trợ, từ đó sẽ có thể xác định được
nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng vốn.
Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường hay xem xét sự
thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một
thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Để lập được bảng này,
trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ
đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo
nguyên tắc: Sử dụng vốn (tăng tài sản hoặc giảm vốn) và nguồn vốn (giảm tài sản hoặc
tăng vốn).
Khi phân tích diễn biến vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích ln
quan tâm đến việc phân tích tình hình nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có
tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn được tài trợ tương ứng bởi các nguồn
ngắn hạn và dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong
khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn
hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác. Nguồn vốn dài hạn là
nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho việc kinh doanh của mình, bao gồm có
nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vay nợ trung và dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết

được đầu tư cho tài sản dài hạn, sau đó phần dư mới đầu tư cho tài sản ngắn hạn. Chênh
lệch giữa nguồn vốn ngắn hạn và nợ ngắn hạn được gọi là nguồn vốn lưu động thường

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

24

xuyên. Tăng tài sản dài hạn (như tăng tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vơ
hình,v.v…) kết hợp với giảm nguồn vốn dài hạn (như giảm vốn chủ sở hữu do kinh
doanh lỗ, hoàn trả các khoản nợ trung và dài hạn) sẽ làm tăng vốn lưu động thường
xuyên này. Ngược lại, khi tăng nguồn vốn dài hạn (như phát hành thêm cổ phiếu làm
tăng vốn chủ sở hữu, tăng khoản vay nợ dài hạn,v.v…) cùng với giảm nguồn vốn dài
hạn (như thanh lý tài sản cố định,v.v…) sẽ làm giảm nguồn vốn lưu động thường xuyên.
Vốn lưu động thường xuyên phản ánh mức độ an toàn cho doanh nghiệp bởi lẽ nếu
nguồn vốn lưu động thường xuên tăng lên, nó thể hiện phần lớn tài sản dài hạn được tài
trợ bởi nguồn vốn dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, doanh nghiệp phải tăng nợ
dài hạn, bởi nếu khối lượng nợ dài hạn tăng lên sẽ tăng nguồn chi phí tài chính, dẫn tới
giảm kết quả kinh doanh. Nếu tăng vốn lưu động thường xuyên chỉ bằng cách tăng vốn
chủ sở hữu thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ được cải thiện , nhưng doanh
nghiệp sẽ phải chịu chi phí sử dụng vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền
kiểm sốt doanh nghiệp. Do đó, mọi quyết định huy động vốn và sử dụng vốn phải cân
nhắc kỹ lưỡng.
Có thể nói, việc lập bảng nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở tiến hành phân tích tình
hình tăng giảm nguồn vốn, việc sử dụng vốn, chỉ ra trọng điểm đầu tư vốn và những
nguồn vốn và những nguồn chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn của doanh

nghiệp. Từ đó có biện pháp khai thác tốt các nguồn vốn và nâng cao sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
1.4.4.2. Phân tích các tỷ số tài chính
Trong phân tích tài chính, phương pháp phân tích tỷ số tài chính thường được phân
thành bốn nhóm chính: Nhóm tỷ số về khả năng thanh tốn, nhóm tỷ số về khả năng cân
đối vốn hoặc cơ cấu vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng
sinh lãi. Hầu hết, các nhà phân tích tài chính thường quan tâm đến sự lành mạnh của tình
hình tài chính doanh nghiệp, khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn hay khơng. Nhưng

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

25

tùy vào mục tiêu phân tích và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà các
nhà phân tích sẽ đi sâu vào các nhóm tỷ số khác nhau. Ví dụ như đứng trên địa vị của
người cho vay, họ chỉ quan tâm chủ yếu đến nhóm khả năng thanh tốn của doanh
nghiệp. Hoặc nếu là các nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp, những cổ đơng, thì họ quan
tâm chủ yếu đến tỷ số khả năng sinh lãi của doanh nghiệp vì họ không trực tiếp quản lý
doanh nghiệp mà giao vốn cho các nhà quản lý, do đó cái đích cuối cùng mà họ quan
tâm là thu nhập thực mà họ thu được là bao nhiêu.
Các chỉ số tài chính cung cấp khá nhiều thơng tin về tình hình tài chính doanh nghiệp
nhưng nó sẽ càng chính xác hơn nếu nó được so sánh trong một thời kỳ tương đối dài.
Bản thân các tỷ số chỉ là các con số nhưng nếu các nhà phân tích biết cách sử dụng nó
hiệu quả thì sẽ là những con số “biết nói”, và để làm được điều đó, các nhà phân tích
phải tìm hiểu được mối liên hệ giữa các nhóm tỷ số, có như thế thì kết quả phân tích mới

khách quan và tồn diện được. Mỗi nhóm tỷ số phân tích có thể chứa đựng rất nhiều các
chỉ số khác nhau nhưng việc chọn lựa chỉ số nào, số lượng bao nhiêu là tùy thuộc vào
quy mô của hoạt động phân tich.
1.4.4.2.1. Nhóm tỷ số về khả năng thanh tốn
Khả năng thanh tốn là một thuật ngữ tài chính - kế tốn dùng để so sánh giữa tài sản và
nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có khả năng thanh tốn
cao khi lượng tài sản của doanh nghiệp lớn hơn số nợ mà doanh nghiệp phải trả. Do đó
cũng có thể đo lường khả năng thanh toán bằng cách so sánh tài sản ngắn hạn và nợ ngắn
hạn.
Việc phân tích khả năng thanh tốn của doanh nghiệp khơng chỉ hữu ích đối với các chủ
nợ mà còn hữu dụng đối với các nhà quản lý của doang nghiệp, bởi lẽ nhờ q trình
phân tích này mà các nhà quản trị tài chính biết được khả năng chi trả của doanh nghiệp,
từ đó điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với tình hình tài chính doanh
nghiệp.

Đào Thị Thanh Thủy

Tài chính doanh nghiệp 47B


×